Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu
Với chặng đường gần một thế kỷ kể từ khi ra đời đến nay, nền âm nhạc mới Việt Nam trải qua nhiều
giai đoạn phát triển khác nhau với nhiều thành tích đáng tự hào mà một trong những đỉnh cao là thể loại
Giao hưởng. Trong khi những thành tựu của âm nhạc giao hưởng tại miền Bắc (giai đoạn trước năm
1975) được ghi nhận, tập hợp, thống kê và phổ biến khá rộng rãi thì những thành tựu của âm nhạc giao
hưởng miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng lại sớm rơi vào quên lãng do biến động của thời cuộc.
Tuy nhiên, nghệ thuật đích thực luôn xuất phát từ trái tim và những giá trị âm nhạc của quá khứ cần
được nhìn nhận lại một cách khách quan và trân trọng.
Bạn đang xem tài liệu "Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 103 Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu Symphony music in Saigon – Some notes from historical materials ThS. Nguyễn Thị Ngọc Dung, Nhạc viện TP.HCM Nguyen Thi Ngoc Dung, M.A., Ho Chi Minh City Conservatoire Tóm tắt Với chặng đường gần một thế kỷ kể từ khi ra đời đến nay, nền âm nhạc mới Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau với nhiều thành tích đáng tự hào mà một trong những đỉnh cao là thể loại Giao hưởng. Trong khi những thành tựu của âm nhạc giao hưởng tại miền Bắc (giai đoạn trước năm 1975) được ghi nhận, tập hợp, thống kê và phổ biến khá rộng rãi thì những thành tựu của âm nhạc giao hưởng miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng lại sớm rơi vào quên lãng do biến động của thời cuộc. Tuy nhiên, nghệ thuật đích thực luôn xuất phát từ trái tim và những giá trị âm nhạc của quá khứ cần được nhìn nhận lại một cách khách quan và trân trọng. Từ khóa: âm nhạc, giao hưởng, Việt Nam, Sài Gòn, trước 1975. Abstract In nearly a century since its inception, Vietnam's New Music has gone through stages of development with outstanding achievements, in which one of the peaks is Symphony style. While the symphonic achievements in the North (pre-1975 period) are well documented, collected, estimated and widely published, the accomplishments in the South in general and Sai Gon in particular fade into oblivion due to political changes. However, real art always emerges from true human feelings, on balance, the musical values of the past need to be reconsidered objectively and respectfully. Keywords: music, symphony, Vietnam, Saigon, before 1975. 1. Mở đầu Nhà soạn nhạc Áo Gustav Mahler (1860-1911) đã từng nhận định về giao hưởng: “Một tác phẩm giao hưởng phải giống như thế giới, nó phải chứa đựng tất cả” (1). Khi có ý so sánh một tác phẩm âm nhạc không lời với “cả thế giới”, nhà soạn nhạc không chỉ khẳng định vai trò “đỉnh cao” về học thuật mà còn đề cao nội dung tư tưởng cũng như phạm vi thể hiện của giao hưởng so với các loại hình âm nhạc khác. Âm nhạc giao hưởng là một trong những biểu hiện rực rỡ nhất của sự trưởng thành về trí tuệ và tư duy âm nhạc của con người, nó cho phép thể hiện những nội dung tư tưởng súc tích, phong phú và đa dạng nhất của con người, những suy tư triết lý, những ước mơ về tương lai, những cảm xúc sâu sắc và tinh tế: từ chất trữ tình đến chất anh hùng ca, từ sự lạc quan yêu đời đến nét bi thương kịch tính Tất cả đều được