Ứng xử của một số nhà nước trên thế giới đối với hiện tượng tôn giáo mới

Bài viết làm rõ ba nội dung liên quan đến cách thức ứng

xử của một số quốc gia đối với hiện tượng tôn giáo mới, xuất hiện

ở hầu khắp trên thế giới từ khoảng thập niên 60 của thế kỷ XX đến

nay, đó là: thách thức cơ bản mà hiện tượng tôn giáo mới trong

quá trình phát sinh và phát triển đặt ra buộc các nước phải có

cách thức ứng xử? Cách thức các nước giải quyết thách thức từ

hiện tượng tôn giáo mới? Tương lai của mối quan hệ giữa nhà

nước với hiện tượng tôn giáo mới? Việc làm rõ ba nội dung này có

thể sẽ đóng góp cho việc tham khảo và xây dựng nguyên tắc ứng xử

đối với các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam xuất hiện ngày

càng nhiều từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay.

pdf 21 trang dienloan 4640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ứng xử của một số nhà nước trên thế giới đối với hiện tượng tôn giáo mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng xử của một số nhà nước trên thế giới đối với hiện tượng tôn giáo mới

Ứng xử của một số nhà nước trên thế giới đối với hiện tượng tôn giáo mới
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 – 2014 39 
HOÀNG VĂN CHUNG* 
ỨNG XỬ CỦA MỘT SỐ NHÀ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 
ĐỐI VỚI HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI 
Tóm tắt: Bài viết làm rõ ba nội dung liên quan đến cách thức ứng 
xử của một số quốc gia đối với hiện tượng tôn giáo mới, xuất hiện 
ở hầu khắp trên thế giới từ khoảng thập niên 60 của thế kỷ XX đến 
nay, đó là: thách thức cơ bản mà hiện tượng tôn giáo mới trong 
quá trình phát sinh và phát triển đặt ra buộc các nước phải có 
cách thức ứng xử? Cách thức các nước giải quyết thách thức từ 
hiện tượng tôn giáo mới? Tương lai của mối quan hệ giữa nhà 
nước với hiện tượng tôn giáo mới? Việc làm rõ ba nội dung này có 
thể sẽ đóng góp cho việc tham khảo và xây dựng nguyên tắc ứng xử 
đối với các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam xuất hiện ngày 
càng nhiều từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay. 
Từ khóa: Hiện tượng tôn giáo mới, thách thức từ hiện tượng tôn 
giáo mới, ứng xử đối với hiện tượng tôn giáo mới, luật tôn giáo. 
1. Đặt vấn đề 
Kể từ khi xuất hiện vào khoảng thập niên 60 của thế kỷ XX ở Châu 
Mỹ và Châu Âu, các hiện tượng giáo mới (còn được gọi là các phong trào 
tôn giáo mới/ New Religious Movements, hoặc các giáo phái) đã trải qua 
nhiều thăng trầm. Những khó khăn mà chúng phải đối mặt không chỉ từ 
phía các tổ chức tôn giáo truyền thống, các tổ chức xã hội được lập ra để 
chống giáo phái, các phương tiện truyền thông đại chúng vốn chú ý nhiều 
vào việc đưa tin giật gân, các chính trị gia, mà còn từ chính phủ các quốc 
gia với công cụ luật pháp trong tay. Trải qua một thời gian khá dài, cho 
tới nay, phản ứng của các quốc gia về hiện tượng tôn giáo mới thu hút 
nhiều công trình nghiên cứu. Ba vấn đề cần làm rõ ở đây là thách thức mà 
hiện tượng tôn giáo mới trong quá trình phát sinh và phát triển đặt ra 
buộc các nước phải có cách thức ứng xử? Cách thức các nước giải quyết 
thách thức từ hiện tượng tôn giáo mới? Tương lai mối quan hệ giữa nhà 
nước với hiện tượng tôn giáo mới? 
*
 ThS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
40 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
Để góp phần làm rõ ba vấn đề nêu trên, bài viết tập trung khai thác các 
công trình nghiên cứu về ứng xử các nước trên thế giới đối với hiện 
tượng tôn giáo mới. Do hạn chế về dung lượng, bài viết chỉ chọn lựa và 
phân tích ứng xử đối với hiện tượng tôn giáo mới của một số nước như 
Nga, Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Úc, Nhật Bản, Singapore, Malaysia và Trung 
Quốc. Việc làm rõ ba nội dung nêu trên có thể đóng góp cho việc tham 
khảo và xây dựng nguyên tắc ứng xử đối với hiện tượng tôn giáo mới ở 
Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX 
đến nay. 
2. Thách thức từ hiện tượng tôn giáo mới 
Xuất hiện với nhiều đặc tính mới lạ, dị biệt, ngoại lai và đôi khi có 
những hành động cực đoan, các hiện tượng tôn giáo mới mang lại nhiều 
thách thức đối với xã hội và không gian tôn giáo nói chung, chính phủ 
hầu hết các nước trên thế giới nói riêng. Mặc dù ở các nước phát triển, xã 
hội hay các tổ chức tôn giáo đạt đến trình độ tự quản cao, nhưng thách 
thức mà hiện tượng tôn giáo mới mang lại vẫn buộc phải có sự can thiệp 
hay hiện diện của cơ quan công quyền một cách chủ động. Vậy đâu là 
thách thức buộc chính phủ các nước phải lên tiếng và hành động đối với 
hiện tượng tôn giáo mới? Nhiều nghiên cứu, sẽ được đề cập ở phần dưới 
đây, đã chỉ ra rằng, đó là nhóm thách thức về mặt pháp lý và nhóm thách 
thức về hài hòa tôn giáo, an ninh xã hội. 
Thách thức về mặt pháp lý 
Bên cạnh các vấn đề đặt ra liên quan đến đạo đức, lối sống, một số 
hiện tượng tôn giáo mới còn mang lại các thách thức không dễ giải quyết 
về mặt pháp lý, như vấn đề ảnh hưởng được cho là tiêu cực đến tín đồ, 
vấn đề tư cách pháp nhân, vấn đề thuế và nghĩa vụ đối với nhà nước. 
Về phía tín đồ, đã có một thời các hiện tượng tôn giáo mới bị vướng 
vào nhiều cáo buộc liên quan đến hành vi tẩy não như thường thấy ở Mỹ 
và Anh giai đoạn 1980 - 19901 hoặc “mê hoặc tâm lý” như ở Pháp2. Tổng 
kết của các nhà nghiên cứu cho thấy, ở các nước Phương Tây, phần lớn 
người theo các hiện tượng tôn giáo mới là thanh niên trẻ và người có học 
thức3. Cáo buộc về “tẩy não” hay “mê hoặc tâm lý” hoặc “niềm tin có 
tính bệnh lý” (pathological belief) thường xuất phát từ phụ huynh quan 
ngại về chuyện con em mình bị lôi cuốn vào các loại hình tôn giáo chưa 
rõ nguồn gốc, bỏ bê học hành, lệch lạc về tâm lý, đánh mất cơ hội về 
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 41 
41 
công việc và sự nghiệp. Nhiều thanh niên trở thành các nhà gây quỹ 
đường phố hoặc sống quần tụ trong những không gian chật hẹp cùng 
nhiều người chưa kết hôn khác. Một số phụ huynh đã kiện các hiện tượng 
tôn giáo mới ra tòa theo các cáo buộc này. Ở Mỹ, từ những năm 1970, 
theo James T. Richardson, nhà nước rất khó can thiệp trực tiếp vào các 
hiện tượng tôn giáo mới do hiến pháp nước này quy định về tự do tôn 
giáo và vị trí của nhà nước. Sự can thiệp gián tiếp của nhà nước chỉ có 
thể thấy qua hệ thống tòa án. Việc dùng hệ thống tòa án để chống lại các 
hiện tượng tôn giáo mới ở Mỹ đầu tiên xuất hiện khi các bậc phụ huynh 
có con em theo các hiện tượng này tìm cách đạt được quyền bảo hộ tạm 
thời. Việc này tạo điều kiện cho các bậc phụ huynh có quyền hợp pháp để 
kiểm soát con em của mình và sự hỗ trợ về thực thi luật pháp nhằm đưa 
chúng trở lại cuộc sống bình thường4. Theo luật chung ở Mỹ, từ 18 tuổi, 
thanh niên có thể sống hoàn toàn tự lập. Quyền bảo hộ tạm thời chỉ có thể 
được trao cho phụ huynh theo quyết định của tòa án trong trường hợp con 
em của họ được cho là cần phải có sự giám sát, bảo trợ dù đã qua 18 tuổi. 
Các hiện tượng tôn giáo mới còn có những vấn đề pháp lý liên quan 
đến trẻ em như ảnh hưởng về tôn giáo, giáo dục hay bị lạm dụng5. Người 
ta quan ngại về việc cha mẹ li dị và để con em của mình cho một hiện 
tượng tôn giáo mới nuôi nấng. Trong trường hợp như thế, đứa trẻ có thể 
được lựa chọn về tôn giáo trước khi có đầy đủ nhận thức. Tiếp đến, việc 
sống với một hiện tượng tôn giáo mới có thể hạn chế đứa bé tiếp cận hệ 
thống giáo dục công lập. Ngoài ra, đôi khi một hiện tượng tôn giáo mới 
cũng bị buộc tội về lạm dụng trẻ em, dù chứng cứ chưa rõ ràng. 
Một vấn đề pháp lý nữa là việc một số hiện tượng tôn giáo mới chủ 
trương chữa bệnh không dùng thuốc hay can thiệp y tế. Nhóm Christian 
Scientists chống đối các tiêu chuẩn chăm sóc y tế vì tự cho là có kỹ thuật 
“chữa bệnh tâm linh”. Trong khi đó, nhóm Nhân chứng Jehovah kiên 
