Y khoa - Chương VI: Một số bệnh phụ (nam) khoa
Kinh nguyệt là một hiện tượng sinh lý bình thường của phụ nữ, đã đến ngày nhưng không
thấy có kinh nguyệt xuất hiện gọi là tắc kinh. Tắc kinh có hai loại là tắc kinh sinh lý và tắc kinh
bệnh lý. Tắc kinh sinh lý là chỉ tắc kinh do trước khi dậy thì, trong thời kỳ mang thai, thời kỳ
cho con bú và thời kỳ mãn kinh, do thay đổi một số kích thích tố trong cơ thể, dẫn đến kinh
nguyệt không có, nó thuộc loại hiện tượng sinh lý bình thường. Nhưng bế kinh bệnh lý bao
gồm bế kinh đoạn phát và tắc kinh nguyên phát. Tắc kinh nguyên phát là để chỉ phụ nữ qua 18
tuổi mà vẫn chưa có kinh nguyệt. Tắc kinh đoạn phát là để chỉ hiện tượng trước đây đã từng có
kinh nguyệt, nhưng đã mất kinh từ 3 tháng trở lên. Nguyên nhân gây ra tắc kinh nguyên phát
có rất nhiều, có thể phân chia thành ba trường hợp sau:
(1). Tắc kinh do tử cung, nếu bẩm sinh đã không có tử cung, tử cung phát triển không tốt,
chức năng noãn già yếu.
(2). Tắc kinh do thuỳ não điều khiển, ví dụ như thuỳ não bị u bướu, tổn thương.
(3). Tắc kinh do thuỳ não dưới, ví dụ như các nhân tố tinh thần thần kinh, các bệnh về
đường tiêu hoá, các bệnh tổng hợp do ức chế thuốc v.v
Điều cần chú ý là, có một loại tắc kinh trong một thời gian ngắn, nó là do nguyên nhân tắc
cổ tử cung, tắc âm đạo, tắc màng trinh làm cho bộ phận sinh dục không thông. Khi mỗi lần có
kinh nguyệt, kinh nguyệt không thể thoát ra ngoài được, mà tắc trong tử cung, âm đạo, cho
nên, những người phụ nữ này sẽ bị đau bụng theo tính chu kỳ. Đồng thời, khi đó, nếu sờ tay vào
bụng dưới thì có thể thấy một cục cứng, dần dần ngày càng to. Đối với những trường hợp này
cần tích cực can thiệp bằng phẫu thuật để chữa trị
Tóm tắt nội dung tài liệu: Y khoa - Chương VI: Một số bệnh phụ (nam) khoa
Chương VI: Một số bệnh phụ (nam) khoa I. Tắc kinh Kinh nguyệt là một hiện tượng sinh lý bình thường của phụ nữ, đã đến ngày nhưng không thấy có kinh nguyệt xuất hiện gọi là tắc kinh. Tắc kinh có hai loại là tắc kinh sinh lý và tắc kinh bệnh lý. Tắc kinh sinh lý là chỉ tắc kinh do trước khi dậy thì, trong thời kỳ mang thai, thời kỳ cho con bú và thời kỳ mãn kinh, do thay đổi một số kích thích tố trong cơ thể, dẫn đến kinh nguyệt không có, nó thuộc loại hiện tượng sinh lý bình thường. Nhưng bế kinh bệnh lý bao gồm bế kinh đoạn phát và tắc kinh nguyên phát. Tắc kinh nguyên phát là để chỉ phụ nữ qua 18 tuổi mà vẫn chưa có kinh nguyệt. Tắc kinh đoạn phát là để chỉ hiện tượng trước đây đã từng có kinh nguyệt, nhưng đã mất kinh từ 3 tháng trở lên. Nguyên nhân gây ra tắc kinh nguyên phát có rất nhiều, có thể phân chia thành ba trường hợp sau: (1). Tắc kinh do tử cung, nếu bẩm sinh đã không có tử cung, tử cung phát triển không tốt, chức năng noãn già yếu. (2). Tắc kinh do thuỳ não điều khiển, ví dụ như thuỳ não bị u bướu, tổn thương. (3). Tắc kinh do thuỳ não dưới, ví dụ như các nhân tố tinh thần thần kinh, các bệnh về đường tiêu hoá, các bệnh tổng hợp do ức chế thuốc v.v Điều cần chú ý là, có một loại tắc kinh trong một thời gian ngắn, nó là do nguyên nhân tắc cổ tử cung, tắc âm đạo, tắc màng trinh làm cho bộ phận sinh dục không thông. Khi mỗi lần có kinh nguyệt, kinh nguyệt không thể thoát ra ngoài được, mà tắc trong tử cung, âm đạo, cho nên, những người phụ nữ này sẽ bị đau bụng theo tính chu kỳ. Đồng thời, khi đó, nếu sờ tay vào bụng dưới thì có thể thấy một cục cứng, dần dần ngày càng to. Đối với những trường hợp này cần tích cực can thiệp bằng phẫu thuật để chữa trị. 1. Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh Ngày nay, người ta đã chứng minh được rằng, đơn sâm có chức năng ức chế sự tích tụ của tiểu cầu máu, chống đông lại, từng bước hoà tan và không chế tắc mạch máu, có tác đụng đề phòng các chứng bệnh do tắc mạch máu. Nếu dùng đơn sâm và đường đỏ ngâm với nhau, làm thành trà để uống, có thể trị bệnh tắc kinh rất tốt. 2. Các loại trà nên sử dụng (1). Trà đương quy ích mẫu Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lấy 8 gam đương quy, 10 cỏ ích mẫu. Đun sôi những nguyên liệu trên lấy nước dùng làm trà. Mỗi ngày uống từ 2 lần trở lên. Công dụng chữa trị: Bổ huyết, giảm tích tụ máu, điều trị thống kinh. Chú ý: Phương thuốc này thích hợp với chứng tắc kinh, hư nhược. (2). Trà đại hoàng sơn tra Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lấy 10 gam đại hoàng, 15 gam sơn tra rồi cho vào đun sôi lấy nước dùng. Công dụng chữa trị: Hoạt huyết, giảm tích tụ máu. Chú ý: Loại trà này thích hợp với chứng bế kinh tích tụ máu, bụng dưới đau nhói. (3). Trà đậu đen hồng hoa Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 30 gam đậu đen, 6 gam hồng hoa, 30 gam đường. Đậu đen chọn lấy những hạt tốt, ngon, đem rửa sạch. Cho đậu đen, hồng hoa vào nồi đun to lửa, cho thêm lượng nước vừa đủ, đun lửa to đến sôi, sau đó chuyển sang lửa nhỏ đun cho đến khi đậu đen chín nhừ là được, bỏ đậu đen và hồng hoa đi, chỉ lấy nước, cho thêm đường đỏ vào khuấy đều lên uống là được. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 cốc. Công dụng chữa trị: Hoạt huyết, giảm tích tụ máu, điều hoà kinh nguyệt, giảm đau do kinh nguyệt. Chú ý: Loại trà này chủ trị bế kinh do khí huyết ứ đọng, kinh nguyệt không bình thường, eo lưng đau mỏi, bụng dưới trướng đau, buồn bực, dễ nổi cáu, mất ngủ, mơ nhiều. (4). Trà đan sâm đường Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Đan sâm và đường, mỗi thứ 60 gam. Đun với 1,5 lít nước cho đến khi cạn còn 500 ml là được. Mỗi sáng, tối uống 1 lần, uống liền trong 2 tuần. Công dụng chữa trị: Hoạt huyết, giảm tích tụ máu, hoạt huyết điều kinh. Chú ý: Loại trà này chủ trị tắc kinh do âm huyết hư tổn, chứng viêm máu thường thấy, tinh thần mệt mỏi, váng đầu, ù tai, da mặt nhợt nhạt, sốt ruột, nôn nóng. (5). Trà khiếm thảo Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 60 gam rễ khiếm thảo. Thêm 1 lít nước đun sôi rồi uống. Uống 2 lần/ ngày. Công dụng chữa trị: Hoạt huyết, giảm tích tụ máu, hành khí giải sầu. Chú ý: Loại trà này chủ trị gan khí tích tụ, hành huyết không thông dẫn đến tắc kinh do tắc khí. Biểu hiện thường thấy tâm trạng buồn chán không vui, sốt ruột, nôn nóng dễ nổi cáu, bụng ngực sưng, hai xương sườn đau, không có kinh nguyệt. (6). Trà quả dâu mã lan Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 30 gam quả dâu, 3 quả đại táo, 15 gam gừng già, 1 bộ rễ mã lan. Cho tất cả nguyên liệu vào nồi, thêm lượng nước vừa đủ đun sôi lên lấy nước uống, uống cho đến khi kinh nguyệt đến mới thôi. Công dụng chữa trị: Bổ thận hoạt huyết. Chú ý: Loại trà này chủ trị tắc kinh do thận hư tích tụ máu. Biểu hiện thường thấy: không có kinh nguyệt, eo lưng đau nhức, ù tai, bụng dưới đau, bầu vú đau nhức hoặc sưng tấy. (7). Trà ích mẫu Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lấy 30 gam cỏ ích mẫu. Cho cỏ ích mẫu vào nồi, thêm 500 ml nước, đun lửa vừa vừa cho đến sôi, sau đó chuyển sang lửa nhỏ đun trong khoảng 15 phút, thêm lượng vừa phải vào khuấy đều, uống thường xuyên thay trà, dùng liền trong 3 -5 ngày hoặc cho đến khi kinh nguyệt đến mới thôi. Công dụng chữa trị: Hoạt huyết, giảm tích tụ máu. Chú ý: Loại trà này chủ trị tắc kinh do tích tụ máu. Biểu hiện thường thấy: kinh nguyệt không đến đúng kỳ, thường kéo dài hơn 3 tháng mới thấy có, bầu vú đau nhức hoặc sưng tấy, bụng dưới đau, lưỡi xám xịt, da mặt tối, buồn chán phiền muộn. 3. Những điều cần ghi nhớ Để phòng tránh chứng tắc kinh ngay trong cuộc sống hàng ngày có một số điểm bạn cần chú ý sau: Luôn duy trì tinh thần lạc quan, phóng khoáng, tâm trạng vui vẻ. Tắc kinh đa phần là do bài tiết trong cơ thể bị rối loạn, mà bài tiết trong cơ thể có quan hệ mật thiết với trạng thái tinh thần. Cho nên, nếu bị tắc kinh nên duy trì tâm trạng lạc quan, phóng khoáng, độ lượng, điều này có ý nghĩa rất tích cực với việc phòng ngừa bệnh tắc kinh. Bình thường, nên loại bỏ những yếu tố kích thích tinh thần, đặc biệt tránh bị tổn thương, buồn bã quá, tránh những suy nghĩ tiêu cực. Nếu gặp phải vấn đề gì, nên bình tĩnh, cùng mọi người