diễn đạt bằng âm thanh với bố cục chặt chẽ, logic và hoàn chỉnh. Tại Việt Nam hiện nay, kinh tế và dân trí cùng phát triển, âm nhạc giao hưởng bắt đầu nhận được sự quan tâm của xã hội. Âm ÂM NHẠC GIAO HƯỞNG TẠI SÀI GÒN - VÀI GÓP NHẶT TỪ TƯ LI U 104 nhạc kinh viện nói chung và các tác phẩm giao hưởng nói riêng đã trở thành đối tượng nghiên cứu xuất hiện trong nhiều công trình khoa học, sách tư liệu, tham luận hội thảo, bài báo, luận án, luận văn, phim tài liệu, phóng sự, phỏng vấn trên các tạp chí truyền thanh và truyền hình. Các thành tựu của âm nhạc giao hưởng miền Bắc (trước 1975) và âm nhạc kinh viện Việt Nam giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay được giới học giả quan tâm, ghi nhận khá đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên giai đoạn trước năm 1975, do ảnh hưởng của thời cuộc và sự chia cắt 2 miền đất nước khiến cho những thành tựu của giao hưởng miền Nam, cụ thể hơn, của Sài Gòn, trong thời kỳ này sớm rơi vào quên lãng. 2. Những tiền đề và những sinh hoạt khí nhạc đầu tiên ở Sài Gòn Những năm cuối thế kỷ XIX, một số trường dòng được mở ra ở Sài Gòn, vừa truyền đạo, vừa truyền bá âm nhạc tôn giáo phương Tây và truyền dạy kiến thức âm nhạc lẫn cách chơi nhạc cụ phương Tây cho người Việt Nam. Theo nhận định của giáo sư Tô Vũ, “tân nhạc viết solfège đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn do một tu sĩ Công giáo người Việt Nam viết những bài hát ca ngợi Đức Mẹ từ năm 1911” (2). Từ mục đích phục vụ tôn giáo lúc ban đầu, âm nhạc phương Tây dần phát huy ảnh hưởng đến đời sống người dân trong một phạm vi sâu rộng hơn. Nhiều bài hát Pháp vui tươi, dí dỏm xuất hiện trong các buổi sinh hoạt của thanh niên, học sinh sinh viên như Frère Jacques, Au clair de la lune, Vive le chameau... Sau này (thập niên 1930), một số bài hát của phong trào hướng đạo sinh cũng được phỏng dịch hoặc đặt lời mới cho phù hợp với điều kiện thực tế và dễ phổ biến. Từ những năm 20, các loại máy hát, đĩa hát (nhãn hiệu Victor, Odéon, Pathé, Béka) đã tràn vào Việt Nam. Để đáp ứng sở thích nghe nhạc đa dạng của công chúng, ông chủ của các hãng đĩa trên đã kết hợp những sản phẩm văn hoá tinh thần của người Việt và cả sản phẩm văn hoá của người phương Tây bằng cách phát hành đĩa Tuồng, Chèo, Cải lương song song với các đĩa nhạc nhẹ, nhạc cổ điển của châu Âu. Thực chất, các loại đĩa nhạc của châu Âu đã phần nào đánh đúng tâm lý “thích cái mới” của nhiều người dân Việt Nam. Ở các phòng trà, tiệm nhảy đã phổ biến các vũ điệu phương Tây như tango, valse, fox- trot..., các tiểu phẩm khí nhạc để hòa tấu... Ngoài ra, những năm đầu thế kỷ XX còn có một số đoàn ca nhạc kịch từ Pháp sang biểu diễn ở Sài Gòn. Âm nhạc phương Tây ngấm dần, và trở nên “thân quen” với tai nghe nhạc của người miền Nam. Năm 1930, đội kèn của lính viễn chinh Pháp đã biểu diễn ở Sài Gòn nhân khánh thành đường sắt, tác động không nhỏ đến công chúng miền Nam từ cách nghe nhạc đến việc sử dụng các loại nhạc khí phương Tây. Một số người miền Nam ở vào thời điểm đó cũng đã biết sử dụng các loại kèn Tây, biết xướng âm và làm quen dần với ngôn ngữ âm nhạc mới. Nghệ thuật sân khấu và điện ảnh cũng ảnh hưởng lớn đến cách nhận thức của dân chúng về âm nhạc phương Tây. Rạp xi nê xuất hiện ngày một