quyết phản đối việc cho và truyền máu. Việc này gây ra trở ngại lớn khi 
một tín đồ bị bệnh và cần phải truyền máu, hoặc dùng thuốc nếu không 
tính mạng sẽ bị đe dọa. 
Cần nói thêm rằng, tham gia vào đòi hỏi về pháp lý chống lại hiện 
tượng tôn giáo mới còn có các tổ chức xã hội, các chính trị gia hay các 
tôn giáo truyền thống. Đây là lực lượng am hiểu luật pháp và có khả năng 
gây ảnh hưởng đối với chính phủ và xã hội. 
42 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
Trong vấn đề pháp lý, ở nhiều nước, việc trao tư cách pháp nhân cho 
một hiện tượng tôn giáo mới không hề đơn giản. Vấn đề tư cách pháp 
nhân luôn rất quan trọng đối với một tổ chức tôn giáo. Bởi vì, đó là sự 
thừa nhận và bảo vệ trên phương diện luật pháp đối với một tổ chức tôn 
giáo nhằm tránh phân biệt đối xử và giải quyết vấn đề sở hữu tài sản cũng 
như vấn đề thuế đối với tổ chức tôn giáo này. Theo nhiều nhà nghiên cứu 
luật pháp tôn giáo, tiêu biểu như Cole Durham (Hoa Kỳ) hay Đỗ Quang 
Hưng (Việt Nam), lộ trình thường thấy của việc chính phủ cấp tư cách 
pháp nhân cho một tổ chức tôn giáo, nghĩa là cho phép tổ chức tôn giáo 
được bảo hộ về mặt luật pháp công bằng như các tổ chức tôn giáo được 
công nhận trước đó, phải trải qua ba bước. Trước tiên, một tổ chức tôn 
giáo mới cần phải đăng ký hoạt động với chính quyền. Sau khi đáp ứng 
thời gian hoạt động đủ dài sau khi đăng ký mà không vi phạm pháp luật, 
nó sẽ được xem xét để công nhận. Chỉ khi chính thức được nhà nước 
công nhận thì một tổ chức tôn giáo như thế mới có được tư cách pháp 
nhân đầy đủ6. 
Có hai vấn đề chính trong việc xem xét tư cách pháp nhân cho một 
hiện tượng tôn giáo mới: có nên thừa nhận một hiện tượng tôn giáo mới, 
nếu có thì thừa nhận nó như một dạng đoàn thể xã hội (như các loại đoàn 
thể thế tục khác) hay như một đoàn thể tôn giáo. Thực tế có những giai 
đoạn, một số nước từ chối xem xét tư cách pháp nhân cho các hiện tượng 
tôn giáo mới cụ thể. Vấn đề gây tranh cãi là liệu có thể coi đó là các tổ 
chức tôn giáo thực sự hay không. Chẳng hạn, ở Úc, theo James T. 
Richardson, các hiện tượng tôn giáo như Nhân chứng Jehovah, Những 
đứa con Thần thánh, Giáo hội Thống nhất và Khoa học luận khi mới xuất 
hiện ở quốc gia này đều bị chính quyền kiểm soát chặt chẽ và hạn chế 
hoạt động. Trong những năm 1990, nhóm Khoa học luận bị cấm gián tiếp 
ở một số tiểu bang của Úc như New Southwales hay Victoria. Các tiểu 
bang này tuyên bố, đây là các dạng thức thực hành tâm lý. Do đó, lãnh 
đạo hay tín đồ của nhóm Khoa học luận đều phạm pháp vì không đăng ký 
thực hành tâm lý với chính quyền. Do bị xếp vào dạng thức thực hành 
tâm lý, hiện tượng tôn giáo mới này không thể đăng ký pháp nhân, rao 
giảng giáo lý hay cung cấp dịch vụ cho tín đồ7. Ở nước Anh, nhóm Khoa 
học luận cũng khó khăn khi đăng ký tư cách pháp lý như một tổ chức từ 
thiện tôn giáo theo luật pháp của quốc gia này. Theo Anthony Bradney, 
điều đó do hai nguyên nhân cơ bản: thứ nhất, hiện tượng tôn giáo này 
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 43 
43 
thiếu ý niệm về tôn sùng một vị thần thánh cụ thể; thứ hai, nếu lời rao 
giảng của hiện tượng tôn giáo này có tính “nổi loạn về mặt đạo đức”, nó 
không thể được trao cho tư cách một tổ chức từ thiện8. 
Ở Pháp, theo Francis Messner, trong luật pháp quốc gia này không có 
khái niệm “thiểu số”. Chính phủ Pháp thường xuyên từ chối công nhận 
các “nhóm thiểu số” cả về tộc người, ngôn ngữ hay tôn giáo9. Luật pháp 
của Pháp chỉ công nhận tự do cá nhân, và chính phủ không cho rằng, tự 
do cá nhân được đảm bảo khi người dân tham gia các hội nhóm10. Trong 
thảo luận về luật pháp chung cho Châu Âu, Hội đồng Hiến pháp của Pháp 
khẳng định, Pháp là một quốc gia cộng hòa thế tục trung tính, cấm “bất 
cứ ai lợi dụng tôn giáo của mình vào mục đích tránh tuân thủ các quy 
định chung chi phối mối quan hệ giữa các cơ quan công quyền và các cá 
