Truyền thống kinh tế biển của một số dòng họ ở xã Phú thuận và Phú hải, tỉnh thừa Thiên Huế

Trong quá trình hình thành và phát triển làng xã ở Thừa Thiên Huế đã có

không ít làng chọn nghề biển làm kế sinh nhai, phân bố rải rác ven bờ biển kéo dài

120km, như các làng Thai Dương, Hòa Duân, An Dương, Cự Lại, Diên Lộc, Hà

Thanh, An Bằng, Mỹ Á, Phụ An, An Cư, Cảnh Dương . Đặc biệt, các làng Hòa

Duân, An Dương thuộc xã Phú Thuận, làng Cự Lại thuộc xã Phú Hải (đều thuộc

huyện Phú Vang) rất nổi tiếng với nghề đánh bắt và chế biến thủy hải sản. Tại đây

xuất hiện nhiều dòng họ nổi bật trong hoạt động ngư nghiệp, truyền qua nhiều thế

hệ. Đây là một đặc điểm mang dấu ấn văn hóa dòng họ trong hoạt động kinh tế khai

thác tài nguyên biển ở Thừa Thiên Huế.

Làng Hòa Duân (禾勻) có tên dân gian là làng Eo () là một trong những

làng được hình thành sớm ở Thuận Hóa. Trước khi vua Lê Thánh Tông vào chinh

phạt Chiêm Thành (1471) thì làng Hòa Duân đã được thành lập, cư dân quần tụ

sinh sống; giữa thế kỷ XVI Hòa Duân là một trong 60 làng thuộc huyện Kim Trà,

phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa.

pdf 12 trang dienloan 1560
Bạn đang xem tài liệu "Truyền thống kinh tế biển của một số dòng họ ở xã Phú thuận và Phú hải, tỉnh thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Truyền thống kinh tế biển của một số dòng họ ở xã Phú thuận và Phú hải, tỉnh thừa Thiên Huế