nhiều ở các trung tâm đô thị. Khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, khi phim có âm thanh, lời thoại, được du nhập vào nước ta thì những bài hát trong phim cũng trở nên thịnh hành sau đó, lôi cuốn người xem, đặc biệt là lớp thanh niên, tầng lớp trí thức tiểu tư sản thành thị. Qua những bài hát trong phim, người xem có thể hình dung khá đầy đủ diện mạo hoàn chỉnh của một ca khúc phương Tây từ phối khí, nhạc đệm cho đến cách hát. Các gánh NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG 105 hát cũng mời nghệ sĩ tân nhạc về cộng tác để thêm phần hấp dẫn cho quần chúng với các hoạt động trình diễn đa dạng như chơi nhạc sống trong các vở diễn hay hát nhạc mới trước khi mở màn chính thức. Nghệ thuật sân khấu chính là cái nôi êm ái để các nghệ sĩ tân nhạc nương náu và trình diễn các ca khúc do mình sáng tác hay của những tác giả khác khi nền tân nhạc Việt Nam đang trong thời kỳ phôi thai . Tất cả các hoạt động âm nhạc đa dạng thời gian này đã tác động tích cực đến tư duy của những người Việt Nam làm nghệ thuật ở thành thị. Nhìn chung, âm nhạc phương Tây (mà chủ yếu là âm nhạc Pháp) du nhập vào Việt Nam và phổ biến bằng nhiều cách: qua con đường truyền đạo; qua con đường quân sự (đội kèn nhà binh); qua con đường giáo dục (trường học và phong trào hướng đạo); qua con đường phương tiện thông tin, kỹ thuật truyền thanh (đĩa hát); qua con đường giao lưu và biểu diễn nghệ thuật. Sự “đổ bộ” về văn hoá Pháp ở miền Nam diễn ra khá nhanh (theo phương châm “Khai hóa văn minh”). Quá trình này đã khiến cho nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng đổi mới nhanh chóng và ngày càng mang màu sắc thị dân rõ rệt. Năm 1928, “Ủy ban nghệ thuật Sài Gòn - Comité artistique de Saigon” ra đời do ông Charles Martin (Pháp) làm tổng thư ký, chuyên tổ chức các buổi hòa nhạc thính phòng với các nghệ sĩ mời từ Pháp sang như: acque Thibaud, S igeti (Violon), rmande Caron (Piano), tam tấu Schneider... Chương trình biểu diễn của họ chủ yếu là những tác phẩm thính phòng cổ điển. Đi xa hơn, vào năm 1933, Comité artistique de Saigon do Charle Martin lập ra Conservatoire de Musique, có dạy piano ( rmande Caron tham gia giảng dạy). Một số nhạc sĩ Việt Nam đã được học âm nhạc Tây phương từ môi trường này hoặc tự học qua sách vở (lý thuyết âm nhạc, hòa âm, lịch sử âm nhạc, sách dạy các loại nhạc cụ...) để sáng tác âm nhạc theo kiểu “mới”. Bên cạnh đó còn xuất hiện một số lớp nhạc dạy đàn và truyền bá Tân nhạc của các nhạc sĩ Nguyễn Thông, Lê Ngát, D oãn Ân Đây là tiền đề cho sự hình thành nền âm nhạc chuyên nghiệp phương Tây ở miền Nam sau này. Năm 1934, tuyển tập 30 tiểu phẩm viết cho piano độc tấu của nghệ sĩ Thái Thị Lang (dưới bút danh Louis Nguyễn Văn Tỵ) được xuất bản tại Paris. Bà Thái Thị Lang - là người đã học Sáng tác và Piano tại nhạc viện Paris, với quan điểm coi “nguồn dân ca vô tận là một kho báu đối với người sáng tác” và đã cho ra đời nhiều tiểu phẩm piano như Lý ngựa Ô, Bình Bán Bà cũng chính là người đích thân biểu diễn những tiểu phẩm piano của mình tại Hội Nam kỳ Trí đức Thể dục năm 1942. Những tiểu phẩm piano của bà được xem như những tác phẩm đầu tiên của âm nhạc không lời Việt Nam. Năm 1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên là người