nhân” (Quyết định số 99-412 DC, ngày 15/6/1999)11. Đây là cơ sở pháp 
lý mà chính phủ Pháp thường dựa vào để từ chối công nhận tư cách pháp 
nhân cho các nhóm tôn giáo thiểu số, đặc biệt là các nhóm tôn giáo 
không có nguồn gốc Pháp. 
Ở Singapore, theo Tan Kheng Boon, Điều luật về tổ chức xã hội của 
quốc gia này quy định: “Một tổ chức xã hội đại diện, thúc đẩy hoặc thảo 
luận về những vấn đề tôn giáo là một ‘tổ chức chuyên biệt’ và phải được 
đăng ký theo quy định pháp luật”. Tại quốc gia này, một tổ chức xã hội 
như thế nếu không đăng ký sẽ được coi là một tổ chức ngoài vòng pháp 
luật và bị giải tán. “Việc yêu cầu đăng ký mang lại một cơ chế mạnh để 
nhà nước có thể quản lý các nhóm tôn giáo thuộc diện “có thể ảnh hưởng 
hòa bình, lợi ích và trật tự công cộng ở Singapore”12. 
Nói chung, trăn trở và tranh luận về việc công nhận các hiện tượng tôn 
giáo mới vẫn còn tiếp diễn ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Ở Châu 
Âu, theo khái quát của Rik Torfs, nguyên tắc chung của vấn đề này là 
tinh thần khoan dung. Tuy nhiên, vì mỗi quốc gia thành viên của Liên 
minh Châu Âu có khác nhau về hệ thống pháp lý, nên họ vẫn đang phải 
tìm giải pháp hữu hiệu cho vấn đề các hiện tượng tôn giáo mới có thể tự 
do thu giữ tài sản, có cần đến tư cách pháp nhân để đạt được mục đích 
đó, có được phép hoạt động theo cơ chế một tổ chức phi lợi nhuận? 
Những đặc quyền dành cho các tổ chức tôn giáo truyền thống có nên 
dành cho các hiện tượng tôn giáo mới, hay những đặc quyền xưa cũ có 
dần biến mất và thay vào đó là một sự công nhận quyền tự do tôn giáo về 
44 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
mặt pháp lý chung cho tất cả loại hình tôn giáo, không có bất kỳ đặc 
quyền nào?13 
Ở khu vực Đông Nam Á, Malaysia là một quốc gia có cách tiếp cận 
cởi mở với vấn đề đăng ký tư cách pháp nhân cho tổ chức tôn giáo. Chính 
phủ Malaysia cho rằng, tổ chức tôn giáo không nên bị quản lý. Luật pháp 
của nước này không đòi hỏi các tổ chức tôn giáo phải đăng ký hay giải 
thích bất cứ điều gì với nhà nước. Nhà nước không can thiệp vào tổ chức 
tôn giáo mà để các cộng đồng tôn giáo tự quản theo giáo lý và giáo luật 
của mình. Người dân có thể thành lập một tổ chức tôn giáo theo hình 
thức một công ty hay một đoàn thể. Đây là con đường để họ có thể đầy 
đủ tư cách pháp nhân cho tổ chức tôn giáo của mình. Việc chính quyền 
đòi hỏi tôn giáo phải đăng ký thậm chí có thể gây kết quả tiêu cực. Ví dụ, 
việc này gây ra những chi phí không cần thiết cho thủ tục hành chính 
cũng như việc chính phủ phải trả lương cho bộ phận làm công tác quản lý 
hoạt động của tổ chức tôn giáo. Bên cạnh đó, việc đòi hỏi đăng ký có tác 
dụng ngược. Nếu một tổ chức tôn giáo không thực hiện đăng ký, họ 
đương nhiên bị coi là phạm pháp. Điều này cản trở những đóng góp hữu 
ích của họ với xã hội. Hơn nữa, việc đòi hỏi đăng ký khơi rộng thêm 
khoảng cách giữa chính phủ và người dân, do đó thúc đẩy xung đột hơn 
là củng cố đồng thuận14. 
Các hiện tượng tôn giáo mới cũng đặt ra thách thức về vấn đề thuế và 
nghĩa vụ đối với nhà nước. Ở nhiều nước, chẳng hạn như Mỹ, Úc và Anh, 
nếu đăng ký như một tổ chức tôn giáo và có các chương trình thiện 
nguyện, các hiện tượng tôn giáo mới được miễn thuế. Nhưng một số hiện 
tượng tôn giáo mới, chẳng hạn như Khoa học luận, đã vướng vào những 
vụ kiện liên quan đến việc thu phí từ các dịch vụ tôn giáo hoặc bán vật 
phẩm tôn giáo. Nếu không thành công trong việc thuyết phục chính 
quyền rằng mình đáp ứng đủ các tiêu chí của một tổ chức tôn giáo như 
những quy định trong văn bản pháp lý, các hiện tượng tôn giáo mới 
không được quyền miễn thuế. 
Vấn đề nghĩa vụ với nhà nước của các hiện tượng tôn giáo mới nổi bật 
là nghĩa vụ quân sự và nghi lễ chào quốc kỳ. Với bất cứ quốc gia nào, 
làm nghĩa vụ quân sự và chào quốc kỳ là sự thể hiện lòng trung thành với 
đất nước và ý thức đóng góp cho lợi ích chung. Nhưng tín đồ của nhóm 