Truyền thống kinh tế biển của một số dòng họ ở xã Phú thuận và Phú hải, tỉnh thừa Thiên Huế
37 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
TRUYỀN THỐNG KINH TẾ BIỂN CỦA MỘT SỐ 
DÒNG HỌ Ở XÃ PHÚ THUẬN VÀ PHÚ HẢI, 
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
 Nguyễn Văn Đăng, Mai Văn Được*
1. Vài nét về vùng đất, con người các làng ở xã Phú Thuận và Phú Hải 
Trong quá trình hình thành và phát triển làng xã ở Thừa Thiên Huế đã có 
không ít làng chọn nghề biển làm kế sinh nhai, phân bố rải rác ven bờ biển kéo dài 
120km, như các làng Thai Dương, Hòa Duân, An Dương, Cự Lại, Diên Lộc, Hà 
Thanh, An Bằng, Mỹ Á, Phụ An, An Cư, Cảnh Dương. Đặc biệt, các làng Hòa 
Duân, An Dương thuộc xã Phú Thuận, làng Cự Lại thuộc xã Phú Hải (đều thuộc 
huyện Phú Vang) rất nổi tiếng với nghề đánh bắt và chế biến thủy hải sản. Tại đây 
xuất hiện nhiều dòng họ nổi bật trong hoạt động ngư nghiệp, truyền qua nhiều thế 
hệ. Đây là một đặc điểm mang dấu ấn văn hóa dòng họ trong hoạt động kinh tế khai 
thác tài nguyên biển ở Thừa Thiên Huế.
Làng Hòa Duân (禾勻) có tên dân gian là làng Eo (腰) là một trong những 
làng được hình thành sớm ở Thuận Hóa. Trước khi vua Lê Thánh Tông vào chinh 
phạt Chiêm Thành (1471) thì làng Hòa Duân đã được thành lập, cư dân quần tụ 
sinh sống; giữa thế kỷ XVI Hòa Duân là một trong 60 làng thuộc huyện Kim Trà, 
phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa.(1)
Tuy nhiên, qua quá trình điền dã chúng tôi nhận thấy những cư dân sinh sống 
ở đây hiện nay lại không có mối liên hệ mật thiết nào với những lớp cư dân ban đầu 
của làng này.(2) Trong làng hiện nay có một ngôi mộ lớn ở thôn Xuân An, các thế 
hệ người dân nơi đây đều lưu truyền là mộ của vị khai canh lập nên làng Hòa Duân 
nhưng chính họ cũng không biết vị này có tên họ là gì, hậu duệ cũng không còn 
sinh sống trong làng.(3) Thông qua các sử liệu có ghi chép về làng cho phép chúng 
tôi khẳng định những cư dân buổi ban đầu sinh sống có dòng họ Nguyễn. Người 
trong dòng họ này được một số sử liệu đề cập đến là Nguyễn quý phi (không rõ 
tên): “Khi vua (Lê) Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành dừng lại ở xã này, thấy bà 
gánh nước qua, có nhan sắc, vua đem lòng yêu, bèn cho vào cung, được nhà vua 
* Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Huế. Bài viết trích từ kết quả nghiên cứu đề tài 
KHCN cấp tỉnh: “Vai trò và tác động của gia đình, dòng họ đối với sự phát triển của xã hội 
ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay”, mã số TTH.2015-KX 01, do ngân sách nhà nước tỉnh Thừa 
Thiên Huế đầu tư.
BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM
38 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
quý mến. Lần lần được phong đến bậc phi, về sau sinh ra Triệu vương”.(4) Hiện 
nay, dòng họ này cũng không còn ở Hòa Duân; qua khảo sát chúng tôi chỉ phát hiện 
ra dấu vết một ngôi mộ nằm trong một lùm cây dại rậm rạp mà các bậc cao niên 
trong làng cho đó là mộ mẹ bà Nguyễn quý phi, có tên là “mụ Mậm”.
Đa phần các dòng họ hiện đang sinh sống trong làng đều đến rất muộn. Dòng 
họ được toàn thể dân làng công nhận là có công khai khẩn lớn của làng chỉ mới đến 
từ cuối thế kỷ XVII, đó là họ Huỳnh Văn. Tiếp sau họ này là các họ Nguyễn Văn, 
Hồ, Trần, Huỳnh, Phạm Văn. Tính đến nay, làng Hòa Duân có hơn 43 dòng họ 
khác nhau cùng nhau chung sống, sinh cơ lập nghiệp, khai phá nguồn lợi thủy hải 
sản từ biển và phá Tam Giang.
Trải qua quá trình khai phá lập ấp, dân làng Hòa Duân đã lập nên được 4 xóm 
là Tân An, Trung An, Xuân An và Định Cư (nay gọi là Tân Lập).
Làng An Dương (安陽) được thành lập muộn hơn so với làng Hòa Duân, 
khoảng đầu thời chúa Nguyễn. Quá trình khai phá lập làng gắn liền với “bát tộc 
khai canh” của làng, đó là các họ Ngô Đức, Nguyễn Văn (2 họ), Trương Viết, 
Trương Phước, Phan, Nguyễn Thanh, Võ Văn. 
Theo các bậc cao niên kể lại rằng: Có tám vị từ Thanh Hà(5) đi theo đường 
biển, khi đến vùng đất thuộc làng An Dương ngày nay, họ đã ghé vào bờ để tìm 
kiếm thức ăn, nước ngọt và các ngài đã quyết định ở lại để khai phá vùng đất nơi 
đây. Tuy vậy, khi khảo sát các tư liệu thực tế chỉ có 7 họ cùng vào, còn họ Trương 
Viết từ Hà Hồng (Vinh Thái, Phú Vang) sang và có gốc ở phía Bắc.(6)
Ngay từ buổi khai sơ lập làng, các họ tộc đã phân chia khu vực để cùng khai 
phá, mối quan hệ huyết thống chiếm vị trí then chốt trong cộng đồng xóm làng.(7) 