Việt Nam duy nhất tham gia hội Hiếu nhạc (Philharmonique). Năm 1941, một buổi diễn thuyết được hội tổ chức tại nhà hội Bắc Kỳ ái hữu tại Sài Gòn với đề tài “Câu chuyện âm nhạc mới” có sự góp mặt của ban nhạc Phi Luật Tân của ulio và sự trình diễn Hạ Uy Cầm của hai nhạc sỹ Scawell và Nguyễn Thông. Cũng trong thời gian này còn có các nhạc sĩ khác tham gia hoạt động âm nhạc khá sôi nổi như: nhạc sĩ Võ Đức Thu (thường xuyên biểu diễn và trình bày sáng tác của mình viết cho đàn dương cầm: bản “Việt Nam tân âm điệu”), Nguyễn Khắc Cung, Phạm Đăng Hinh, Đỗ Thế Phiệt với những bản hòa tấu soạn cho Vĩ cầm và Đại vĩ cầm; Họ là những người ÂM NHẠC GIAO HƯỞNG TẠI SÀI GÒN - VÀI GÓP NHẶT TỪ TƯ LI U 106 làm âm nhạc chuyên nghiệp phương Tây (khí nhạc) đầu tiên ở Sài Gòn. Khí nhạc Sài Gòn trong giai đoạn này chỉ manh nha tượng hình, chủ yếu là các hoạt động biểu diễn định kỳ của các đội kèn nhà binh, những tác phẩm viết cho nhạc cụ độc tấu, một số tiểu phẩm nhạc thính phòng có qui mô nhỏ và chưa có những tác phẩm thực thụ cho dàn nhạc. 3. Âm nhạc Giao hưởng Sài Gòn 1945-1975 Để có thể đưa ra một nhận định cụ thể về nền âm nhạc giao hưởng trong một khoảng thời gian nhất định đòi hỏi người nghiên cứu phải có một cái nhìn tổng quát trên cả 3 phương diện sau: (1) Sáng tác, (2) Biểu diễn, (3) Đào tạo và Nghiên cứu khoa học. Đây chính là thế “chân vạc” giúp cho âm nhạc hàn lâm luôn giữ được nền tảng vững chắc để tiến lên phía trước theo đúng qui luật “kế thừa và phát triển” trong nghệ thuật. a. Đào tạo và Nghiên cứu khoa học Trường Quốc gia Âm nhạc ra đời năm 1956 (đến năm 1960 đổi tên thành Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ, là tiền thân của Nhạc Viện TP.HCM ngày nay) đã mời nhiều nhạc sư tên tuổi vào Ban giảng huấn của trường gồm 2 ngành là: Nhạc Tây Phương và Quốc Nhạc. Lúc mới thành lập, ngành Nhạc Tây phương chỉ dạy: Dương cầm, Vĩ cầm, Nhạc pháp, Nhạc sử, Hòa âm. Sau này trường giảng dạy thêm rất nhiều nhạc cụ khác như: Trung Vĩ cầm, Hạ Vĩ cầm, Đại Vĩ cầm, Sáo Tây, Clarinette, Trompette, Tây Ban cầm, Măng cầm và Hợp ca. Các nhạc sư của ngành Nhạc Tây phương đa phần đều tốt nghiệp Quốc Gia Nhạc Viện Paris - Conservatoire National de Paris hoặc Quốc Tế Nhạc Viện Paris - Conservatoire International de Paris như: Đỗ Thế Phiệt, Nguyễn Khắc Cung - violin; Nghiêm Phú Phi, bà Nguyễn Thị Ngọc Thuyền, bà Tạ Toàn - Piano, linh mục nton Nguyễn Tiến Dũng - tốt nghiệp Tiến sĩ khoa Sáng tác tại Nhạc viện Santa Cecilia năm 1962 (hay còn có tên là Học viện âm nhạc Giáo hoàng Roma)... Có thể nói rằng Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ là cái nôi đào tạo ra nhiều nhạc sĩ, giọng ca, tay đàn nổi tiếng của miền Nam, góp mặt trong nhiều chương trình giao lưu biểu diễn quốc tế cũng như phát hành đĩa hát ăn khách trong thời kỳ này. Bên cạnh những nhạc sư tên tuổi trực tiếp đứng lớp, thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo của âm nhạc Sài Gòn chính là phát hiện kịp thời những tài năng âm nhạc xuất sắc và gửi ra nước ngoài học như: nhạc sĩ Nguyễn Văn Tường (học nhạc tại Pháp từ năm 1951, nhạc sĩ nhạc điện thanh đầu tiên của Việt Nam); nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo (sang Pháp năm 1953, nổi tiếng với những tác phẩm khí nhạc theo "chủ nghĩa Tiền Phong", đạt nhiều giải thưởng quốc tế, đã được ghi danh trong hai từ điển âm nhạc “Le Petit Larousse, 1982”, “Le Petit Robert, 1995” vì những đóng góp trong việc giao hòa âm nhạc Đông - Tây); Nhà soạn nhạc đương đại - nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Tôn Thất Tiết (sang Pháp năm 1958, đạt nhiều giải thưởng quốc tế danh giá); Những thành tích quốc tế của các nhạc sĩ nói trên vừa góp phần giới thiệu nhạc giao hưởng Việt Nam với bạn bè thế giới, vừa đem lại niềm tự hào cho âm nhạc Việt Nam, đồng thời gợi lên những vấn đề mới về chuyên môn đối với các nhạc sĩ trong nước và có tác dụng khích lệ rất lớn cho những ai đam mê dòng nhạc giao hưởng. Trong giai đoạn này, bên cạnh Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ còn có Trường Quân nhạc Sài Gòn (thành lập năm 1966, với chương trình giảng dạy chuyên NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG 107 ngành Sĩ quan nhạc trưởng gồm các môn: Chỉ huy, Hòa âm, Phối khí - Cải soạn - Nhạc khí học, Sáng tác, Lễ nghi quân cách, Nhạc nhẹ, Nhạc sử, Nhạc lý - Chính tả và Hành chánh - Quản trị nhân viên); Viện đại học Minh Đức (Khoa Nhân văn - Nghệ thuật) - trình độ Cử nhân Sư phạm Âm nhạc với chương trình đào tạo được chia thành 21 tín chỉ như: Triết học Đông - Tây nhập môn; Sư phạm Âm nhạc, Nhạc lý, Hòa âm, Đối âm, Tẩu pháp (Fuga), Phương pháp Điều khiển (Chỉ huy), Nhạc khí học và trình độ Cao đẳng bao gồm 6 chuyên ngành: Ca sĩ, Ca nhạc trưởng, Quốc nhạc, Dương cầm, Thánh nhạc và Đại quản cầm. Công tác nghiên cứu khoa học ở miền Nam thời kỳ này phát triển khá toàn diện: về mảng âm nhạc phương Tây có rất nhiều sách phổ biến kiến thức âm nhạc như sách Hòa âm, Hòa âm tân thời, Hòa âm thực tập dẫn giải, Đối âm, Tẩu pháp (Fuga), Nhạc lý, Sáng tác Thánh nhạc Thánh ca, Tôi viết ca khúc tiếng Việt, Những điều cần biết khi dạy và học Piano, Hướng dẫn học Tây Ban Cầm, Sáo... do các nhạc sư đang giảng dạy chấp bút. Về mảng âm nhạc Việt Nam: nhiều nghiên cứu, sưu tầm âm nhạc dân gian có giá trị được thực hiện và công bố như “Dân ca Việt Nam” (1961) Nguyễn Hữu Ba; “Hò miền Nam” (1962) Nguyễn Văn Hầu; “Điệu thức trong dân ca Nam Bộ” (1965) Ngô Đông Hải; “Đặc khảo dân nhạc ở Việt Nam” (1972) Phạm Duy; “Dân ca Nam Bộ, một kho tàng âm điệu dân gian phong phú” (1977) Ngô Huỳnh. Nếu đặt yếu tố chính trị ra ngoài, các tổ chức đào tạo âm nhạc tại Sài Gòn đã góp phần tích cực trong việc tạo ra nguồn nhân lực âm nhạc cho xã hội, nâng cao trình độ cảm thụ âm nhạc và phổ biến những giá trị văn hóa âm nhạc vào xã hội. Tương ứng với giai đoạn lịch sử này, tại miền Bắc, vấn đề phát triển âm nhạc đã được Đảng và Nhà nước quan tâm cụ thể, thể hiện qua sự thành lập Ban Nghiên cứu Âm nhạc - Vụ Nghệ thuật năm 1955 (từ năm 1968 đổi tên là Viện Nghiên cứu âm nhạc), sự ra đời của Trường Nghệ thuật Quân đội năm 1955 và Trường Âm nhạc Việt Nam năm 1956 (tiền thân của Học viện Quốc gia Âm nhạc Việt Nam). Trước đây đa số các nhạc sĩ miền Bắc bước vào nghề bằng cách tự học và trưởng thành trong quá trình tham gia kháng chiến chống Pháp thì ở giai đoạn này đã có thêm lớp nhạc sĩ, diễn viên, nhạc công được đào tạo bài bản tại Trường Âm nhạc Việt Nam, nhạc sĩ xuất thân từ các lớp tập huấn của chuyên gia nước ngoài tại miền