Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên trong tục ngữ Việt Nam

Từ xa xưa người Việt Nam đã có nhận thức về mối quan hệ biện

chứng giữa con người với giới tự nhiên. Điều đó thể hiện qua những triết lý

được gửi gắm trong kho tàng tục ngữ. Bài viết phân tích các biểu hiện của triết

lý dân gian về nguồn gốc tự nhiên của con người, về khả năng cải tạo, chinh

phục tự nhiên của con người, về sự cần thiết phải tôn trọng, bảo vệ tự nhiên.

pdf 8 trang dienloan 5640
Bạn đang xem tài liệu "Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên trong tục ngữ Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên trong tục ngữ Việt Nam

Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên trong tục ngữ Việt Nam
Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên... 
 103 
TRIẾT LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI 
VÀ GIỚI TỰ NHIÊN TRONG TỤC NGỮ VIỆT NAM 
BÙI VĂN DŨNG* 
Tóm tắt: Từ xa xưa người Việt Nam đã có nhận thức về mối quan hệ biện 
chứng giữa con người với giới tự nhiên. Điều đó thể hiện qua những triết lý 
được gửi gắm trong kho tàng tục ngữ. Bài viết phân tích các biểu hiện của triết 
lý dân gian về nguồn gốc tự nhiên của con người, về khả năng cải tạo, chinh 
phục tự nhiên của con người, về sự cần thiết phải tôn trọng, bảo vệ tự nhiên. 
Từ khóa: Người Việt Nam, triết lý, mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên. 
Ngay từ khi mới xuất hiện, con người 
đã có mối quan hệ với giới tự nhiên. 
Con người vẫn có thể tồn tại được trong 
một thời gian nhất định nếu bị tách rời 
môi trường xã hội, nhưng con người 
không thể sống nếu thiếu không khí để 
thở, nước uống, thức ăn, không thể sản 
xuất nếu thiếu đất, nước, ánh sáng... Đối 
với những cư dân nông nghiệp lúa nước 
vốn sinh sống, lao động phụ thuộc chặt 
chẽ vào giới tự nhiên, thì người ta càng 
ý thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa 
con người và giới tự nhiên. 
Người Việt Nam trong quá trình sống 
gắn bó, đấu tranh, chinh phục tự nhiên 
cũng đã nhận thức được một cách sâu 
sắc mối quan hệ này, nhận thức đó thể 
hiện qua những triết lý gửi gắm trong 
kho tàng tục ngữ. Những triết lý đó là: 
Thứ nhất, con người là sản phẩm của 
tự nhiên, sống phụ thuộc vào tự nhiên 
Trong khi các nhà triết học tốn rất 
nhiều thời gian để tranh luận về nguồn 
gốc của con người, thì nhân dân lao 
động, từ rất lâu trước đó, đã nhận thức 
một cách tự giác rằng: con người là sản 
phẩm của giới tự nhiên và gắn bó khăng 
khít với giới tự nhiên. Trong số 4.160 
câu tục ngữ trong công trình Tục ngữ 
Việt Nam (của Chu Xuân Diên - Lương 
Văn Đang - Phương Tri) có 535 câu, 
(chiếm 12,86 %) đề cập đến giới tự 
nhiên. Điều ấy cho thấy, người Việt 
Nam luôn xem tự nhiên và mối quan hệ 
với giới tự nhiên là một trong những 
mối quan tâm hàng đầu của mình.(*) 
Khi khẳng định nguồn gốc tự nhiên 
của con người, người Việt Nam có quan 
niệm duy vật khi khẳng định: Người ta 
là hoa đất. Con người không phải là 
thực thể tách khỏi hoàn toàn giới tự 
nhiên, mà bản thân con người là một 
phần của giới tự nhiên. Tư tưởng đó thể 
hiện một triết lý sâu sắc: Con người là 
(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Vinh. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014 
 104 
tinh hoa của đất trời, là một thực thể 
phát triển cao của giới tự nhiên, luôn 
gắn kết với giới tự nhiên. Đây là quan 
niệm duy vật. Đây cũng là một quan 
niệm rất biện chứng. 
Tuy nhiên, họ cũng có quan niệm duy 
tâm khi lí giải nguồn gốc của con người. 
Theo quan niệm của họ, trời và đất là 
hai đối tượng tối cao của giới tự nhiên 
có quyền năng tạo dựng ra muôn loài. 