giải quyết, sau khi việc đã qua, không nên suy nghĩ nhiều, càng không được buồn bã, ít nói ít cười, nếu không sẽ bị những yếu tố không tốt đó làm cho ảnh hưởng không tốt, cần tiến hành và nhẫn nại áp dụng các phương phát trị liệu kịp thời, giải trừ sự căng thẳng và tiêu cực của tinh thần, duy trì tâm trạng ổn định. Tích cực điều trị bệnh. Chú ý điều trị kịp thời các chứng bệnh khác là nguyên nhân gây ra bệnh tắc kinh, như các chứng viêm, lao, chế độ dinh dưỡng không tốt, thiếu máu, u bướu ở bụng, chức năng không tốt của nhóm máu A, của chức năng thận v.v Tích cực đề phòng các nguyên nhân dẫn đến chứng tắc kinh, như rối loạn tử cung, điều trị bằng phóng xạ, tắc kinh do sử dụng thuốc tránh thai v.v Chú ý kết hợp lao động và nghỉ ngơi, không nên làm việc quá nặng nhọc, tăng cường rèn luyện sức khoẻ, nâng cao thể chất, tăng cường khả năng miễn dịch, kịp thời chữa trị những chứng bệnh mãn tính. II. Nôn nghén Nôn nghén là để chỉ hiện tượng phụ nữ trong thời kỳ mới mang thai, phản ứng của cơ thể tương đối nghiêm trọng, nôn nhiều lần, thậm chí có thể dẫn đến không ăn uống gì được. Một khi xảy ra hiện tượng nôn nghén, thường dẫn đến chất điện giải trong cơ thể sản phụ mất đi sự cân bằng, thiếu hoặc dẫn đến nhiễm độc. Bệnh này chưa rõ nguyên nhân, nhiều quan điểm cho rằng nó có quan hệ với kích thích tố mao mạch trong máu và sự gia tăng của kích thích tố dạ dày. Tinh thần căng thẳng dẫn đến bệnh càng thêm nghiêm trọng. Phạm trù “nôn nghén” thuộc Đông y học cho rằng, chủ yếu là do gan khí, dạ dày, và thận tỳ của phụ nữ mang thai hư nhược, dẫn đến khí trong dạ dày gia tăng và buồn nôn. 1. Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh Kê nội kim có thể thúc đẩy sự phân tiết của dịch vị, nâng cao một cách rõ rệt nồng độ axit có trong dịch vị. Nước ép kê nội kim, uống cùng với trà sẽ có công dụng trị liệu rất tốt đối với chứng nôn nghén 2. Các loại trà nên sử dụng (1). Trà gừng tươi mía Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Nước mía, nước gừng tươi mỗi thứ 10 ml, trộn lẫn vào nhau rồi chia nhỏ uống dần, nhấp từng ngụm nhỏ. Công dụng chữa trị: Kiện tỳ vị, chống nôn. Chú ý: Phương thuốc trên chủ trị phụ nữ có thai thận vị hư nhược bị nôn. (2). Trà trứng giấm ăn và đường trắng Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 60 gam giấm gạo đun sôi, cho thêm 30 gam đường trắng vào đun tan, đạp thêm 1 quả trứng gà vào, uống hết sau khi đun chín. Uống 2 lần/ ngày. Công dụng chữa trị: Kiện vị, ngừng nôn. Chú ý: Phương thuốc trên chủ trị phụ nữ có thai thận vị hư nhược, bị nôn. (3). Trà trúc như mật ong Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 15 gam trúc như đun sôi lấy nước, cho thêm mật ong vào uống. Công dụng chữa trị: Từ âm dưỡng vị, chống nôn. Chú ý: Phương thuốc trên chủ trị phụ nữ có thai tỳ vị hư nhược và dạ dày, bổ âm không đủ. (4). Trà mật ong lá tỳ bà Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lấy 2 lá tỳ bà, nướng trên lửa một chút cho cháy hết lông mao, đun sôi lên lấy nước, cho thêm 30 gam mật ong vào, uống là được. Công dụng chữa trị: Bảo vệ dạ dày, bổ âm. Chú ý: Phương thuốc trên chủ trị chứng phụ nữ có thai buồn nôn. (5). Nước gừng hẹ Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Nước hẹ, nước gừng tươi, đường trắng mỗi thứ đủ dùng uống nước. Công dụng chữa trị: Ôn trung, trị nôn, hành khí hoà trung. Chú ý: Phương thuốc này chủ trị phụ nữ có thai buồn nôn do gan thận không tốt, triệu chứng thường thấy là buồn nôn, không muốn ăn uống gì cả. (6). Trà tía tô hương nhu Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lá tía tô, hương nhu mỗi thứ 9 gam; 3 gam sa nhân, 6 gam trần bì, cho tất cả vào đun sôi lên lấy nước uống. Ngày uống 3 – 4 lần, khoảng 100 ml/ lần. Công dụng chữa trị: Bổ tì khai vị, chống buồn nôn. Chú ý: Phương thuốc này chủ trị phụ nữ thời kỳ đầu có thai buồn nôn, nhiều đờm và nước bọt, bụng trướng to. (7). Trà rễ cần tươi Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 10 rễ cần tươi, 15 gam cam thảo, đun sôi