Bắc Việt Nam, nhạc sĩ được Nhà Nước gửi đi học tại Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu... đồng thời sử dụng giáo trình của các nước khối Xã Hội Chủ Nghĩa trong giảng dạy- nghiên cứu âm nhạc và đánh giá kết quả học tập trong các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp miền Bắc. Sáng tác Dưới tác động của nhiều yếu tố văn hóa - chính trị - xã hội, ca khúc vẫn là thể loại chiếm vị trí chủ đạo trong âm nhạc miền Nam giai đoạn 1945-1975. Tuy nhiên, những nhạc sĩ được đào tạo bài bản và đam mê khí nhạc vẫn duy trì con đường học thuật riêng của mình và đạt được một số thành tựu đáng kể. Một trong những nhạc sĩ tiêu biểu đó chính là Nghiêm Phú Phi. Ông tốt nghiệp Ưu hạng tại viện Quốc Gia Âm Nhạc Paris (Pháp) về Piano và Hòa Âm. Tác phẩm “Divertimento I” (1960) và “Divertimento II” (1965) của ông viết theo thang âm ngũ cung, phối hợp các nhạc khí dân tộc cổ truyền với dàn nhạc giao hưởng Tây phương, được trình ÂM NHẠC GIAO HƯỞNG TẠI SÀI GÒN - VÀI GÓP NHẶT TỪ TƯ LI U 108 diễn nhiều lần trước khán giả Việt Nam và quốc tế và được đánh giá cao bởi các nhà báo viết âm nhạc nước ngoài. Đặc biệt, trong tác phẩm “ pollo 14” (1971) do ông sáng tác và thu âm trực tiếp còn đưa những âm thanh thường được nghe trong các phim khoa học giả tưởng vào tác phẩm giao hưởng (là điều chưa có ai thực hiện trước đó). Tứ tấu dây “Fantasia I” (1974) được ông hoàn tất với nhiều thử nghiệm mới lạ trong cách diễn tấu. Ngoài ra các tác phẩm giao hưởng của nhạc sĩ - nhà chỉ huy dàn nhạc Nghiêm Phú Phi, còn có giao hưởng của nhạc sĩ Lê Văn Khoa (“Symphony Viet Nam 1975” - được sáng tác trong 20 năm và trình diễn lần đầu ở c năm 1995), một số tác phẩm khác viết ở hình thức lớn như: hợp xướng “Cửu Long Giang” (5 chương, Phan Miêng, 1972), trường ca, vũ kịch: “Kim Trọng Thúy Kiều” (1962 - 1966, Phạm Thế Mỹ); ca kịch nhỏ: “Hoa bướm và thiếu nữ” (1960, Phạm Thế Mỹ), “Nước mắt người yêu” (1961, Phạm Thế Mỹ); nhạc kịch: “Sắc lụa trữ la” (1958-1960, Phạm Thế Mỹ); các tác phẩm phối khí kết hợp giữa nhạc cụ dân tộc (chuông chùa, mõ, sáo Việt, trống chầu...) với dàn nhạc giao hưởng và nhiều hợp xướng tôn giáo viết ở hình thức lớn của linh mục nton Nguyễn Tiến Dũng... Trong lĩnh vực sáng tác âm nhạc chuyên nghiệp cùng khoảng thời gian này tại miền Bắc, đáng lưu ý có: phong trào sáng tác hợp xướng và sự ra đời của những tác phẩm thể nghiệm khai sinh cho các thể loại nhạc đàn và tổng hợp thanh - khí nhạc như: thể loại giao hưởng một chương, tổ khúc giao hưởng và thanh nhạc, thơ giao hưởng Một trong những biểu hiện của tính chuyên nghiệp trong âm nhạc miền Bắc thời kỳ này chính là mối quan tâm đến các thể loại âm nhạc ở hình thức lớn như: giao hưởng nhiều chương, nhiều phần, hợp xướng kết hợp với dàn nhạc giao hưởng, kịch múa và quy mô nhất là thể loại nhạc kịch (opéra). Ngay từ đầu thập niên sáu mươi, các nhạc sĩ miền Bắc đã tự đặt ra cho mình cái đích cuối cùng phải tiến tới là nhạc kịch Việt Nam. Biểu diễn Giai đoạn từ 1945- 1975, các hoạt động biểu diễn văn hóa văn nghệ ở Sài Gòn diễn ra khá mạnh mẽ. Với sự góp mặt từ rất sớm của các phòng trà, tiệm nhảy, cao lâu... nền nhạc mới phía Nam có nhiều điều kiện tiếp xúc và giao lưu với âm nhạc phương Tây, đặc biệt trong lĩnh vực ca khúc. Các