Điều đó thể hiện qua các câu tục ngữ 
như: Trời sinh, trời dưỡng; Trời sinh 
voi, trời sinh cỏ... Trời sinh ra và nuôi 
dưỡng vạn vật theo quy luật riêng của 
nó. Chính vì vậy, con người không nên 
bi quan, mà nên có niềm tin vào sức 
mạnh của tự nhiên. Tất cả mọi điều 
trong cuộc sống có được dường như đều 
là “nhờ trời”. Trong quan hệ với trời, 
người là đối tượng bị phụ thuộc, không 
ai có thể đoán được ý trời: Người tính 
không bằng trời tính. Trời quyết định 
mọi điều, từ tính nết cho đến sinh mệnh: 
Cha mẹ sinh con, trời sinh tính; Trời 
kêu ai nấy dạ. Không chỉ tạo sinh vạn 
vật, trời còn tạo điều kiện sống cho tất 
cả mọi người, không phân biệt đối xử: 
Trời chẳng đóng cửa ai. Trời đại diện 
cho công lý, công bằng xã hội: Trời nào 
có dung kẻ gian, có oán người ngay. 
Dù đôi lúc người Việt Nam cũng có 
tư tưởng “coi trời bằng vung”, giận gì 
thì người ta cũng nhằm trời mà kêu, 
chửi, trút giận. Nhưng không thể phủ 
nhận rằng, trong tiềm thức, người Việt 
Nam luôn xem trời là đấng tạo sinh 
muôn loài. Người Việt Nam có tục lệ 
thờ cha trời, mẹ đất. Bánh chưng và 
bánh dày cũng được hình tượng hóa từ 
mô hình trời tròn, đất vuông. Có chuyện 
gì thì người Việt Nam xưa và cả nay đều 
“lạy trời”; thậm chí thần thánh hóa trời. 
Chẳng hạn, người Việt Nam thường kêu 
“trời ơi”; họ tin rằng con người nếu làm 
điều gì trái với đạo trời, thì sẽ bị “trời 
đày”, “trời đánh”... Đây thực sự là một 
kiểu sùng bái tự nhiên, thần thánh hóa tự 
nhiên - một quan niệm khá phổ biến 
không chỉ ở Việt Nam. Quan niệm này 
còn được thể hiện rõ nét hơn trong quan 
niệm về ông bà thần Bếp (sứ giả của 
Ngọc Hoàng xuống trần thế cai quản 
mọi mặt cuộc sống của con người, hàng 
năm về trời để bẩm báo). Trời như vậy 
vừa là đấng liêng thiêng, chi phối cuộc 
sống con người một cách toàn diện, lại 
vừa là lực lượng bình thường. Điều đó, 
thể hiện tính chất “nhị nguyên” trong 
quan niệm về giới tự nhiên của người 
Việt Nam. 
Khi con người là một thực thể gắn kết 
giữa cái sinh vật và xã hội, con người là 
một phần của giới tự nhiên, thì mọi hoạt 
động của con người không tách khỏi 
giới tự nhiên mà gắn kết chặt chẽ với 
giới tự nhiên. Ngay từ thời xa xưa, 
người Việt Nam đã nhận thức được thế 
giới tự nhiên luôn vận động và biến đổi 
theo quy luật khách quan mà con người 
không thể chi phối: Sóng trước đổ đâu, 
Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên... 
 105 
sóng sau đổ đó; Trăng đến rằm thì trăng 
tròn/Sao đến tối thì sao mọc; Còn da 
lông mọc, còn chồi nẩy cây. Vì là sản 
phẩm của tự nhiên, nên con người sống 
phụ thuộc vào các quy luật tự nhiên và 
không thể thoát khỏi những quy luật đó: 
Chạy trời không khỏi nắng; Chạy mưa 
không khỏi trời. Sự nhận thức này thậm 
chí đã chứa đựng tư tưởng biện chứng 
(dù vẫn còn sơ khai) về sự vận động, 
phát triển của giới tự nhiên. Theo người 
Việt Nam, sự vật trong tự nhiên phát 
triển đến một độ nào đó (lượng) sẽ tạo 
thành sự chuyển đổi về chất: Tre già, 
măng mọc; Tức nước vỡ bỡ; Quá mù ra 
mưa; Góp gió thành bão; Góp cây nên 
rừng; Mèo già hóa cáo... Chính vì nhận 
thức như vậy, nên người Việt Nam 
thường có cái nhìn lạc quan, tin tưởng 
vào tương lai và rất tôn trọng các quy 
luật vốn có của tự nhiên. 
