Pansori và quan họ đỉnh cao của âm nhạc Hàn quốc và Việt Nam

Khi nhắc tới âm nhạc truyền thống của Hàn Quốc ta không thể nào không nhắc

tới Pansori. Có thể nói Pansori chính là đỉnh cao của nền âm nhạc truyền thống của Hàn

Quốc. Khác với Hàn Quốc lãnh thổ Việt Nam có hình chữ S trải dài từ Bắc đến Nam

với hơn 54 dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc lại mang trong mình những nét văn hóa

truyền thống và một nền âm nhạc dân ca đặc sắc riêng. Vì thế khi nói đến âm nhạc

truyền thống của Việt Nam ta có thể kể đến rất nhiều loại hình âm nhạc như: chèo,

tuồng, hát chầu văn, ca trù, quan họ .Tuy nhiên trong bao nhiêu loại hình âm nhạc

truyền thống đó thì chỉ có ca trù và quan họ là được UNESCO công nhận là di sản văn

hoá phi vật thể. Ngày 30/9/2009, Quan họ đã được UNESCO công nhận là di sản văn

hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và tới ngày 1/10/2009 ca trù cũng được UNESCO

công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Tuy nhiên trong bài

báo cáo này chúng tôi đã chọn Quan họ làm đề tài nghiên cứu chứ không phải là ca trù

hay bất cứ loại hình âm nhạc truyền thống nào khác của Việt Nam mặc dù nhiều người

cho rằng tuồng gần giống với Pansori của Hàn Quốc hơn. So với ca trù mang tính chất

bác học và không phải ai cũng có thể hiểu được thì quan họ lại là âm nhạc của tầng lớp

bình dân với những nội dung dễ hiểu, lời ca đằm thắm dễ đi vào lòng người. Hơn nữa so

với ca trù, quan họ có quy mô duy trì và bảo tồn cao hơn rất nhiều. Hiện nay ở Bắc

Ninh(trước kia gọi là Kinh Bắc) - cái nôi của quan họ, cả tỉnh còn hơn 49 làng quan họ

đông tới hàng trăm người. Việc truyền dạy hát quan họ được quan tâm ngay trong chính

các gia đình chứ không phụ thuộc hay chờ đợi vào việc tổ chức lớp học hát của địa

phương và tỉnh. Ở Kinh Bắc không phân biệt già trẻ gái trai, ai ai cũng có thể hát được

một vài làn điệu quan họ. So với những loại hình âm nhạc, dân ca khác, quan họ không

phải là cái gì hoàn toàn tách biệt mà là sự huy động, vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật

có sức biểu hiện cao, có sức hấp dẫn mạnh thường được vận dụng lẻ tẻ trong một vài làn

điệu dân ca trước đây như tuồng, chèo, chầu văn.

pdf 18 trang dienloan 6320
Bạn đang xem tài liệu "Pansori và quan họ đỉnh cao của âm nhạc Hàn quốc và Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Pansori và quan họ đỉnh cao của âm nhạc Hàn quốc và Việt Nam