Nhân chứng Jehovah kiên quyết từ chối thực hiện hai điều này. Đây là 
mấu chốt cho những vấn đề mà hiện tượng tôn giáo này gặp phải ở 
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 45 
45 
Singapore và nhiều quốc gia khác. Ở Singapore, nhóm Nhân chứng 
Jehovah bị chính quyền quốc gia này cấm và giới hạn tự do tôn giáo. 
Việc cấm chủ yếu liên quan đến vấn đề liệu các công dân thuộc diện phải 
gia nhập lực lượng vũ trang nhưng vì lý do tôn giáo có thể được miễn 
nghĩa vụ quân sự. Tòa án Singapore đã phải đưa ra phán quyết về vụ việc 
này. Theo đó, nghĩa vụ quân sự là vấn đề thế tục, nên không thể chấp 
nhận việc từ chối nhập ngũ vì lý do tôn giáo. Bởi vì, điều này  ... ày phải thông tin 
thường xuyên về mọi hoạt động của mình cũng như hồ sơ của mỗi thành 
viên35. Trên phương diện rộng hơn, Nhật Bản đã sửa đổi và thông qua 
54 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
Luật pháp nhân tôn giáo 1995. Tiêu điểm của luật sửa đổi là “tăng sự 
giám sát của nhà nước đối với các tổ chức tôn giáo và yêu cầu các tổ 
chức tôn giáo công khai tình hình tài chính”36, tất cả nhằm kiểm soát chặt 
chẽ hơn hoạt động của các tổ chức tôn giáo. 
Nói ngắn gọn, các quốc gia đều nhạy cảm với các vấn đề gây chia rẽ 
tôn giáo mà về mặt lịch sử đã dẫn đến chiến tranh, đàn áp, bạo lực và 
phân rẽ xã hội. Theo sự tổng kết của Coles Durham, có hai chiến lược đối 
phó với vấn đề này: Một là, nhà nước cố triệt tiêu sự khác biệt bằng cách 
đàn áp những niềm tin tôn giáo có tính chất gây chia rẽ. Hai là, nhà nước 
quyết tâm thực hiện nguyên lý khoan dung, cho phép tồn tại một phổ 
rộng khác biệt tôn giáo đến mức các niềm tin tôn giáo dù có khác biệt thế 
nào vẫn có thể hòa đồng với nhau trong một xã hội ổn định. Kinh nghiệm 
của các nước phát triển ổn định cho thấy, tôn trọng các niềm tin dị biệt, 
gồm cả tôn giáo, sẽ mang lại hiệu quả cho chiến lược xây dựng ổn định 
xã hội nhiều hơn là thẳng tay đàn áp chúng37. 
4. Thay lời kết luận: tương lai mối quan hệ giữa nhà nước với hiện 
tượng tôn giáo mới 
Vấn đề hiện tượng tôn giáo mới đã không còn mới đối với thế giới 
thời hậu hiện đại nữa. Trải qua một thời gian đáng kể, các xã hội đã quen 
dần với sự xuất hiện của hiện tượng tôn giáo mới và sự căng thẳng đã 
giảm đi. Thách thức của hiện tượng tôn giáo mới được tiếp nhận bình 
tĩnh hơn, với tinh thần khoan dung có thể quan sát thấy được. 
Chính phủ các nước đã có sự chuẩn bị tốt hơn trong ứng xử với những 
sự vụ do các hiện tượng tôn giáo mới gây ra. Điều này không có nghĩa là, 
các hiện tượng tôn giáo mới không bị quản lý chặt chẽ hoặc đàn áp. Tuy 
nhiên, dù có môi trường tôn giáo ổn định thế nào đi nữa, không nhà nước 
nào coi nhẹ vấn đề hiện tượng tôn giáo mới. Một số hiện tượng tôn giáo 
mới lựa chọn cách phê phán chế độ để giành lấy sự chú ý của người dân. 
Thách thức về uy quyền chính trị là một việc bất cứ chính phủ nào cũng 
phải xem xét một cách nghiêm túc. Trên phạm vi toàn cầu, theo J. 
Gordon Melton, hầu hết các quốc gia đều có đủ cơ chế luật pháp để điều 
tra và xử lý sai trái do các hiện tượng tôn giáo mới thực sự gây ra. Bắt 
buộc đăng ký hay hủy bỏ đăng ký hoạt động dù sao vẫn là một công cụ 
mạnh và tiếp tục được chính phủ nhiều nước áp dụng nhằm quản lý và 
kiểm soát các hiện tượng tôn giáo mới38. 
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 55 
55 
Nếu sự đàn áp đối với hiện tượng tôn giáo mới tiếp tục được chính 
quyền áp dụng, thì nó thường rơi vào trường hợp mà Phillip Charles 
Lucas khái quát như sau: “Nhân số sau cùng đóng góp vào việc gia tăng 
đàn áp tôn giáo mới và tôn giáo thiểu số trên thế giới là sự trỗi dậy của 
chủ nghĩa quốc gia trong nhiều đất nước vốn đang phải vật lộn để xây 
dựng bản sắc dân tộc rõ nét đi theo những thay đổi thể chế cấp tiến. Các 
lực lượng dân tộc chủ nghĩa đôi lúc đứng về phía các tổ chức tôn giáo 
truyền thống để tìm kiếm lại sự đồng thuận văn hóa bằng cách xóa đi 