Sự phân chia đó được thể hiện qua câu ca dao sau:
Nguyễn, Ngô thì ở Phú Ninh,
Trương, Phan An Lạc, Nguyễn Thanh Mỹ Thành.
Sự phân chia đất đai đó vô hình trung đã tạo nên những vùng nổi bật về làm 
nghề khai thác và chế biến thủy hải sản tương ứng với sự nổi bật của các dòng họ 
trong nghề này. Điều này thể hiện rõ tính chất dòng họ trong nghề khai thác, chế 
biến hải sản ở An Dương được hình thành suốt mấy thế kỷ tồn tại của các dòng họ 
nơi đây.
Làng Cự Lại (鉅賴) có tên dân gian là Làng Trài,(8) tên đầu tiên là Cửa Đợi, thời 
chúa Nguyễn đổi Cự Lại. Làng được thành lập vào khoảng cuối thế kỷ XV.(9) Đến 
cuối thế kỷ XVIII, làng thuộc tổng Kế Thực, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.(10)
Dòng họ có công lớn nhất và được công nhận là “Bổn thổ tiền khai canh” của 
làng là họ Phan. Trong bài tựa của gia phả dòng họ có chép về nguồn gốc và công 
trạng khai canh lập làng: “Từ thời Hậu Lê, ngài Phan Văn Thuận quê ở Thanh Hóa 
đã sinh hạ được hai nam là ngài Phan Văn Tưởng nhất lang và Phan Văn Trài 
nhị lang. Sau đó cả hai người con của ngài Phan Văn Thuận cùng rời đất Bắc vào 
Thuận Hóa lập nghiệp. Trong đó, ngài Phan Văn Tưởng đến khai phá vùng hoang 
hóa thuộc tổng Quảng Xuyên, huyện Phú Vang lập nên xã Ba Lăng, sau được truy 
phong là tiền khai canh. Ngài Phan Văn Trài nhị lang đã cùng với các họ Nguyễn, 
Trần Văn, Lê, Trần Vĩnh khai lâm phá lũng lập ấp Cự Lại”.(11) Đến nay, họ Phan 
đã truyền đến 20 đời.
Sau họ Phan là các họ Nguyễn (Văn) Chiêu, Trần Văn, Lê Văn, Trần Vĩnh, 
Nguyễn Văn (Đại) có công khai khẩn lập làng. Đa phần các họ này đều có nguồn 
gốc từ vùng Thanh Nghệ vào. Tiếp đó các họ Phan Viết, Huỳnh, Hà (gốc La Chử, 
Hương Trà), Đặng, Hồ cũng đến sinh sống tại làng.
2. Truyền thống kinh tế biển
2.1. Truyền thống đánh bắt, khai thác thủy hải sản
- Làng Hòa Duân đã sớm nổi tiếng về hải sản, được Dương Văn An ca tụng 
trong Ô Châu cận lục: “Cá Hòa Duân thái nhỏ, mâm đầy làm mặt hồng thêm”.(12) 
Với lợi thế nguồn thủy hải sản phong phú, lại nằm cạnh cửa biển, rất thuận lợi cho 
việc neo đậu và trao đổi hàng hóa, từ bao đời nay các thế hệ ngư dân làng Hòa 
Duân đã dựa vào đó để sinh cơ lập nghiệp.
Xóm Trung An gắn với họ Huỳnh chuyên nghề câu. Theo các bậc cao niên, 
họ Huỳnh có gốc từ họ Đoàn, làm quan trong triều, bị “tru di tam tộc” nên con cháu 
thất tán, có một bộ phận đến sinh sống ở làng Hòa Duân, đổi sang họ Huỳnh. Thủy 
tổ dòng họ này là ngài Huỳnh Văn Thiện, đến nay đã truyền được 8 đời.(13) Trong 
số những nghề đánh bắt thì họ này được xem là có truyền thống làm nghề câu khơi. 
Trước đây khi kỹ thuật và phương tiện đi biển còn thô sơ, đa phần các ngư dân 
trong vùng đều chủ yếu khai thác vùng lộng nhưng nghề câu khơi này phần lớn 
hoạt động ở vùng biển khơi, có độ sâu khoảng 28 - 30 sải.(14) Từ cuối những năm 
60 của thế kỷ XX, khi đã có thuyền máy chạy động cơ diezen thì ngư dân đi câu 
vươn ra khơi xa hơn, vùng biển có độ sâu khoảng 50 - 70 sải. Phương tiện là các 
chiếc thuyền nan chạy buồm, thuyền nan gắn máy, gọ. Trên thuyền thường trang 
bị một vàng câu gồm khoảng 1.800 sợi dây câu, mỗi sợi dài 10m, một đầu thắt lưỡi 
câu một đầu buột vào sợi cước lớn làm triêng dài khoảng 5.000m có buột một hệ 
thống phao nhỏ nổi trên mặt nước. Ngư dân dùng mồi sống là cá nục, tôm, cá trích, 
cá cơm... để câu nhiều loại cá khác nhau như cá thu, cá cờ, cá đuối, cá ngừ. Một 
số người trong dòng họ này nổi tiếng với nghề câu khơi đó là Huỳnh Văn Nhược 
(đời 5), Huỳnh Tư (đời 6)
39Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
40 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
Nếu như xóm Trung An nổi bật với nghề câu khơi thì xóm Xuân An chuyên 
nghề lưới và gắn với họ Trần. Thủy tổ dòng họ này là ngài Trần Văn Hiên, người 
gốc Thanh Hóa; đến nay truyền được 14 đời. Họ này có mối quan hệ thân tộc 
với họ Trần ở các làng An Cư, An Lạc (Quảng Điền), Cầu Hai (Phú Lộc), Quảng 
Xuyên (Phú Vang), cho thấy rằng đây là một bộ phận cư dân thủy diện sống trên 
mặt nước ở vùng phá Tam Giang, dưới thời chúa Nguyễn đã vào định cư sinh sống 
tại các làng ven phá.
So với nghề câu, nghề lưới khá đa dạng, có nhiều loại lưới với nhiều kích cỡ 
để đánh bắt nhiều loại thủy sản khác nhau. Đối với ngư dân họ Trần nói riêng và 
ngư dân Hòa Duân nói chung thì họ thường làm nghề lưới hai, lưới ba, lưới chuồn, 
lưới nổi, lưới trích, lưới mực và lưới cảng. Đối với nghề lưới, đòi hỏi người ngư 
dân phải có kinh nghiệm trong xác định các luồng lạch dưới đáy biển và xác định 
các con nước trong năm. Dưới đáy biển cũng giống như trên đất liền, cũng có 
những vùng thấp, vùng cao, những lạch sâu, lạch cạn, cũng có chỗ là cát biển, cũng 
có nơi là bùn, đá, rạn san hô. Mỗi loài cá có một tập tính và thích nghi một môi 
trường/ dạng “địa hình” khác nhau, ngư dân căn cứ vào việc xác định đúng con 
lạch, dạng “địa hình” mà đánh cá. Trong nghề lưới này, họ Trần có nhiều người nổi 
tiếng khắp làng, như ông Trần Bao (đời 8), Trần Thanh Vỹ (đời 9) (hai cha con); 
Trần Khen (đời 9), Trần Ngân (đời 9)
Bên cạnh đó, một số họ làng Hòa Duân còn có thế mạnh trong nghề đánh mành 
đèn và mành phao, như họ Lê (gốc Thai Dương Hạ) có ông Lê Lữ nổi tiếng làm 
nghề mành, là dân ngụ cư mới đến sinh sống trong làng; họ Trần có ông Trần Mẹo
- Làng An Dương: Trừ họ Võ con cháu thất tán, các họ ở đây đều có truyền 
thống đánh bắt, nổi bật có họ Ngô Đức, Trương Viết, Nguyễn Thanh. Trước đây, 
các họ làng An Dương có thế mạnh trong nghề làm lừ, đánh mành. Lừ làm bằng tre, 
thường thả ở vùng nước có độ sâu trên 10 sải vào khoảng từ tháng 12 đến tháng 3 
năm sau (âm lịch), đặt trong ba ngày thì vớt lên để thu hải sản và định kỳ một tháng 
phải thay lừ mới để làm sạch (do hà bám vào). Các loại hải sản bắt được từ loại ngư 
cụ này là mực (chủ yếu mực nang), cá thiều, cá mú, cá hồng, cá hanh, cá chai 
Về nghề mành thì có hai dạng cơ bản là mành đèn và mành phao. Mành đèn 
đánh vào buổi đêm, tối trăng, dùng đèn để nhử cá vào trong mành. Còn đối với 
mành phao thì phải đặt cây phao tạo bóng để cá ẩn nấp và đánh vào ban ngày. Theo 
các bậc cao niên thì đánh mành phải đúng vào lúc con nước êm hoặc ít chảy, trong 
vùng có độ sâu khoảng 12 - 25 sải, nhiều lúc vào lộng hơn và tháng 2 đến tháng 8 
(âm lịch) là thời điểm hoạt động của nghề này. Hình thức đánh mành thường đem 
về các loại hải sản tầng mặt như cá nục, cá cơm, cá sòng, mực cơm. Ngày nay, 
khi phương tiện kỹ thuật hiện đại, người ta ít đánh bắt bằng hình thức mành đèn, 
ngư dân nơi đây có một bộ phận đi khơi bằng tàu đánh bắt các loại hải sản có giá 
trị cao như cá ngừ, cá thu, cá cờ, mực ống nên hình thức lưới rê cảng, vây rút 
chì, câu mực trở nên phổ biến hơn. Trong khi đó, một bộ phận khác hoạt động ở 
vùng lộng tập trung vào nghề lưới hai, lưới ba, lưới mực, đánh khuyếc (ruốc).... 
Bên cạnh đó là lưới vây và lưới rồng cũng được ngư dân nơi đây sử dụng khá phổ 
biến trong đánh bắt các loại cá tập trung thành đàn và đi lộng như cá nục, cá đù, 
cá cơm, cá me
Họ Ngô Đức, thủy tổ là ngài Ngô Đức Long, cùng vào khai canh lập làng với 
các vị thủy tổ 7 họ khác ở An Dương; được triều vua Khải Định phong là “Dực 
bảo trung hưng linh phò tôn thần”; đến nay truyền được 16 - 17 đời. Dòng họ này 
nổi tiếng nhất làng về hoạt động đánh bắt thủy hải sản với các nhân vật nổi bật 
như Ngô Đức Toàn, Ngô Đức Toan (hai anh em ruột), Ngô Đức Cư (con Ngô Đức 
Toan), Ngô Đức Chắn, Ngô Đức Sở
Về họ Trương, thủy tổ là Trương Viết Duệ từ Bắc Hà vào Thuận Hóa, định cư 
ở Hà Hồng (Vinh Thái, Phú Vang), sinh được ba người con trai. Vợ và con người 
con trai thứ hai là Trương Viết Binh đến định cư ở làng.(15) Có Trương Viết Mau 
(đời 12), Trương Viết Lò (đời 13) là những người giỏi đánh cá.
Họ Nguyễn Thanh, thủy tổ là Nguyễn Thanh Hoàn, cùng em là Nguyễn Văn 
Trục (thủy tổ họ Nguyễn Văn), gốc Thanh Hà, vào An Dương khai canh lập ấp. 
Sau khi cuộc sống ổn định, hai ông trở về quê mang hài cốt cha mình là Nguyễn 
Văn Loan vào táng tại làng An Dương. Họ Nguyễn Thanh có truyền thống đánh 
bắt thủy hải sản với một số nhân vật nổi tiếng trong làng về lĩnh vực này như anh 
em Nguyễn Thanh Nậy, Nguyễn Thanh Nhỏ; Nguyễn Thanh Đô (cháu nội Nguyễn 
Thanh Nậy)
- Làng Cự Lại có nhiều dòng họ khác nhau cùng sinh sống và hoạt động đánh 
bắt thủy hải sản. Trong số đó, các họ có truyền thống đánh bắt là họ Phan, Nguyễn, 
Nguyễn Văn.... Các họ làng Cự Lại có thế mạnh trong nghề đánh khuyếc, đánh mành, 
câu mực; từ những năm 1990 đến nay nổi bật với nghề lưới cảng, đánh bắt xa bờ.
Nghề đánh khuyếc (ruốc) trong 1 năm có ba vụ: đầu hè, vụ thu và vụ đông. 
Vụ hè thường chỉ có trong tháng 4 (âm lịch) với loại khuyếc đi thành từng đám lớn. 