Trong quá trình sống, do phải dựa vào 
tự nhiên, phải thừa hưởng từ tự nhiên, 
luôn cố gắng tìm cho mình cái ăn, cái 
mặc, chỗ ở và luôn luôn đấu tranh với tự 
nhiên để vươn lên với mức sống cao hơn. 
Cho nên, người Việt Nam đã nhận thức 
được sự tác động của tự nhiên đối với 
sản xuất, vai trò quyết định của tự nhiên 
đối với sản xuất nông nghiệp: Tháng 
giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà; 
Được mùa lúa, úa mùa cau; Được mùa 
cau, đau mùa lúa; Được mùa quéo, héo 
mùa chiêm. Trăng tỏ hay mờ cũng quyết 
định đến sự sinh trưởng của vật nuôi, cây 
cối: Tỏ trăng mười bốn được tằm/Tỏ 
trăng hôm rằm thì được lúa chiêm; 
Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu. 
Hiệu quả sản xuất thậm chí phụ thuộc cả 
vào số ngày trong một tháng: Thiếu 
tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ. 
Như vậy, có thể thấy, vì người Việt 
Nam là những cư dân nông nghiệp lúa 
nước, sinh sống và sản xuất phụ thuộc 
phần lớn vào tự nhiên, nên mối quan hệ 
giữa người Việt Nam với tự nhiên là vô 
cùng khăng khít. Tự nhiên là nguồn gốc, 
là môi trường sinh sống mà con người 
phải tuân thủ “luật chơi” của nó. Điều 
này phù hợp với tư tưởng của C.Mác 
sau này khi ông khẳng định giới tự 
nhiên là “thân thể vô cơ” của con người. 
Dù con người có khả năng cải tạo, tác 
động trở lại một cách chủ động và tích 
cực, nhưng cả đời sống vật chất và tinh 
thần của con người vẫn gắn bó khăng 
khít với tự nhiên. Điều này khiến cho 
người Việt Nam có thái độ tôn trọng, 
sùng bái và ý thức bảo vệ tự nhiên tích 
cực, tự giác. 
Thứ hai, con người có khả năng 
chinh phục và cải tạo tự nhiên 
Một điều khá đặc biệt trong quan 
niệm, cách ứng xử của con người Việt 
Nam với tự nhiên là ở chỗ tuy nhận thức 
mình là một bộ phận của tự nhiên, sống 
phụ thuộc vào tự nhiên, nhưng người 
Việt Nam cũng cho rằng, mình có khả 
năng nhận thức, chinh phục và cải tạo tự 
nhiên. Không thể ỷ lại thiên nhiên, không 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014 
 106 
thể chỉ thừa hưởng những cái gì có sẵn 
trong tự nhiên để thỏa mãn cho nhu cầu 
của mình, mà cần phải nhận thức, lợi 
dụng và cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải 
phục vụ cho cuộc sống của mình. 
Người Việt Nam luôn nhận thức được 
ranh giới khác nhau giữa việc chinh 
phục và chinh phạt tự nhiên. Tự nhiên 
có đời sống riêng của nó mà con người 
không thể thay đổi. Do vậy, bằng tư duy 
biện chứng rất linh hoạt, uyển chuyển 
của mình, người Việt Nam thiên về việc 
chinh phục tự nhiên theo hướng lợi dụng 
các quy luật tự nhiên để phục vụ lợi ích 
của mình. Ví như, họ căn cứ vào thời 
tiết nắng, mưa để sắp xếp công việc sao 
cho phù hợp: Bao giờ đom đóm bay ra/ 
Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng; 
Nắng sớm thì đi trồng cà, mưa sớm thì ở 
nhà phơi thóc. Đây là một kinh nghiệm 
dự báo thời tiết: vào thời vụ trồng cà, 
nếu sáng sớm mà có nắng, thì chiều lại 
mưa (lúc đó cà mới được trồng thì dễ 
bén rễ), nếu lác đác mưa buổi sớm, thì 
chiều sẽ nắng to (thóc phơi sẽ được 
nắng). Họ còn căn cứ vào điều kiện địa 
hình đất đai để quyết định canh tác cây 
gì: Ruộng cao trồng mầu, ruộng sâu cấy 
lúa chiêm. Trong tục ngữ, nhân dân lao 
động hay có xu hướng khuyên con 