lên, đập thêm một quả trứng gà vào là được. Công dụng chữa trị: Thanh nhiệt. Chú ý: Món này chủ trị phụ nữ có thai buồn nôn. (8). Trà hạt sen Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 30 gam hạt sen, 1 gam trà xanh. Hạt sen cho thêm nước vào đun sôi lên khoảng 30 phút, sau đó, cho thêm trà xanh vào đun cùng, khuấy đều lên là được. Mỗi ngày làm 1 lần, chia làm 3 lần uống. Công dụng chữa trị: Kiện vị, chống tả, bổ dưỡng, tráng kiện. Chú ý: Phương thuốc này chủ trị phụ nữ có thai buồn nôn. 3. Những điều cần ghi nhớ Nếu thực hiện tốt những điều sau đây, có thể sẽ giúp chứng nôn ở phụ nữ có thai giảm đi một cách đáng kể: Tránh tinh thần căng thẳng và những kích thích không tốt. Cần làm tốt công tác giải thích và an ủi cho thai phụ, làm tiêu tan đi những băn khoăn của thai phụ, tăng cường tâm lý trị khỏi bệnh cho chị em, các thành viên trong gia đình cần quan tâm, chăm sóc nhiều cho thai phụ, không nên để cho chị em bực tức hoặc chịu những kích thích không tốt về tinh thần. Nếu không, sẽ làm cho chức năng trung khu thần kinh buồn nôn mất sự cân bằng, sẽ dẫn đến bệnh ngày càng nghiêm trọng Nên ăn uống điều độ, chia nhỏ khẩu phần ăn thành nhiều bữa, ăn các loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng và dễ tiêu hoá, không nên ăn những thức ăn nhiều dầu mỡ và những thức ăn mang tính chất kích thích như cay nóng. Phụ nữ sau khi có thai nên chú ý đảm bảo ngủ đủ giấc, bảo đảm không khí trong phòng luôn thoáng đãng, tránh những mùi kích thích. III. Thiếu sữa sau khi sinh Thiếu sữa sau khi sinh là để chỉ hiện tượng sản phụ sau khi sinh do kích thích đầu vú không đủ hay vì một lý do nào đó mà lượng sữa tiết ra không đủ để nuôi dưỡng em bé. Bệnh này nếu không xử lý kịp thời sẽ ảnh hưởng đến dinh dưỡng cho em bé. Đây là cách gọi tên bệnh theo Tây y. Đông y gọi bệnh này là “tắc sữa” hoặc “thiếu sữa”. Nguyên nhân gây bệnh, thứ nhất là do khí huyết hư nhược, nguồn sữa không tốt, thứ hai là do gan. 1. Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh Các vị thuốc Đông y như nhân sâm, đương quy, a giao v.v đều có tác dụng tạo máu dần dần. Nếu cho những vị thuốc trên vào pha uống cùng trà sẽ có thể điều trị giảm bớt chứng sau khi sinh bị thiếu sữa. 2. Các loại trà nên sử dụng (1). Trà hạch đào Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lấy 5-15 cái nhân hạch đào; 1,5 -1 gam trà xanh, 25 gam đường trắng. Đem ngâm tất cả các nguyên liệu trên cùng nhau, rồi đun sôi lên khoảng 5 phút, khuấy đều là được. Mỗi ngày làm 1 lần, chia làm 2 lần để uống. Công dụng chữa trị: Bổ thận, ích phổi, cầm ho. Chú ý: Món trà trên dùng để điều trị chứng cơ bắp đau nhức, hư nhược, thở dốc, sau khi sinh chân tay yếu đuối, bệnh viêm phế quản mãn tính. (2). Trà bổ sữa Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lấy 30 gam hoàng kỳ tươi, 15 gam đương quy, 12 gam tri mẫu, 12 gam huyền sâm, 6 gam xuyên sơn giáp sấy khô, 3 cái lộ lộ thông loại to, khô; 12 gam semen vaccariae. Tất cả các loại nguyên liệu trên nấu cùng với mướp. Công dụng chữa trị: Bổ khí huyết, thông tắc sữa. Chú ý: Món này thích hợp với những phụ nữ sau khi sinh khí huyết kém, tắc kinh lạc, thiếu sữa. (3). Trà thông tuyến sữa Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 9 gam semen vaccariae sấy khô, 9 gam xuyên sơn giáp sấy khô, bột thiên hoa; 4,5 gam thân đương quy; mộc thông, cam thảo mỗi thứ 9 gam. Cho tất cả các nguyên liệu trên vào nồi cùng một cái chân giò nấu nhừ lên, cho 750 ml nước, đun lấy 250 ml nước thuốc là được, chia làm 2 lần uống khi đói. Công dụng chữa trị: Lợi sữa. Chú ý: Món trên dùng để trị bệnh phụ nữ sau khi sinh mất sữa. (4). Trà lợi sữa Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Hoàng kỳ, thục địa mỗi thứ 24 gam; 15 gam đương quy; xuyên khung, cẩu tử, thông thảo, semen vaccariae mỗi thứ 6 gam, lá trà đủ dùng. Cho vào nấu cùng với chân giò lợn. Công dụng chữa trị: ích khí dưỡng huyết, thông lợi sữa. Chú ý: Món trên thích hợp với phụ nữ khí huyết hư nhược, thiếu sữa. 3. Những điều