Để đánh bắt loại khuyếc này, ngư dân thường dùng quệu/ cóng để xúc; nếu khuyếc 
vào gần bờ thì dùng “mức” để kéo. Vụ thu thường khoảng tháng 7 - 8 (âm lịch). 
Hai vụ này không ổn định, nhiều năm có, nhiều năm mất mùa. Vụ đông kéo dài từ 
tháng 10 đến tháng Giêng năm sau. Đây là vụ khuyếc chính trong năm và mang 
tính ổn định hơn hai vụ trước. Phương thức khai thác chủ yếu là đánh giã. Hiện 
nay, ngư dân thường dùng hình thức đặt đáy để đánh bắt; phương thức này có hiệu 
quả và đỡ tốn công sức hơn đánh giã.
41Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
42 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
Về nghề mành ở làng Cự Lại cũng giống nghề mành ở làng An Dương, với 
hai dạng cơ bản là mành đèn và mành phao. Bên cạnh đó, nghề câu mực cũng là 
một nghề khai thác phổ biến ở làng Cự Lại. Trước đây, ngư dân thường đi câu mực 
trong khoảng tháng 2 - 8 (âm lịch) với chiếc thuyền nan chạy buồm; ra khơi vào 
lúc chiều tà và cập bờ lúc sáng sớm. Các loại mực câu được thường là mực lá, mực 
ống và mực cơm.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở đi, ngư dân làng Cự Lại cùng với nhiều 
ngư dân các làng biển khác (An Dương, Hòa Duân, Hà Thanh, An Bằng, Mỹ Lợi, 
Phụ An) đã áp dụng phương thức đánh bắt xa bờ bằng tàu hiện đại. Cự Lại và An 
Dương là những làng dẫn đầu về đội tàu lớn đánh bắt xa bờ của tỉnh Thừa Thiên 
Huế. Cùng với tàu hiện đại, phương thức đánh bắt cũng đổi mới, hình thức đánh 
bắt bằng lưới cảng, vây rút chì trở nên phổ biến và sử dụng nhiều phương tiện 
kỹ thuật như máy dò cá, bộ đàm, máy định vị. Ngoài ra, các hình thức khác cũng 
được ngư dân làng Cự Lại sử dụng trong khai thác thủy hải sản, có thể kể đến như 
nghề lừ, lưới hai, lưới ba, lưới mực, lưới trích, lưới hố
Họ Phan, thủy tổ là Phan Văn Trài, là người đến khai phá vùng Cự Lại sớm 
nhất, được vua Khải Định ban sắc phong “Tiền khai canh”. Nhiều thế hệ con cháu 
trong họ nối tiếp nhau khai thác thủy hải sản.
Họ Nguyễn, thủy tổ là Nguyễn Lẫm, từ vùng Thanh Nghệ di cư vào, được 
vua Khải Định ban sắc phong là “Bổn thổ khai canh”, truyền đến nay khoảng 17 - 
19 đời. Đến đời thứ 4, họ chia ra ba phái, Nguyễn Chiêu (nhất), Nguyễn Viết (nhì) 
và ... g Hà Lu.
Nghề làm ruốc là nghề đặc trưng của cư dân An Dương. Công thức của cư 
dân nơi đây là 8 khuyếc 1 muối (thường tính theo đơn vị là tô hoặc chén), ủ qua 
43Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
44 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
một đêm; sau đó bỏ vào cái bị(18) đặt lên trên “môn” (làm bằng đá) và đặt vật nặng 
ép cho ra nước, xác khuyếc sau khi ép đem phơi khô khoảng 6 - 8 giờ rồi xay hoặc 
giã mịn. Tiếp theo, lấy ruốc mịn trộn với nước khuyếc đã ép trước đó rồi cho vào 
chum, che đậy cẩn thận với thời gian ủ từ 6 đến 7 tháng thì ruốc chín. Nếu muốn 
ruốc nhanh chín thì mang ra phơi ngoài nắng khoảng 15 ngày. Trung bình mỗi gia 
đình làm ruốc từ 80 đến 100 lu (chum/ vại) ruốc. Từ An Dương, ruốc được mang 
bán khắp nơi trong tỉnh, ngoài tỉnh có Đông Hà, Vinh, Đà Nẵng. 
Nghề làm nước mắm với công thức là 4 cá 1 muối. Cá sau khi rửa sạch, để 
ráo nước, người ta xếp một lớp cá rải một lớp muối lên và ủ khoảng nửa năm trong 
lu. Sau đó ép ra nước mắm, quá trình ép phải qua khâu lọc bằng rổ luộc (rổ nhọn ở 
phần đáy) và tấm vải lọc dày bỏ trên rổ. Đối với nước mắm ruốc thì 8 ruốc 1 muối 
và quá trình làm ra nước mắm cũng qua các khâu như nước mắm cá.
Đối với nghề làm mắm thính thì thường sử dụng cá nục, cá chuồn, cá thu, cá 
chù, cá cờ, cá bẹ. Cá rửa sạch, để ráo nước rồi ướp muối để vài hôm cho thấm 
vào cá. Sau đó người ta dùng gạo hoặc ngô rang xay rải lên cá, một lớp cá một lớp 
thính, cho vào vại, chum, ghè nén chặt. Sau đó nấu nước muối với tỷ lệ vừa phải 
đổ lên mặt cho thấm cá. Ướp như vậy khoảng 3 tháng là sử dụng được.
Mắm cá được làm từ các loại cá nhỏ như cá cơm, cá me, cá rò. Cá bắt lên, 
rửa sạch, để ráo rồi trộn với muối theo tỷ lệ 7 cá 1 muối, kèm theo gia vị. Người ta 
trộn đều rồi bỏ vào ghè, chum, vại, nén thật chặt. Khoảng 15 ngày thì mắm chín.
Làm tôm chua cũng là một sản phẩm chế biến của người dân nơi đây. Công 
thức đối với tôm to là 10 tôm 1 muối, nếu tôm nhỏ thì 11 tôm 1 muối. Tôm được 
sử dụng để làm là tôm ở trong sông đầm, có vỏ mỏng; khi làm cắt râu tôm và đầu 
nhọn, ướp muối khoảng 12 tiếng đồng hồ sau đó trộn với nếp xay bột và ớt (cả ớt 