hãng đĩa lớn đều được thành lập tại Sài Gòn như: Việt Nam, sia, Sóng Nhạc, Sơn Ca, Continental, Thiên Thai, Vô Tuyến cũng hoạt động thu âm và phát hành băng đĩa khá tích cực. Mỗi đài phát thanh lớn đều có ban nhạc cổ điển Tây phương được dàn dựng và chỉ huy bởi những nhạc sĩ tên tuổi đương thời như: đài phát thanh Pháp Á - nhạc sĩ Trần Cang, đài phát thanh Quân Đội - nhạc sĩ Văn Phụng, Dương Thiệu Tước (chương trình “Cổ kim hòa điệu”), đài phát thanh Sài Gòn - nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Vũ Văn Tuynh... Hơn nữa, với việc thành lập Trường Quốc gia Âm nhạc, hoạt động biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp được chú trọng và trau dồi, đội ngũ những người biểu diễn âm nhạc phía Nam đã được bổ sung một cách đầy đủ và bài bản. Một số nhạc sư đang giảng dạy tại trường cũng là nghệ sĩ biểu diễn chuyên nghiệp đoạt giải thưởng quốc tế như: Đỗ Thế Phiệt (violin, giải Grand Prix du Violon 1954 và giải Danh dự về nhạc Thính Phòng 1957)... Bên cạnh các hoạt động chuyên môn diễn ra khá sôi nổi trong nước, âm nhạc NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG 109 miền Nam còn đẩy mạnh hoạt động giao lưu quốc tế như: Đoàn Văn nghệ Việt Nam tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại Osaka, Nhật Bản năm 1970 (gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ cổ truyền). Trong lĩnh vực biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp tại miền Bắc, có 1 một số sự kiện đáng chú ý xảy ra trong khoảng thời gian này như: Ngày 2 9 1945 ban nhạc Giải phóng quân đã chơi bài Tiến uân ca (hòa tấu kèn, dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên) trong buổi lễ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bản hòa tấu “Vũ khúc tưng bừng” (chịu ảnh hưởng của thể loại valse thành Vienne) do nhạc sĩ Lương Ngọc Trác sáng tác cho dàn nhạc đã được trình diễn trong đêm Tuyên ngôn Độc lập. Sau đó là sự ra đời hàng loạt các đơn vị hoạt động biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp ở miền Bắc như: Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam được hình thành với 114 nhạc công (1959), Dàn Hợp xướng (1961), 2 năm sau hai đoàn này sát nhập, cộng thêm bộ phận múa để hình thành Nhà hát Giao hưởng - Hợp xướng - Vũ kịch Việt Nam (1963, tại Hà Nội) là tiền thân của Nhà hát Giao hưởng - Hợp xướng - Nhạc vũ kịch Việt Nam ngày nay; thành lập các đoàn ca múa nhạc chuyên nghiệp như: Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam (1960), Đoàn ca múa Hà Nội (1960), Đoàn Ca múa Trung ương và Đoàn ca nhạc dân tộc Trung ương (1962)... 4. Thay lời kết Cho đến năm 1975, tại Việt Nam đã tồn tại 2 trung tâm hoạt động âm nhạc kinh viện khá hiệu quả là Hà Nội và Sài Gòn. Tuy quan điểm chính trị và phương hướng hoạt động khác nhau nhưng mỗi nơi đều có thế mạnh riêng, thành tựu riêng đáng được trân trọng và ghi nhận. Đối với Sài Gòn, đã hình thành một nền âm nhạc giao hưởng hoàn chỉnh với những nhạc sĩ có tên tuổi, được đào tạo bài bản trong nước và nước ngoài, có nhiều tác phẩm được quốc tế công nhận. Một trong những thành tựu đáng tự hào của âm nhạc giao hưởng Sài Gòn trong giai đoạn này chính là tính “thời sự” thể hiện trong tác phẩm, từ nội dung đến hình thức và cả những kỹ thuật sáng tác, thể