cần ghi nhớ Để đề phòng sau khi sinh thiếu sữa, cần chú ý mấy điều sau đây: (1). Khẩu vị ăn không nên quá nhạt. Nhiều phụ nữ trong khi mang thai không ăn rau, chỉ ăn cơm và trứng, ăn quá nhạt, khiến mất cân bằng dinh dưỡng. Thực ra, phụ nữ có thai hàng ngày cần ăn uống đầy đủ lượng vitamin và vi sinh tố, cần ăn nhiều loại thực phẩm có chứa nhiều hàm lượng vi chất sắt, đồng, kẽm, iốt, magiê, phốt pho, mangan v.v (2). Phụ nữ có thai không nên ăn kiêng. Thực ra, sau khi sinh cần ăn uống thực phẩm có đầy đủ chất dinh dưỡng, đa dạng, chỉ ăn một hoặc hai loại thức ăn không những không đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể, mà còn không có lợi cho việc tiết sữa. (3). Sau khi sinh nên thường xuyên ăn canh gà, canh xương, canh chân giò và canh cá sẽ có lợi cho việc tiết sữa, nhưng đồng thời cũng cần ăn nhiều thịt, vì chất dinh dưỡng có trong thịt nhiều hơn chất dinh dưỡng trong canh rất nhiều. (4). Không nên ăn quá nhiều trứng gà. Từ góc độ hấp thụ chất dinh dưỡng của cơ thể mà nói, sản phụ mỗi ngày chỉ ăn hai đến ba quả trứng, nếu ăn quá n ... ến cho lưu huỳnh phát tán đi mất, đồng thời kéo dài thời gian đun nước sôi. Nếu pha trà với loại nước sau khi đã được xử lý như vậy thì cũng vẫn sẽ duy trì được màu sắc tươi sáng, lúc này màu sắc và hương vị của trà cũng sẽ giống như khi chúng ta sử dụng nước tinh khiết để pha trà vậy. II. Uống trà như thế nào là đúng cách nhất? Ngày nay, uống trà đã trở thành một phần trong cuộc sống của con người, nhưng uống trà như thế nào mới là đúng đắn nhất? Phương pháp uống trà đã ngày càng được coi trọng, bởi nếu uống không đúng cách không những không thể hấp thụ được những thành phần dinh dưỡng có trà mà còn có thể gây hại cho bản thân. Vì vậy, khi uống trà cần phải chú ý một số điểm dưới đây: 1. Uống trà sau khi ăn cơm khoảng nửa tiếng đồng hồ là thích hợp nhất, hơn nữa uống trà cũng không nên uống quá nhiều nếu không có thể dẫn tới những phản ứng không tốt như hưng phấn quá độ, nhịp tim đập nhanh, mất ngủ, đi tiểu nhiều v.v Do canxi có trong nước tiểu bị mất đi quá nhiều, niêm mạc dạ dày bị kích thích quá lớn, uống trà đặc trong thời gian dài dễ dẫn tới xương cốt không được săn chắc và mắc chứng viêm loét dạ dày. 2. Trước khi đi ngủ không nên uống quá nhiều trà, nếu không có thể dẫn tới tinh thần tỉnh táo cao độ mà không có cách nào ngủ được, từ đó ảnh hưởng tới sự nghỉ ngơi của bản thân. Buổi sáng uống một cốc trà có thể giúp cho đầu óc tỉnh táo, nâng cao tinh thần. Trong khi làm việc uống trà cũng có thể giúp tiêu trừ mỏi mệt, tăng cường sức sống, nâng cao khả năng tư duy phán đoán. Vừa hút thuốc vừa uống trà có thể làm giảm nhẹ chất độc hại có dầu thuốc là và chất nicotin. Khi xem tivi uống một chút trà có thể giúp cho việc phục hồi thị lực, đồng thời có thể làm tiêu trừ những nguy hại của những tia bức xạ yếu. Nói tóm lại, thời gian thích hợp nhất để uống trà là do con người, do môi trường, do điều kiện công việc mà có những sự khác nhau, không nhất định là uống trà trong một thời gian quy định nào đó mới là có lợi. Lấy mục đích giải khát để uống trà thì càng mang tính tuỳ ý, cứ khi nào khát là có thể uống. Nhưng bất luận là hoàn cảnh nào uống trà cũng nên uống trà ấm, như vậy có thể phát huy một cách đầy đủ công hiệu của lá trà, duy trì được màu sắc, chất lượng và hương vị của nó. Tất cả những thành phần có ích có trong lá trà, khi nóng độ phân giải cao, cùng với sự tăng cao của nhiệt độ nước thì độ phân giải cũng dần dần tăng cao, hơn nữa dầu thơm có trong lá trà chỉ có thể phát huy khi ở nhiệt độ nước tương đối cao, hình thành nên mùi thơm hấp dẫn mọi người. Sau khi trà bị nguội đi thì dầu thơm cũng không thể toả ra được hương thơm của nó. Nói tóm lại, uống trà có 7 điều nên và không nên dưới đây: (1). Nên uống trà ngay sau khi vừa pha xong, không nên uống trà đã pha để qua đêm. (2). Không nên thiên thực đối với trà: Với nơi sản xuất, chế biến và những sản phẩm khác nhau của lá trà thì thành phần dinh dưỡng trong nó cũng khác