những tôn giáo được cho là phi truyền thống”39. 
Ở một chiều hướng khác, hầu hết các hiện tượng tôn giáo mới đã 
chín chắn hơn trong cách tìm chỗ đứng cho mình trong không gian tôn 
giáo, văn hóa ở các xã hội cụ thể. Họ cũng điều chỉnh các thách thức 
của mình và tìm kiếm sự tồn tại trong hòa hợp. Trong tình hình như thế, 
có thể phán đoán ra hai xu thế của mối quan hệ giữa nhà nước và hiện 
tượng tôn giáo mới, đó là xu hướng quản lý bằng luật pháp thông 
thường và xu hướng tiếp tục tìm cách thể chế hóa hoạt động của hiện 
tượng tôn giáo mới. 
Hiện tượng tôn giáo mới vẫn xuất hiện bởi nhiều lý do có thể thấy 
được. Trước hết, đó là sự tiếp tục của tính sống động tôn giáo vẫn chảy 
ngầm trong văn hóa của nhiều dân tộc, đặc biệt là các quốc gia ở Châu Á. 
Thứ hai, đó là sự phục hồi tôn giáo trên phương diện toàn cầu. Thứ ba, 
các hiện tượng tôn giáo mới ra đời để đáp ứng sự xuất hiện nhu cầu tôn 
giáo mà các tôn giáo truyền thống không có sẵn. Thứ tư, sáng tạo tôn 
giáo vì mục đích phi tôn giáo, như lợi ích kinh tế, đoạt lấy quyền uy, thỏa 
mãn tham vọng ảnh hưởng xã hội, mưu cầu động cơ chính trị, cổ xúy chủ 
nghĩa quốc gia, là một chiến lược mà con người trong thế giới hậu hiện 
đại vẫn thường dùng để tồn tại và vươn lên. Trong tình hình đó, chính 
phủ các nước vẫn luôn phải tìm cách ứng phó để vừa đảm bảo cam kết về 
tự do tôn giáo, vừa đảm bảo được uy quyền chính trị, an ninh xã hội và 
lợi ích công cộng. Tuy nhiên, khi cần thiết, tự do tôn giáo sẽ thường phải 
nhường sự ưu tiên cho an ninh quốc gia. Như thế, không có mô hình quan 
hệ ổn định nào về tương lai của quan hệ giữa nhà nước và hiện tượng tôn 
giáo mới./. 
56 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
CHÚ THÍCH: 
1 James T. Richardson (2005), “Law and Religion: Law and New Religious 
Movements”, trong Lindsay Jones ed., Encyclopedia of Religion, Vol. 8, 2nd ed, 
Macmillan Reference, Detroit: 5375 - 5379. 
2 Daniele Hervieu Leger (2004), “France's Obsession with the ‘Sectarian Threat’”, 
trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious 
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in 
Global Perspective, Routledge, New York. 
3 Eileen Barker (2004), “General Overview of the ‘Cult Scene’ in Great Britain”, 
trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious 
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in 
Global Perspective, Sđd. 
4 James T. Richardson (2005), “Law and Religion: Law and New Religious 
Movements”, trong Lindsay Jones ed., Encyclopedia of Religion, Vol. 8, 2nd ed., 
tlđd. 
5 Anthony Bradney (2001), “New Religious Movements: The Legal Dimension”, 
trong Bryan Wilson and Jamie Cresswell eds., New Religious Movements: 
Challenge and Response, Routledge, New York; James T. Richardson (2005), 
“Law and Religion: Law and New Religious Movements”, trong Lindsay Jones 
ed., Encyclopedia of Religion, Vol. 8, 2nd ed., tlđd. 
6 Cole Durham (2006), “Tiến trình và bối cảnh hiện tại của luật tôn giáo ở Đông 
Nam Á: một cách nhìn so sánh”, trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu 
Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước 
đầu thảo luận”, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2006), “Công nhận tổ chức tôn giáo: 
Một cách tiếp cận so sánh nhân trường hợp Việt Nam”, trong Viện Khoa học xã 
hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền trong bối cảnh 
Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội. 
7 James T. Richardson (2004), “New Religions in Australia: Public Menace or 
Societal Salvation?”, trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New 
Religious Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social 
Challenges in Global Perspective, Sđd: 207. 
8 Anthony Bradney (2001), “New Religious Movements: The Legal Dimension”, 
trong Bryan Wilson and Jamie Cresswell eds., New Religious Movements: 
Challenge and Response, Sđd: 90. 