trái lẫn ớt bột), măng, rồi tiếp tục ướp khoảng 10 đến 15 ngày là có thể ăn được.
Trong “bát tộc” của làng An Dương có 2 họ Nguyễn Văn nổi tiếng khắp vùng 
với truyền thống chế biến thủy hải sản. Một họ nổi tiếng với nghề làm mắm, được 
trong vùng gọi là họ “Nguyễn Mắm”. Một họ nổi tiếng với nghề làm ruốc, ngài 
thủy tổ tên là Nguyễn Văn Mắm, được trong vùng gọi là họ “Nguyễn Ruốc”.
Họ “Nguyễn Mắm”, thủy tổ là ngài Nguyễn Văn Trục (阮文逐), từ Thanh Hà 
vào khai canh vùng An Dương, đến nay truyền được 17 đời. Đến đời thứ 6, họ này 
phân thành ba phái. Người đứng đầu các phái nhất, nhì, ba lần lượt là Nguyễn Văn 
Sấm (con của Nguyễn Văn Thuận), Nguyễn Văn Đính (con của Nguyễn Văn Ước), 
Nguyễn Văn Sát (con của Nguyễn Văn Quy). Trong đó, phái ba vào định cư ở làng 
Hà Quảng (nay là thôn Quảng Gia, xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng 
Nam), cải thành họ Nguyễn Tấn. Tại nơi ở mới, các thế hệ con cháu của họ này vẫn 
tiếp tục làm nghề biển và làm mắm, góp phần làm nên một làng Hà Quảng nổi tiếng 
với nước mắm thơm ngon của xứ Quảng. Hai phái nhất và nhì vẫn tiếp tục ở lại 
phát triển nghề biển, làm mắm. Theo lời kể của các bậc cao niên thì đời thứ 12 (phái 
nhất) trong họ có ông tên là Nguyễn Văn Mọi rất giỏi làm mắm. Với tài làm mắm 
của mình, ông trở nên nổi tiếng khắp vùng và rất giàu có, mua được nhà cửa ở An 
Cựu (Huế). Cũng vì thế mà họ của ông được dân làng gọi với cái tên là họ “Nguyễn 
Mắm”. Ông là người có nhiều đóng góp cho dòng họ, tiêu biểu nhất là cúng lập từ 
đường của dòng họ. Bên cạnh đó, dòng họ này còn có nhiều người giỏi nghề làm 
mắm, tiêu biểu là ông Nguyễn Văn Bình, vợ chồng ông Nguyễn Văn Cửu
Họ “Nguyễn Ruốc”, thủy tổ là Nguyễn Văn Mắm, cũng từ Thanh Hà vào 
khai canh vùng An Dương cùng các họ khác. Trước đây, họ này có nhiều người 
giỏi làm ruốc, làm mắm, được người dân trong vùng gọi là họ “Nguyễn Ruốc”. 
Nghề làm mắm, làm ruốc được truyền qua nhiều thế hệ, nổi bật có thể kể đến gia 
đình các ông Nguyễn Văn Hứa (đời 10), Nguyễn Văn Mon (đời 11), Nguyễn Văn 
Thẻo (đời 11).... Ông Nguyễn Văn Hứa là người nổi tiếng về đánh bắt lẫn làm mắm 
khắp làng. Ông là con của Nguyễn Văn Chít, cũng là một người giỏi làm mắm, 
ruốc; em ruột của ông là Nguyễn Văn Sữa cũng khá giỏi trong nghề này. Con của 
ông là Nguyễn Văn Kính vẫn đang tiếp nối rất tốt truyền thống làm mắm, ruốc của 
gia đình và dòng họ.
- Làng Cự Lại: Cũng giống với làng An Dương, các dòng họ ở làng Cự Lại 
nổi tiếng với nghề làm mắm, nước mắm, nhất là nước mắm ruốc. Thương hiệu 
nước mắm Làng Trài của làng đã được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp giấy chứng nhận 
bảo hộ thương hiệu.
Việc truyền nghề trong gia đình, dòng họ giúp cho nghề làm mắm, làm ruốc 
được truyền qua nhiều thế hệ của cư dân nơi đây và tạo nên một thế mạnh trong 
hoạt động kinh tế cũng như truyền thống riêng của vùng đất này. Các họ tiêu biểu 
nổi bật trong nghề chế biến có Trần Văn, Phan, Nguyễn.
Họ Trần Văn cùng với hai họ Nguyễn, Lê Văn là bổn thổ khai canh. Hai anh 
em nổi bật trong nghề là Trần Văn Diệp với thương hiệu nước nắm Út Diệp (thôn 
Cự Lại Đông), Trần Văn Phú với thương hiệu nước mắm Phú An (thôn Cự Lại 
Trung). Hiện nay, họ Nguyễn có hộ ông Nguyễn Đức Định ở thôn Cự Lại Trung 
tạo nên một thương hiệu nước mắm lớn ở trong làng; họ Phan có hộ ông Phan Văn 
Phương ở thôn Cự Lại Nam nổi tiếng với nghề chế biến mắm ruốc.
Chính truyền thống giỏi làm nghề đánh khuyếc của các dòng họ đã tạo nên 
nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú, giúp các hộ sản xuất có nguồn nguyên liệu 
tươi sạch làm nên những sản phẩm có chất lượng cao. Ngược lại, truyền thống làm 
mắm ruốc, nước mắm ruốc đã tạo nên động lực cho nghề đánh khuyếc phát triển 
mạnh. Điều này lý giải tại sao nơi đây nghề làm ruốc, nước mắm ruốc lại phát triển 
đến vậy.
45Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
46 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
Trước đây, mắm, nước mắm, ruốc của An Dương, Cự Lại không chỉ được 
tiêu thụ ở các vùng trong tỉnh như Huế, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, vùng 
miền núi phía Tây mà còn được bán đi nhiều tỉnh thành khác, đó là Vinh, Đông Hà, 
Quảng Trị, Đà Nẵng. Hiện nay, các sản phẩm này được tiêu thụ rộng rãi ở nhiều 
nơi và xuất khẩu ra nước ngoài.
3. Thay lời kết
Trong số những ngành nghề kinh tế nông thôn Thừa Thiên Huế, nghề đánh 