nhau, cho nên trong cùng một thời gian có thể thay thế uống nhiều loại trà khác nhau. (3). Nên duy trì thói quen uống trà nhưng không nên uống quá nhiều trong một lần hay uống trà đặc. Uống nhiều trà đặc có thể khiến cho chức năng dạ dày mất đi sự điều tiết, vì thế mọi người cần phải đặc biệt chú ý vấn đề này. (4). Nên uống trà vào thời gian thích hợp. (5). Uống trà sau bữa ăn và buổi trưa là tốt nhất, nhưng sẽ không thích hợp nếu uống trà trước bữa ăn hay trước khi đi ngủ. (6). Trà nên uống khi còn ấm, không nên uống khi còn quá nóng. Cái gọi là “trà nóng gây tổn thương tới ngũ tạng”, “trà ấm có thể khiến con người sống lâu”. (7). Uống trà để giải khát chứ không nên dùng để uống thuốc. Trong lá trà có chứa một lượng lớn chất thuộc da, nếu sau khi uống thuốc lại uống trà ngay hoặc dùng nước trà để uống thuốc thì những chất có trong lá trà sẽ khiến thuốc bị kết tủa, công dụng điều trị của thuốc sẽ giảm thậm chí mất đi. III. Không nên dùng cốc bảo ôn để pha trà Có nhiều người thích sử dụng cốc bảo ôn để pha trà, mục đích nhằm duy trì nhiệt độ của nó. Nhưng pha trà bằng cốc bảo ôn có những điều bất lợi của nó. Lá trà là một nguyên liệu chứa nhiều thành phần dinh dưỡng, trong lá trà có phenol trà, tannic, chất thơm, axit amin và rất nhiều loại vitamin. Khi dùng ấm hoặc những loại cốc thông thường để pha trà, phần lớn những thành phần có ích sẽ được phân giải ở trong nước khiến cho nước trà sản sinh ra hương vị thơm, đồng thời lại khiến cho các thành phần như phenol trà và tannic bị phân giải một ít trong nước khiến cho nước trà có vị hơi đắng sảng khoái. Nhưng nếu dùng cốc bảo ôn để pha trà, do nhiệt độ luôn được duy trì ở mức độ cao khiến cho chất thơm rất nhanh bị tiêu tan mất, giảm bớt hương thơm vốn có của nó. Đồng thời, nhiệt độ cao còn có thể khiến cho phenol trà và tannic thoát ra bên ngoài, khiến cho trà có màu đậm, vị đắng chát. Ngoài ra, do vitamin không chịu được ở nhiệt độ cao, vitamin ở trong nhiệt độ cao trong thời gian dài cũng có thể khiến nó mất đi một lượng vitamin tương đối lớn. Vì vậy, không nên dùng cốc bảo ôn để pha trà. Cũng như vậy, không nên cho lá trà vào trong bình rồi đun lên uống. Nếu muốn uống trà nóng có thể dùng cốc thuỷ tinh để pha trà, sau khi pha trà xong thì cho vào trong cốc bảo ôn, như vậy vừa có thể bảo ôn trong thời gian dài là có thể giải quyết được những điều không tốt do pha trà bằng cốc bảo ôn dẫn tới. IV. Một ấm trà pha mấy lần là thích hợp? Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường cho rằng: Trà thượng hạng có búp chè non sẽ không thích hợp với việc pha lâu, thông thường chỉ pha hai lần là cho rằng chẳng còn vị trà nào cả. Đương nhiên, mức độ pha trà và độ non mềm của lá trà có quan hệ với nhau, nhưng điều quan trọng là quyết định bởi tính hoàn thiện của lá trà sau khi được chế biến, nếu khi chế biến lá trà càng vụn thì các chất trong lá trà càng nhanh chóng bị phân giải đi mất, những lá trà vẫn còn nguyên vẹn cánh của nó thì mức độ phân giải các chất trong lá trà càng chậm. Theo phân tích, sau khi dùng nước sôi để pha ba loại trà là hồng trà, trà xanh và trà ướp hoa, lần pha thứ nhất có thể làm phân giải tới trên 50% các chất có trong lá trà, lần thứ hai chiếm 30% và lần thứ ba là 10%, lần thứ tư là 1~3%. Những chất dễ phân giải trong nước theo như phân tích thì lần thứ 3 là tốt nhất. Từ góc độ dinh dưỡng mà nói, những thành phần vitamin, axit amin và các vật chất vô cơ khác, lần thứ nhất khi pha có thể bị phân giải lên tới 80%, lần thứ hai tỷ lệ đạt tới 95%. Các thành phần khác như phenol trà, cafein cũng sẽ bị phân giải phần lớn ngay từ lần pha trà đầu tiên. Sau ba lần pha trà, cơ bản thì các chất thành phần dinh dưỡng đã bị phân giải tan vào trong nước hết. Nói tóm lại, những loại trà thông thường như hồng trà, trà xanh, số lần pha trà là ba lần là tốt nhất. Đối với trà ô long bởi vì khi pha trà cho với lượng lớn có thì có thể pha thêm vài lần nữa. Còn đối với hồng trà vụn thì thông thường chỉ pha một lần là được. Ngoài