9 Francis Messner (2006), “Nhà nước và tôn giáo ở Pháp”, trong Viện Khoa học 
xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền trong bối 
cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội. 
10 Francis Messner (2006), “Nhà nước và tôn giáo ở Pháp”, bđd; Jean Paul 
Willaime (2006), “Các tôn giáo thiểu số và Tin Lành trong quan hệ với luật tôn 
giáo ở Pháp”, trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế 
“Tôn giáo và pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, 
Hà Nội. 
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 57 
57 
11 Francis Messner (2006), “Nhà nước và tôn giáo ở Pháp”, bđd. 
12 Tan Kheng Boon (2006), “Khuyến khích tiết chế tôn giáo giai đoạn hậu 11/9: 
Kinh nghiệm từ Singapore”, trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội 
thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu 
thảo luận”, Hà Nội. 
13 Rik Torfs (2006), “Kinh nghiệm của các nền dân chủ Phương Tây trong việc giải 
quyết vai trò pháp lý của các tổ chức tôn giáo và cộng đồng tôn giáo”, trong Viện 
Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền 
trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội. 
14 Lee Min Choon (2006), “Vị thế pháp lý của tổ chức tôn giáo: Kinh nghiệm của 
Malaysia”, trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn 
giáo và pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội. 
15 Tan Kheng Boon (2006), “Khuyến khích tiết chế tôn giáo giai đoạn hậu 11/9: 
Kinh nghiệm từ Singapore”, bđd. 
16 Bên trong giáo phái cực đoan nhất Trung Quốc, 
gioi/tu-lieu/ben-trong-giao-phai-cuc-doan-nhat-trung-quoc-3034397.html 
17 Chung Hoang (2012), “New Religious Movements in Vietnamese Media 
Discourse since 1986: A Critical Approach”, Australian Religion Studies Review, 
Vol. 25: 293 - 315. 
18 Eileen Barker (2004), “General Overview of the ‘Cult Scene’ in Great Britain”, 
Sđd: 29. 
19 Eileen Barker (2004), “General Overview of the ‘Cult Scene’ in Great Britain”, 
Sđd: 30. 
20 Brigitte Schoen (2004), “The Publicity of the Public Square”, trong Phillip 
Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious Movements in the 21st 
Century: Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, 
Routledge, New York. 
21 Tan Kheng Boon (2006), “Khuyến khích tiết chế tôn giáo giai đoạn hậu 11/9: 
Kinh nghiệm từ Singapore”, bđd. 
22 Lee Min Choon (2006), “Vị thế pháp lý của tổ chức tôn giáo: Kinh nghiệm của 
Malaysia”, bđd. 
23 Scott Lowe (2004), “NRMs and the Limits of Chinese Freedom”, trong Phillip 
Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious Movements in the 21st 
Century: Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, Sđd: 179 
- 185. 
24 Scott Lowe (2004), “NRMs and the Limits of Chinese Freedom”, Sđd: 187. 
25 Marat Shterin (2004), “New Religions in the New Russia”, trong Phillip Charles 
Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious Movements in the 21st Century: 
Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, sđd: 99-104. 
26 Marat Shterin (2004), “New Religions in the New Russia”, Sđd: 108. 
27 Anatoli Sokolov (2006), “New Religious Phenomena and the State Policies”, 
trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và 
pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội. 
58 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
28 Ian Reader (2004), “Japanese Paradigm Shift and Moral Panic in the Post-Aum 
Era”, trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious 
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in 
Global Perspective, Routledge, New York. 
29 Daniele Hervieu Leger (2004), “France's Obsession with the ‘Sectarian Threat’”, 
Sđd: 50. 
30 Daniele Hervieu Leger (2004), “France's Obsession with the ‘Sectarian Threat’”, 
Sđd: 51. 
31 Daniele Hervieu Leger (2004), “France's Obsession with the ‘Sectarian Threat’”, 
Sđd: 56. 
32 Susan J. Palmer (2002), “Fieldnote: France's Anti Sect Wars”, Nova Religio: The 