bắt thủy hải sản được đánh giá là một trong những nghề mang tính nguy hiểm và 
bấp bênh cao. Ngư dân thường xuyên phải đứng trước thách thức bão lũ, các con 
sóng dữ là những hiểm họa mà cư dân hoạt động trong nghề này thường xuyên 
phải đối mặt. Điều kiện khí hậu khắc nghiệt không cho phép ngư dân đánh bắt một 
cách đều đặn mà chỉ đánh bắt trong mùa biển lặng. Để khắc phục, họ đã đoàn kết 
nhau lại mà trước hết là đoàn kết trong gia đình, dòng tộc để cùng nhau khai thác 
nguồn lợi biển một cách có hiệu quả. Chính điều này đã tạo nên truyền thống đánh 
bắt thủy hải sản cho các dòng họ ở Phú Thuận, Phú Hải.
Việc người trong gia đình, dòng họ cùng nhau làm việc có những lợi thế nhất 
định vì đó là mối quan hệ gần gũi, dễ phối hợp với nhau trong công việc đánh bắt 
đầy khó khăn. Do đó, người trong gia đình hay trong dòng họ thường cùng làm 
chung thuyền, chung tàu với nhau. Đây không chỉ là cùng khai thác một cách có 
hiệu quả nguồn lợi biển cả mà còn là một hình thức truyền nghề trong gia đình, 
dòng họ cần được phát huy. Những kinh nghiệm, bí quyết đi biển, làm mắm được 
truyền qua các thế hệ, giúp giữ vững được truyền thống của gia đình, dòng họ.
Ngày nay, thế hệ kế cận cho nghề biển và chế biến thủy hải sản đang ít dần. 
Cùng với đó là cái nhìn thiên lệch của xã hội về cái nghề “kém chữ” này đã làm cho 
các thế hệ tiếp nối truyền thống kinh tế biển không còn mặn mà với nghề, con cháu 
của các ngư dân nơi đây chủ yếu đi học hành và làm các nghề “nhiều chữ”. Do đó, 
chúng ta cần phải có một cách nhìn nhận khác về nghề biển. Không chỉ thay đổi cái 
nhìn thiển cận của xã hội mà còn phải thay đổi cách làm trong quá trình khai thác 
nguồn lợi biển cả. Để thay đổi, trước tiên cần phải hiện đại hóa kinh tế biển, nâng cao 
đầu tư để phát huy nguồn nhân lực tại chỗ. Đồng thời, cần chú trọng xây dựng một 
đội ngũ thế hệ trẻ hoạt động kinh tế biển có trình độ cao, tiếp cận tốt với các phương 
tiện khoa học kỹ thuật hiện đại để nối tiếp truyền thống của các thế hệ cha ông.
 N V Đ - M V Đ
CHÚ THÍCH
(1) Dương Văn An (2015), Ô Châu cận lục, bản dịch của Trần Đại Vinh, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.57.
(2) Điều này có thể được lý giải là do diện tích làng Hòa Duân hẹp, không thuận lợi cho nông 
nghiệp nên khi dân số phát triển, nhiều người đã bỏ đi nơi khác tìm vùng đất màu mỡ hơn 
để sinh sống. Thêm vào đó, do nằm cạnh cửa biển (Cửa Eo-Thuận An) nên không ít bất lợi 
cho người dân nơi đây: (1) Theo các văn bản Hán Nôm lưu giữ ở làng thì cư dân nơi đây 
thường xuyên bị giặc Tàu Ô vào cướp phá, (2) Địa hình gần cửa biển thường xuyên bị biến 
động, (3) Thiên tai bão lũ làm cho làng Hòa Duân bị tàn phá nghiêm trọng, cuộc sống người 
dân không được ổn định. Từ đó, cư dân bị hao hụt (phần bị chết vì thiên tai, nhân tai, phần 
do họ tìm nơi khác để an cư lạc nghiệp).
(3) Hằng năm, dân làng vẫn tiến hành tế lễ để tưởng nhớ công lao của vị khai canh vào ngày 
Đông chí (22/12) và khi tế khấn “tôn thần liệt vị” (tế chung cho tất cả các họ có công khai phá 
đất đai).
(4) Lê Quý Đôn (2013), Đại Việt thông sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.132. Trong Ô Châu 
cận lục, Dương Văn An cũng có đề cập tương tự: “Hòa Duân phi: phi người làng Hòa Duân, 
huyện Kim Trà. Khi vua Lê (Thánh Tông) đi đánh Chiêm Thành, đã nghỉ lại ở đây, thấy bà 
đi gánh nước, nhan sắc xinh đẹp, vua rất thích bèn nạp làm hậu cung sinh được hoàng tử 
phong làm Triệu vương”, Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Sđd, tr.102.
(5) Qua tra cứu địa danh làng xã ở miền Bắc thì có hai làng Thanh Hà (青河): Một làng thuộc 
tổng An Trú, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương; một làng thuộc tổng Cổ 
Định, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa. Theo Viện Nghiên cứu Hán Nôm 
(1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Dương 
Thị The, Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.29, 116.
(6) Theo Trương Viết tộc phổ chí, lưu tại nhà thờ họ Trương Viết làng An Dương, Phú Thuận, 
Phú Vang.
(7) Nguyễn Thị Vi (2015), Sự hình thành làng xã vùng ven biển huyện Phú Vang, tỉnh Thừa 
Thiên Huế từ thế kỷ XV đến năm 1945, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học 
Khoa học Huế, Huế, tr.27.
(8) Làng Trài có nghĩa là làng của ông Trài, do ông Trài lập nên. Ngài thủy tổ họ Phan là Phan 