ra, trà xuân thông thường có thể pha làm 5~6 lần, trà thu có thể pha 4~5 lần, còn trà hạ thì pha làm 3~4 lần. Hơn nữa độ non của lá trà càng cao thì số lần pha trà càng giảm. Việc sử dụng nhiệt độ nước để pha trà cũng nên căn cứ vào độ tuổi của lá trà để quyết định, thông thường sử dụng nước khoảng 90 0 C để pha trà, đối với mầm trà mùa xuân có thể dùng nước có nhiệt độ khoảng 85 0 C là tốt nhất. Trong đó trước khi pha trà chính thức nên sử dụng một ít nước sôi để thực hiện việc rửa trà, như vậy có thể khiến cho lá trà càng được sạch sẽ. Khi chính thức pha trà, thông thường lấy màu sắc của nước, hương vị lần thứ hai là tốt nhất. V. Những mùa khác nhau thì uống trà cũng có sự khác biệt Theo cách nói y học truyền thống, do lá trà có rất nhiều loại khác nhau, cơ sở sản xuất khác nhau nên tính vị của trà ngọt đắng nóng lạnh cũng có sự khác nhau, đồng thời tác dụng của nó đối với mỗi người cũng có sự khác biệt. Để có thể có được hiệu quả bảo vệ sức khoẻ tốt nhất, vào những mùa khác nhau trong năm xuân hạ thu đông cũng cần phải căn cứ vào công hiệu, tính năng của lá trà, căn cứ vào sự thay đổi thời tiết mà lựa chọn những loại trà khác nhau sau cho thích hợp . 1. Mùa xuân uống trà ướp hoa Vào mùa xuân trời đất vào xuân, vạn vật đâm chồi nảy lộc, con người và tự nhiên cũng vậy, ở vào thời khắc dễ chịu nhất, lúc này nên uống các loại trà ướp hoa như hoa nhài, ngọc lan, hoa quế v.v bởi vì hương thơm của những loại trà này rất mạnh, thơm mà không phải là phù du, sảng khoái mà không trầm lắng, có thể giúp con người làm tiêu tan đi những cái lạnh của mùa đông còn tích tụ trong cơ thể. Đồng thời, những loại trà có hương thơm đậm đặc có thể sản sinh dương khí khi đi vào trong cơ thể, làm tinh thần con người thêm phấn chấn, từ đó có hiệu quả trong việc tiêu trừ những mệt mỏi, nâng cao hiệu quả cơ năng của con người. 2. Mùa hạ uống trà xanh Vào mùa hạ ánh nắng mặt trời nóng như thiêu như đốt, thời tiết nóng nực, con người ra nhiều mồ hôi, năng lượng tiêu hao lớn, lúc này nên uống các loại trà xanh như trà Long Tỉnh, trà Mao Dịch, trà Bích La Xuân v.v Bởi vì những loại trà xanh này có màu sắc tươi sáng vị ngọt, đồng thời có thêm một chút vị đắng hàn, có công hiệu trong việc giải nhiệt, tiêu trừ nóng bức, giải độc, trừ hoả, hạ táo, giải khát, sinh tân, nâng cao tinh thần, giúp tim khoẻ mạnh. Những thành phần dinh dưỡng có trong trà như vitamin, axit amin và các khoáng chất vừa có vai trò trong việc tiêu thực giải nhiệt mà lại có thể bổ sung thành phần dinh dưỡng cho cơ thể. 3. Mùa thu uống thanh trà Mùa thu khí hậu khô hanh khiến chúng ta luôn có cảm giác miệng lưỡi khô, lúc này nên uống các loại thanh trà như trà Ô Long, trà Thiết Quan Âm, trà Thiết La Hán, trà Đại Hồng Bao v.v Nước của thanh trà có màu vàng kim, vị của nó hợp khẩu vị, khi uống vào có vị ngọt. Tính vị của thanh trà là trung tính, nó là sự pha lẫn giữa hồng trà và trà xanh, không nóng cũng không lạnh, thích hợp với khí hậu của mùa thu, thường xuyên uống thanh trà sẽ khiến da được mịn màng, ích phổi, sinh tân, tốt cho họng, có hiệu quả trong việc tiêu trừ những cái nóng nực trogn cơ thể, phục hồi tân dịhc, là một thức uống bảo vệ sức khoẻ rất tốt cho mùa thu. 4. Mùa đông uống hồng trà Mùa đông khí hậu giá lạnh khiến con người khó chịu, chức năng sinh lý của con người giảm, dương khí yếu, vì thế yêu cầu của cơ thể đối với năng lượng và dinh dưỡng tương đối cao, chính vì vậy cần phải làm sao để có thể làm tiêu tan đi cái giá lạnh, giữ ấm và nâng cao sức đề kháng cho cơ thể. Lúc này nên uống các loại hồng trà như chè đỏ Kì Môn (đặc sản của tỉnh An Huy – Trung Quốc), Điền Hồng, Mân Hồng, Xuyên Hồng và các loại trà đen như trà Phổ Nhĩ, trà Lục Bảo. Tính vị của hồng trà là ngọt ấm, có protein rất phong phú, rất bổ ích cho cơ thể, giúp cơ thể sản sinh dương khí, sinh nhiệt, giữ ấm cho cơ thể, từ đó mà tăng cường khả năng thích ứng với khí hậu giá lạnh của mùa đông. Protein phong phú có trong hồng trà có thể tăng cường sức khoẻ cho cơ thể, tăng