Journal of Alternative and Emergent Religions, Vol. 6: 174 - 182; Susan J. 
Palmer (2004), “The Secte Response to Religious Discrimination: Subversive, 
Martyrs or Freedom Fighters in the French Sect Wars?”, trong Phillip Charles 
Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious Movements in the 21st Century: 
Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, Sđd: 61. 
33 Phillip Charles Lucas (2004), “Conclusion: The Future of New and Minority 
Religions in the Twenty First Century: Religious Freedom under Global Siege”, 
trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious 
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in 
Global Perspective, Sđd: 354. 
34 Francis Messner (2006), “Nhà nước và tôn giáo ở Pháp”, bđd. 
35 Ian Reader (2004), “Japanese Paradigm Shift and Moral Panic in the Post Aum 
Era”, Sđd: 194 - 195. 
36 Nguyễn Ngọc Phương Trang (2012), Tôn giáo mới ở Nhật Bản từ sau Thế chiến 
Thứ II đến những năm 1990, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội 
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội: 77. 
37 Cole Durham (2006), “Tiến trình và bối cảnh hiện tại của luật tôn giáo ở Đông 
Nam Á: một cách nhìn so sánh”, bđd. 
38 J. Gordon Melton (2004), “The Fate of NRMs and Their Detractor in Twenty 
First Century America”, trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., 
New Religious Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social 
Challenges in Global Perspective, Routledge, New York. 
39 Phillip Charles Lucas (2004), “Conclusion: The Future of New and Minority 
Religions in the Twenty First Century: Religious Freedom under Global Siege”, 
Sđd: 352. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bên trong giáo phái cực đoan nhất Trung Quốc, 
gioi/tu-lieu/ben-trong-giao-phai-cuc-doan-nhat-trung-quoc-3034397.html. 
2. Chung Hoang (2012), “New Religious Movements in Vietnamese Media 
Discourse since 1986: A Critical Approach”, Australian Religion Studies Review, 
Vol. 25. 
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 59 
59 
3. Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds. (2004), New Religious 
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in 
Global Perspective, Routledge, New York. 
4. Susan J. Palmer (2002), “Fieldnote: France's Anti Sect Wars”, Nova Religio: The 
Journal of Alternative and Emergent Religions, Vol. 6. 
5. James T. Richardson (2005), “Law and Religion: Law and New Religious 
Movements”, trong Lindsay Jones ed., Encyclopedia of Religion, Vol. 8. 2nd ed., 
Macmillan Reference, Detroit. 
6. Nguyễn Ngọc Phương Trang (2012), Tôn giáo mới ở Nhật Bản từ sau Thế chiến 
Thứ II đến những năm 1990, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội 
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
7. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và 
pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội. 
8. Bryan Wilson and Jamie Cresswell eds. (2001), New Religious Movements: 
Challenge and Response, Routledge, New York. 
Abstract 
COMPORTMENT OF SOME STATES IN THE WORLD 
WITH THE NEW RELIGIOUS MOVEMENTS 
This article clarified contents related to the comportment of some 
nations to the New Religious Movements which appeared all over the 
world from the years 60s of the 20th century, such as States’ behavior 
towards the challenge of the arising and developing of New Religious 
Movements? States’ mode faces the challenges of the New Religious 
Movements? The relation amongst States and the New Religious 
Movement in the future? Clarifying these contents will help to establish 
the principle of comportment with the New Religious Movements that 
arose increasingly from the middle 1980s to present. 
Keywords: Behavior, challenge, law, new religion. 

File đính kèm:

  • pdfung_xu_cua_mot_so_nha_nuoc_tren_the_gioi_doi_voi_hien_tuong.pdf