người lợi dụng, nương theo các hiện 
tượng tự nhiên để hoạt động sao cho đạt 
hiệu quả: Trồng trầu đắp nấm cho cao/ 
Che cho sương nắng khỏi vào gốc cây; 
Mồng tám tháng tám không mưa/Bỏ cả 
cày bừa mà nhổ lúa đi... Vì cây trầu 
không thể chịu được địa hình đất trũng, 
sương nắng sẽ làm cây chết, nên cần có 
biện pháp khắc phục điều này bằng cách 
đắp đất cao và che chắn mưa gió kĩ 
càng. Hay nếu như tháng tám vào giai 
đoạn lúa trỗ đòng, nếu có mưa thì lúa 
tốt, không có mưa sẽ báo hiệu đại hạn, 
mùa màng sẽ bị thất bát, có trồng cũng 
thất thu, vô ích (Tất nhiên, đó chỉ là 
trong điều kiện thủy lợi chưa phát triển, 
sản xuất phụ thuộc hoàn toàn vào tự 
nhiên). Có thể thấy, bản chất quá trình 
chinh phục tự nhiên của người Việt 
Nam là nương theo, lợi dụng quy luật, 
điều kiện tự nhiên để định hướng hoạt 
động hiệu quả, biến cái bất lợi thành có 
ích chứ không phải là sự thay đổi tự 
nhiên theo ý muốn của mình. Tư tưởng 
của người Việt Nam truyền thống là 
sống thuận hòa, làm bạn, hợp tác với tự 
nhiên một cách linh hoạt, uyển chuyển 
chứ không phải thống trị tự nhiên. Điều 
này có nguyên nhân từ những hạn chế 
về trình độ khoa học kỹ thuật cũng như 
tư tưởng tôn trọng, thần thánh hóa tự 
nhiên đã ăn sâu, bén rễ trong tiềm thức 
của người Việt Nam từ ngàn xưa. 
Bên cạnh tư tưởng chinh phục tự 
nhiên, thông qua tục ngữ, người Việt 
Nam còn có nhận thức được khả năng 
của mình trong việc cải tạo tự nhiên (ở 
một mức độ nào đó). Mối quan hệ giữa 
con người, xã hội loài người với giới tự 
nhiên là mối quan hệ tác động qua lại 
Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên... 
 107 
lẫn nhau, trong đó con người tác động 
vào tự nhiên nhằm tạo ra những biến đổi 
có lợi phục vụ cho lợi ích của mình. Sự 
tác động đó không phải là vô thức mà là 
một hoạt động có ý thức của con người. 
Người Việt Nam rất đề cao công sức 
của con người trong việc cải tạo thiên 
nhiên, đặc biệt là các điều kiện thiên 
nhiên trong nông nghiệp, để tạo ra hiệu 
quả sản xuất cao. Lịch sử dân tộc đã cho 
thấy, ngay từ thời xa xưa, người Việt 
Nam đã biết đắp đập, be bờ chống lũ lụt; 
đào kênh, mương để dẫn nước; vỡ 
hoang, khai khẩn để mở rộng diện tích 
canh tác... Chính vì vậy, người Việt 
Nam nhận thức được sâu sắc ý nghĩa 
của việc bỏ công sức, thời gian trong lao 
động sản xuất để khắc phục những điều 
bất lợi từ thiên nhiên. Họ biết rằng, nếu 
lao động chăm chỉ, con người sẽ có cái 
ăn, cái mặc, bởi vì trời, đất không phụ 
người bao giờ: Tay làm hàm nhai, tay 
quai miệng trễ; Một lượt tát, một bát 
cơm. Nếu chăm chỉ làm cỏ cho lúa thì 
hiệu quả mang lại ngang tầm với bón 
phân cho đất: một nắm cỏ, một giỏ phân. 
Mặc dù điều kiện khí hậu không thuận 
lợi, nhưng nếu đầu tư chăm bón “mạ 
già, ruộng ngấu”, thì sự bất lợi ấy trở 
nên chẳng đáng kể: Tua rua thì mặc tua 
rua/ Mạ già ruộng ngấu không thua bạn 
hiền. Như vậy, dù có những lúc cái nhìn 
của người Việt Nam về tự nhiên vẫn 
mang màu sắc duy tâm, siêu hình, 
nhưng người Việt Nam cũng đã nhận 
thức được khả năng vươn lên làm chủ 
của con người trong việc chinh phục và 
cải tạo các điều kiện tự nhiên. Điều này 
cho thấy tính chất duy vật trong cái nhìn 
của người Việt Nam về tự nhiên. 