Văn Trài chính là người có công khai phá làng đầu tiên, được phong là “Bổn thổ tiền khai 
canh”. Để tưởng nhớ công lao lập làng nên người dân nơi đây đã gọi với cái tên thân thương 
ấy, cũng là để nhắc nhở các thế hệ con dân làng Cự Lại phải biết “uống nước nhớ nguồn”.
(9) Làng Cự Lại không được Dương Văn An chép trong Ô Châu cận lục, tuy nhiên dựa trên các 
tư liệu lưu giữ tại địa phương có thể khẳng định rằng làng này đã được thành lập khoảng 
cuối thế kỷ XV.
(10) Lê Quý Đôn (1977), Lê Quý Đôn toàn tập, Phủ Biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.79.
(11) Dẫn theo Nguyễn Thị Vi (2015), Tlđd, tr.29.
(12) Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Sđd, tr.85.
(13) Theo ông Huỳnh Tư, 83 tuổi, Trưởng họ Huỳnh làng Hòa Duân, xã Phú Thuận. Căn cứ vào 
những lời truyền tích trên thì rất có thể họ Huỳnh này là gốc họ Đoàn ở làng An Truyền; do 
cuộc nổi dậy của Đoàn Hữu Trưng thất bại nên con cháu bị đổi sang họ Đoạn, thất tán nhiều 
nơi; rất có thể ông Huỳnh Văn Thiện là một người trong họ Đoàn này đã chạy đến Hòa Duân 
đổi họ và bắt đầu một cuộc sống mới. Tuy vậy, điểm này cần được nghiên cứu xác minh thêm.
(14) Ngư dân thường tính độ sâu theo đơn vị sải (sải tay người lớn), sải tính theo đơn vị quốc tế 
thì 01 sải = 1,8288m.
(15) Người con cả Trương Viết Mạng đến định cư ở làng Hà Trữ (Phú Vang); con trai út là 
Trương Viết Mai ở lại Hà Hồng. Người con thứ hai là Trương Viết Binh lấy vợ đầu không có 
47Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
con, vợ thứ hai là Thị Ruộng có một người con là Trương Viết Vụ. Khi bà thứ hai đang mang 
thai thì người vợ cả đánh đập khiến bà phải bỏ đi, đến cư ngụ tại làng An Dương và sinh 
con ở đây. Về sau khi làm tờ khai xin nhận sắc phong, con cháu trong họ đã xin sắc phong 
cho ông Trương Viết Binh. Theo gia phả họ Trương Viết tại nhà thờ họ, xã Phú Thuận.
(16) - Theo địa bạ phường An Bằng (Vinh An) được lập vào năm Cảnh Trị thứ 7 (1669) lần đầu 
tiên đề cập đến nghề ngư của phường: “Các loại ghe thả lưới ở vùng biển cạn năm trước 
và mới thêm năm nay, từ trên cửa Eo đến Cảnh Dương tổng cộng 14 chiếc. Năm trước khai 
thác thả lưới ở vùng biển cạn là 8 chiếc ghe. Năm nay mới thêm ở vùng thả lưới, ở vùng 
biển cạn là 6 chiếc”. Dẫn theo Nguyễn Thị Vi, Tlđd, tr. 80.
 - Theo tờ khai các hạng thuế năm Minh Mạng thứ 16 (1835) của làng Hà Thanh (Vinh Thanh) 
thì cả xã có 2 thuyền chài (từ 5-10 người làm/thuyền). Dẫn theo Nguyễn Văn Đăng (2010), 
“Một số vấn đề về làng xã ven biển miền Trung qua tư liệu Hán Nôm ở làng Hà Thanh”, Văn 
hóa - Lịch sử Huế qua góc nhìn làng xã phụ cận và quan hệ với bên ngoài, Nxb Thuận Hóa, 
Huế, tr. 201.
(17) Nguyễn Quang Trung Tiến (1995), Ngư nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Nxb Thuận 
Hóa, Huế, tr. 84.
(18) Trước đây làm bằng tre, nay thường sử dụng loại bị đan bằng cước sợi lớn.
TÓM TẮT
Phú Thuận và Phú Hải là hai xã ven biển huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, gồm ba 
làng Hòa Duân, An Dương, Cự Lại. Từ rất sớm, cư dân nơi đây đã biết dựa vào nguồn lợi của 
Biển Đông để sinh cơ lập nghiệp và trở thành những làng nổi bật với truyền thống kinh tế biển lớn 
nhất Thừa Thiên Huế. Trải qua khoảng nửa thiên niên kỷ, “nghề biển” được các thế hệ cư dân nơi 
đây truyền nối và phát triển. Có được điều đó là nhờ sợi dây huyết thống gia đình, dòng họ đã liên 
kết tất cả họ lại để có thể đứng vững trước sóng biển và đại dương mênh mông.
ABSTRACT
TRADITION OF MARITIME ECONOMY IN SOME FAMILIES OF PHÚ THUẬN AND PHÚ HẢI 
COMMUNES IN THỪA THIÊN HUẾ PROVINCE
Phú Thuận and Phú Hải are two coastal communes of Phú Vang district, Thừa Thiên Huế 
province, including three villages of Hòa Duân, An Dương and Cự Lại. Since the early days, the 
residents there have relied on the resources of the East Sea to earn their livings and become 
prominent villages with the tradition of maritime economy in Thừa Thiên Huế Province. Over 
half a millennium, “maritime fisheries” has been inherited and developed by generations of local 
residents. It is thanks to the blood-relationship of the families which has connected all of them that 
they are able to confront big waves and immense ocean.
48 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017

File đính kèm:

  • pdftruyen_thong_kinh_te_bien_cua_mot_so_dong_ho_o_xa_phu_thuan.pdf