cường khả năng chống rét của con người. Ngoài ra, vào mùa đông việc ăn uống của con người tăng, việc hấp thu những thức ăn có nhiều dầu mỡ cũng tăng lên, uống hồng trà còn có thể giúp cơ thể tiêu trừ cảm giác ngấy mỡ, khai vị, trợ dưỡng sinh, khiến cơ thể con người thích nghi với sự thay đổi của môi trường một cách thuận lợi và tốt hơn. Trà đen cũng có công hiệu tương tự như hồng trà. VI. Những người nên uống ít trà hoặc không nên uống trà Việc uống trà có rất nhiều lợi ích đối với sức khoẻ con người. Nhưng uống ít hay nhiều cũng nên tuỳ vào mỗi người mà quyết định, nếu không thì việc uống trà sẽ phản tác dụng, gây tổn hại tới sức khoẻ của bản thân. Những người rơi vào trường hợp dưới đây nên ít uống trà hoặc thậm chí không nên uống trà: (1). Những người bị mắc bệnh viêm loét dạ dày: Trong lá trà có những chất giúp tiêu hoá, giải trừ ưu phiền và tiêu trừ chất béo mà cơ thể con người hấp thu. Nhưng đối với những người mắc bệnh viêm loét dạ dày, viêm loét 12 trực tràng hoặc có hàm lượng axit dạ dày quá nhiều mà nói, uống trà sẽ có hại nhiều hơn là có lợi. Bởi vì trong trường hợp thông thường trong dạ dày có một loại vật chất gọi là axit phốtpho có thể khống chế sự phân tiết axit dạ dày của thành ruột, mà chất kiềm có trong lá trà lại khống chế hoạt động của axit photpho này. Sự hoạt động của axit photpho sau khi bị khống chế tế bào thành dạ dày sẽ phân tiết ra một lượng lớn axit dạ dày, khi lượng axit dạ dày tăng lên thì sẽ ảnh hưởng tới sự phục hồi lành lại của những chỗ bị viêm loét trong dạ dày, khiến cho bệnh tình càng thêm nặng, đồng thời khiến sản sinh ra triệu chứng đau. Vì vậy, nhữg người bị viêm loét dạ dày nên hạn chế uống trà, ít nhất thì cũng không nên uống trà đặc, hoặc trong trà có cho thêm một ít sữa và đường, bởi như vậy có thể làm giảm vai trò thúc đẩy sự phân tiết axit dạ dày của trà. (2). Những người bị mắc bệnh xơ cứng động mạch, cao huyết áp: Đối với những người này khi uống trà cần hết sức thận trọng, ít nhất thì tình trạng bệnh không ổn định không nên uống trà đặc. Đó là bởi vì trong trà có chứa những vật chất hoạt tính như phenol trà, cafein, kiềm v.v. Những chất này có tác dụng làm hưng phấn trung khu thần kinh rõ rệt, khiến cho tầng vỏ não của con người hưng phấn cao độ, các mạch máu thu nhỏ lại, điều này sẽ nguy hại rất lớn cho những người bị mắc chứng xơ vữa động mạch não, nó cũng là một trong những nguyên nhân hình thành nên chứng tắc nghẽn mạch máu não. (3). Những người bị mất ngủ: Nguyên nhân mất ngủ thì có rất nhiều, nhưng bất luận là nguyên nhân nào dẫn tới mất ngủ đều không nên uống trà trước khi đi ngủ. Đó là do cafein và chất thơm có trong lá trà đều là những chất gây hưng phấn. Theo tính toán, một cốc trà đặc có chứa khoảng 100 mg cafein, mà trong việc trị liệu, lượng điều trị cafein cũng không thể vượt quá 100~300 mg. Từ đó có thể nhận thấy tác dụng của một cốc trà đặc, nó khiến cho hệ thống trung khu thần kinh và đại não hưng phấn, nhịp tim đập nhanh, máu lưu thông nhanh, vì thế con người rất lâu sau đó mới có thể đi vào giấc ngủ. (4). Những người bị phát nhiệt: Phát nhiệt là do virus, vi khuẩn truyền nhiễm gây ra hoặc do các loại bệnh khác dẫn tới triệu chứng này. Huyết quản của những người bị bệnh thường xuyên dãn nở, ra nhiều mồ hôi, các chất điện giải, thành phần nước và các chất dinh dưỡng có trong cơ thể bị tiêu hao mất dẫn tới miệng khô khát, nhu cầu uống nước tăng lên. Trong cuộc sống, có một số người có thói quen cho những người bị phát nhiệt uống trà nóng hoặc trà đặc, cho rằng trà đặc có công hiệu giải khát hiệu quả, kỳ thực không phải như vậy. Gần đây các nhà vật lý, hoá học và các y bác sĩ của Anh đã chứng minh, những người bị phát nhiệt không nên uống trà đặc, bởi vì chất kiềm có trong lá trà có thể kích thích trung khu nhiệt độ cơ thể của con người làm cho sự phát nhiệt càng trở nên trầm trọng hơn. HẾT Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google :
File đính kèm:
- y_khoa_chuong_vi_mot_so_benh_phu_nam_khoa.pdf