Thứ ba, con người cần tôn trọng và 
bảo vệ tự nhiên 
Người Việt Nam rất tôn trọng các lực 
lượng tự nhiên. Họ xem các lực lượng tự 
nhiên là thứ của cải quý giá trời ban 
tặng cho con người. Trong nông nghiệp, 
đất và nước được xem như yếu tố hàng 
đầu, quyết định hiệu quả sản xuất: Tấc 
đất tấc vàng; Hòn đất nỏ bằng giỏ 
phân; Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ 
giống... Gió cũng được xem như là lực 
lượng hỗ trợ đắc lực, làm lao động của 
con người đỡ tốn sức: Gió thổi là chổi 
trời; Gió đông là chồng lúa chiêm/ Lúa 
bắc là duyên lúa mùa... Trong quá trình 
lao động sản xuất, người Việt Nam lại 
có xu hướng xem tự nhiên là bạn, đối xử 
rất thân tình: Con trâu là đầu cơ nghiệp. 
Con trâu chính là tài sản quý giá, là điều 
khởi đầu mang lại sự khá giả, gây dựng 
cả cơ nghiệp cho gia đình. Người và trâu 
không phải là quan hệ chủ - vật nuôi, mà 
là những người bạn gắn bó thân tình, 
cùng nhau làm việc như lời bài ca dao: 
Trâu ơi, ta bảo trâu này/ Trâu ra ngoài 
ruộng trâu cày với ta 
Sự tôn trọng đối với tự nhiên còn thể 
hiện ở chỗ, con người cần thiết phải tác 
động vào tự nhiên, nhưng đó là sự tác 
động có mục đích tính toán, có kế hoạch 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014 
 108 
từ trước trên cơ sở tôn trọng tự nhiên, 
tôn trọng các quy luật khách quan. Sự 
tác động đó mang tính chủ động sáng 
tạo, nhưng phù hợp với các quy luật của 
tự nhiên mới mong mang lại kết quả 
cao: Biết chiều trời, nước đời chẳng 
khó. Chiều trời không gì khác chính là 
biết hành động, tác động vào tự nhiên 
đúng với các quy luật khách quan trên 
cơ sở tôn trọng tự nhiên. Nhưng dân 
gian vẫn sử dụng ngôn ngữ rất mềm 
dẻo: “Chiều trời”. Chiều trời chứ không 
phải sợ trời, kính trời. Hoạt động sản 
xuất của con người chỉ có kết quả cao 
khi sự tương tác con người - tự nhiên 
phù hợp với quy luật tự nhiên. 
Bên cạnh đó, người Việt Nam xem 
mỗi lĩnh vực tự nhiên có một vị thần cai 
quản. Với vị thần tự nhiên ấy, không ai 
dám làm trái, mà luôn phải có thái độ 
thăm dò: Trông trời, trông đất, trông 
mây; Lạy trời mưa xuống/ Lấy nước tôi 
uống/ Lấy ruộng tôi cày; Nhờ trời hòa 
cốc, phong đăng/ Cấy lúa lúa tốt, nuôi 
tằm tằm tươi. 
Người Việt Nam ý thức được sự phụ 
thuộc của mình vào thiên nhiên. Và 
trong bối cảnh trình độ nhận thức còn 
hạn chế, khả năng chinh phục tự nhiên 
chưa nhiều, trước các thế lực có tính 
chất tự phát của thiên nhiên, người Việt 
Nam cổ xưa chỉ biết lạy trời, nhờ trời 
cầu cho mưa thuận gió hòa để được 
hưởng các ân huệ từ tự nhiên. Và nếu 
biết thành kính với trời thì trời sẽ mang 
lại những điều tốt đẹp trong cuộc sống: 
nước uống, ruộng để sản xuất, sự no ấm, 
mùa màng tốt tươi. 
Tác động đến tự nhiên, cải tạo tự 
nhiên là một thắng lợi của con người. 
Tự nhiên tác động trở lại mang tính tự 
phát. Sự tác động trở lại của tự nhiên có 
lợi hay có hại đối với con người là phụ 
thuộc vào việc con người tác động tích 
cực hay tiêu cực đến tự nhiên. Đó cũng 
là mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết 
quả: con người tác động vào tự nhiên 
như thế nào thì tự nhiên sẽ trả lại cho 
con người sản phẩm tương ứng: Gieo gì 
gặt ấy; Gieo gió gặt bão. 
Bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XX, mối 
quan hệ giữa con người với thiên nhiên 
trên hành tinh chúng ta đã bị mất cân 
bằng (do cạn kiệt tài nguyên rừng biển, 
đất đai; do ô nhiễm khí hậu, nguồn nước 
trầm trọng; do chất hóa học bị lạm dụng 
trong sản xuất...). Dường như con người 
đang nhầm lẫn giữa việc làm chủ và 
việc phá hoại tự nhiên. Đáng nhẽ việc 
cần làm nhất là tôn trọng, lợi dụng các 
quy luật tự nhiên, tiến hành cải tạo để tự 
nhiên phục vụ chúng ta hiệu quả hơn thì 
con người lại không ngừng làm biến đổi 
tự nhiên theo lợi ích chủ quan, trước mắt 
của mình mà bất chấp quy luật. Đáng 
nhẽ khai thác đi đôi với phục hồi thì con 
người lại chỉ chú tâm khai thác một cách 
triệt để, thậm chí lãng phí. Và tất yếu, 
chúng ta phải đối diện với sự “báo thù” 
dữ dội, khôn lường, các hiểm họa rình 
Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên... 
 109 
rập từ tự nhiên: ô nhiễm môi trường; các 
hiện tượng thời tiết cực đoan (bão, lốc 
xoáy, lũ lụt, hạn hán); không còn tài 
nguyên thiên nhiên phục vụ sản xuất... 
Nguy cơ này đòi hỏi con người phải 
lưu tâm hơn nữa đến các quy luật phát 
triển sao cho sự phát triển của con người 
có thể vẫn không làm tổn hại đến giới tự 
nhiên, mà ngược lại, làm giàu cho tự 
nhiên theo hướng con người hài hòa với 
tự nhiên. Việc nắm các quy luật tự 
nhiên, sự phát triển của nhu cầu ngày 
càng kích thích thêm những hoạt động 
định hướng của con người nhằm chinh 
phục, chế ngự các thế lực, các hiện 
tượng tự nhiên, bắt chúng phục vụ cho 
con người. Thiên nhiên là một người 
bạn của con người, vì thế nó không chịu 
được thái độ đối xử dã man. Sử dụng 
một cách hợp lí, tiết kiệm tài nguyên 
thiên nhiên, có thái độ quan tâm và chí 
tình đối với tự nhiên là điều cần thiết, 
bắt buộc nếu muốn tồn tại và phát triển 
bền vững trong tương lai. 
Tóm lại, người Việt Nam có những 
triết lý nhất định về mối quan hệ giữa 
con người với tự nhiên. Đó là biểu hiện 
của một trình độ nhận thức nhất định về 
thế giới tự nhiên trong điều kiện khoa 
học kỹ thuật chưa phát triển cao. Nghiên 
cứu triết lý của người Việt Nam về mối 
quan hệ giữa con người và tự nhiên qua 
tục ngữ, chúng ta có thể nhận thấy rằng, 
người Việt Nam biết tôn trọng tự nhiên 
và từ đó xây dựng được một lối ứng xử 
với tự nhiên thể hiện một tầm văn hóa 
cao. Điều đó khiến ta phải suy nghĩ về 
thái độ, cách ứng xử của mình với tự 
nhiên trong thời hiện đại.) 
Tài liệu tham khảo 
1. Bùi Hạnh Cẩm - Bích Hằng - Việt Anh 
(2000), Thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Nxb 
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
2. Chu Xuân Diên - Lương Văn Đang - 
Phương Tri (1975), Tục ngữ Việt Nam, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
3. Vũ Dung - Vũ Thuý Anh - Vũ Quang 
Hào (2000), Từ điển Thành ngữ và Tục Ngữ 
Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 
4. Bùi Văn Dũng (2008), “Tư tưởng triết 
học về nguồn gốc và bản chất con người trong 
thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí Sinh 
hoạt lý luận, số 5 (90). 
5. Bùi Văn Dũng (2013), “Triết lý về giáo 
dục trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”, Tạp 
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68). 
6. Vũ Hùng (1994), “Tìm hiểu những yếu tố 
Triết học trong Tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí 
Triết học, số 1. 
7. Đinh Gia Khánh (1990), Văn học dân 
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
8. Nguyễn Xuân Kính (Chủ biên) - Nguyễn 
Thúy Loan - Phan Lan Hương - Nguyễn Luân 
(2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, Nxb Văn 
hóa - Thông tin, Hà Nội. 
9. Mã Giang Lân (1998), Tục ngữ, ca dao 
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
10. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ, ca dao, 
dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014 
 110 

File đính kèm:

  • pdftriet_ly_ve_moi_quan_he_giua_con_nguoi_va_gioi_tu_nhien_tron.pdf