hiện sự cập nhật của người nhạc sĩ đối với những bước tiến mới trong âm nhạc thế giới. Tuy nhiên, điều đáng buồn là hiện nay, các tư liệu âm thanh cũng như văn bản âm nhạc của thời kỳ này gần như đã thất lạc hết (do sự thay đổi về thời cuộc cũng như sự hạn chế trong quá trình lưu trữ), những ghi chép về tác giả-tác phẩm của giai đoạn này chỉ mang tính tản mạn, thể hiện hồi ức cá nhân của người trong cuộc, thiếu hẳn sự thẩm định và phân loại một cách hệ thống và khoa học. Chính vì vậy, mong sao các cơ quan chức năng, các đơn vị trong ngành và các cá nhân có tâm huyết với nghệ thuật cùng chung tay tìm kiếm, sưu tầm, khôi phục và phổ biến lại những giá trị âm nhạc đã mất. Như nhà soạn nhạc Gioachino Rossini đã từng nói: “Ngôn ngữ của âm nhạc là ngôn ngữ chung của tất cả mọi thế hệ và mọi dân tộc; ai cũng hiểu được nó, bởi nó được hiểu bằng trái tim” (2). Krakow-3.2017 Chú thích: (1) “ symphony must be like the world. It must contain everything” (2) “The language of music is common to all generations and nations; it is understood by everybody, since it is understood with the heart”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thụy Kha (2009), “60 năm âm nhạc Việt Nam - Nửa của chiến tranh, nửa thuộc thanh bình”, Tạp chí Sông Hương, số 199. ÂM NHẠC GIAO HƯỞNG TẠI SÀI GÒN - VÀI GÓP NHẶT TỪ TƯ LI U 110 2. Ngô Hoàng Linh (2015), “Sự phát triển nghệ thuật âm nhạc giao hưởng ở Việt Nam”, Tạp chí Sóng Nhạc, số 124. 3. Nguyễn Thị Nhung (2001), Âm nhạc Thính phòng Giao hưởng Việt Nam - Sự hình thành phát triển - tác giả - tác phẩm, Nxb Viện Âm nhạc. 4. Nguyễn Đình San (2006), Nhạc Việt Nam những vùng sáng tối, Nxb Thanh Niên. 5. Hữu Trịnh (2004), Sơ lược về tác phẩm âm nhạc giao hưởng Việt Nam, website giaidieuxanh.vn. 6. Nguyễn Thế Tuân (2006), Nhạc Giao hưởng Việt Nam - 1 tiến trình lịch sử, luận án tiến sĩ chuyên ngành nghệ thuật âm nhạc, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. 7. Tư liệu phỏng vấn NGƯT Nguyễn Văn Đời tại Nhạc viện TP.HCM ngày 6 8 2016. 8. Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam - Truyền thống và hiện đại, Nxb Viện Âm nhạc. 9. Trần Nhật Vy (2000), “Tân nhạc Việt Nam từ năm 1911”, báo Tuổi trẻ xuân Canh Thìn. 10. Hội Nhạc sĩ Việt Nam (2007), Tự hào nửa thế kỷ Hội nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam xuất bản. 11. Viện Âm Nhạc (2000), Âm nhạc mới Việt Nam- tiến trình và thành tựu, Nxb Viện Âm nhạc. 12. Viện Âm Nhạc (2004), Hợp tuyển tài liệu nghiên cứu - lý luận - phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Viện Âm nhạc. 13. Viện Âm Nhạc (2005), Những tác phẩm giao hưởng Việt Nam, Nxb Viện Âm nhạc. 14. Viện Âm Nhạc (2007), Âm nhạc Việt Nam: tác giả-tác phẩm, Nxb Viện Âm nhạc. 15. Viện Âm Nhạc (2010), “Tổng tập Âm nhạc Việt Nam: Tác giả - Tác phẩm, Nxb Viện Âm nhạc. Website 1. www.vienamnhac.vn 2. www.tiengquehuong.wordpress.com 3. www.giaidieuxanh.vn 4. www.dinh.dk 5. www.tranquanghai.info 6. www.hoinhacsi.com.vn 7. www.vnam.edu.vn 8. www.hcmcons.vn 9. www.nguyenthiendao.com 10. www.tonthattiet.com 11. www.dongnhacxua.com www.brainyquote.com Ngày nhận bài: 14/3/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20 8 2017
File đính kèm:
- am_nhac_giao_huong_tai_sai_gon_vai_gop_nhat_tu_tu_lieu.pdf