Pansori và quan họ đỉnh cao của âm nhạc Hàn quốc và Việt Nam
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 78 
PANSORI VÀ QUAN HỌ ĐỈNH CAO CỦA ÂM NHẠC 
HÀN QUỐC VÀ VIỆT NAM 
SVTH:- Bùi Thị Nhàn, Hoàng Thùy Linh (2H-08) 
GVHD: Ths. Bùi Thị Bạch Dương 
I. PHẦN MỞ ĐẦU 
Khi nhắc tới âm nhạc truyền thống của Hàn Quốc ta không thể nào không nhắc 
tới Pansori. Có thể nói Pansori chính là đỉnh cao của nền âm nhạc truyền thống của Hàn 
Quốc. Khác với Hàn Quốc lãnh thổ Việt Nam có hình chữ S trải dài từ Bắc đến Nam 
với hơn 54 dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc lại mang trong mình những nét văn hóa 
truyền thống và một nền âm nhạc dân ca đặc sắc riêng. Vì thế khi nói đến âm nhạc 
truyền thống của Việt Nam ta có thể kể đến rất nhiều loại hình âm nhạc như: chèo, 
tuồng, hát chầu văn, ca trù, quan họ.Tuy nhiên trong bao nhiêu loại hình âm nhạc 
truyền thống đó thì chỉ có ca trù và quan họ là được UNESCO công nhận là di sản văn 
hoá phi vật thể. Ngày 30/9/2009, Quan họ đã được UNESCO công nhận là di sản văn 
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và tới ngày 1/10/2009 ca trù cũng được UNESCO 
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Tuy nhiên trong bài 
báo cáo này chúng tôi đã chọn Quan họ làm đề tài nghiên cứu chứ không phải là ca trù 
hay bất cứ loại hình âm nhạc truyền thống nào khác của Việt Nam mặc dù nhiều người 
cho rằng tuồng gần giống với Pansori của Hàn Quốc hơn. So với ca trù mang tính chất 
bác học và không phải ai cũng có thể hiểu được thì quan họ lại là âm nhạc của tầng lớp 
bình dân với những nội dung dễ hiểu, lời ca đằm thắm dễ đi vào lòng người. Hơn nữa so 
với ca trù, quan họ có quy mô duy trì và bảo tồn cao hơn rất nhiều. Hiện nay ở Bắc 
Ninh(trước kia gọi là Kinh Bắc) - cái nôi của quan họ, cả tỉnh còn hơn 49 làng quan họ 
đông tới hàng trăm người. Việc truyền dạy hát quan họ được quan tâm ngay trong chính 
các gia đình chứ không phụ thuộc hay chờ đợi vào việc tổ chức lớp học hát của địa 
phương và tỉnh. Ở Kinh Bắc không phân biệt già trẻ gái trai, ai ai cũng có thể hát được 
một vài làn điệu quan họ. So với những loại hình âm nhạc, dân ca khác, quan họ không 
phải là cái gì hoàn toàn tách biệt mà là sự huy động, vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật 
có sức biểu hiện cao, có sức hấp dẫn mạnh thường được vận dụng lẻ tẻ trong một vài làn 
điệu dân ca trước đây như tuồng, chèo, chầu văn...Có lẽ bởi vậy mà có người đã cho 
rằng “Quan họ là đỉnh cao của nền dân ca Việt Nam”(htttp.www.bacninh.gov.vn) 
Trong bài báo cáo này, với việc so sánh những điểm tương đồng, khác biệt của 
hai loại hình âm nhạc truyền thống của Hàn Quốc và Việt Nam là Pansori và Quan họ 
các bạn sẽ thấy rằng Pansori và Quan họ thực sự xứng đáng là đỉnh cao của nền âm 
nhạc truyền thống hai nước. Ngoài ra thông qua việc tìm hiểu sự khác biệt giữa hai loại 
hình nghệ thuật này ta có thể thấy rõ hơn những nét đặc trưng văn hóa cũng như tâm tư 
tình cảm của người dân hai nước Hàn - Việt. 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 79 
II. NỘI DUNG 
1. Khái niệm Pansori và Quan họ 
1.1 Pansori 
Trong cái tên Pansori ta có thể tách thành hai phần là “pan”và “sori”. 
Trước hết xét về nghĩa của từ “pan”. Từ “pan”co rất nhiều lớp nghĩa khác nhau. 
Từ “pan”xuất hiện trong các danh từ như No reum pan (노름 반), Ssi reum pan (씨름 
반”), Gut pan (굿반) với ý nghĩa là nơi tổ chức trò chơi,nơi đấu vật và nơi tổ chức lễ 
pháp thuật. Trong trường hợp này thì từ “pan”dùng để chỉ nơi có đông người tụ tập và là 
nơi tổ chức các sự kiện đặc biệt. Tuy nhiên từ “pan”cũng mang một ý nghĩa khác trong 
một số từ như Noreum hanpan (노름 한반-một cuộc chơi) Ssi reum pan Ssi reum pan 
(씨름함반- một ván đấu vật). Lúc này từ “pan”lại chỉ quá trình diễn ra từ đầu đến cuối 
của một sự kiện. Nếu không có mở đầu không có kết thúc và đôi khi có thêm cả sự phân 
biệt thắng bại thì không thể gọi là “pan”. 
Thứ hai ta xét về ý nghĩa của từ “sori”. Khi nói đến thanh nhạc trong âm nhạc 
truyền thống của Hàn Quốc ta có thể chia làm Nore (노래)và Sori(소리). 
Hầu hết các loại âm nhạc như kyonggi japga (경기 잡가 - dân ca tỉnh 경기), Sodo 
japga(서도 잡가- dân ca tỉnh sodo) bắt nguồn từ các ca khúc, lời ca đều được gọi là 
Nore 노래 và chỉ có Pansori 반소리 là được gọi là Namdo sori (남도 소리). Chúng ta 
có thể hiểu “sori”là một loại của âm nhạc biểu hiện tình cảm con người bằng giọng nói. 
Tuy nhiên, so với nore(노래) thì sori(소리) mang khái niệm rộng lớn hơn và cách thể 
hiện của nó cũng phức tạp hơn. “Sori”được phát ra từ trong tâm khảm con người, thể 
hiện đầy đủ mọi cung bậc tình cảm của con người. Không chỉ giới hạn ở âm thanh của 
con người là tiếng của nụ cười và tiếng của giọt nước mà nó còn là âm thanh của vạn 
vật tự nhiên như: Tiếng chim, tiếng gió, tiếng nước. Như vậy “sori”không chỉ âm thanh 
được cảm nhận bằng thính giác mà còn là âm thanh của tinh thần. Trong âm nhac, người 
ta rất coi trọng giọng của con người không phải bởi giọng của con người đẹp và chính 
xác hơn so với các loại âm thanh phát ra từ nhạc khí mà chính bởi nó thể hiện rõ nhất 
tính con người. 
Qua sự phân tích về hai từ “pan”và “sori”chúng ta có thể hiểu Pansori là hoạt 
động nghệ thuật kể những câu chuyện hay côt truyện hoàn chỉnh và được biểu diễn ở 
nơi đông người tụ tập. 
1.2 Quan họ 
Quan họ hay còn gọi là quan họ Bắc Ninh hay Quan họ Kinh Bắc là những làn 
điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ,Việt Nam tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc 
xưa tức Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. 
Có rất nhiều ý kiến khác nhau giải thích về từ Quan họ. Khi cắt nghĩa "Quan họ", 
nhiều người dùng lối phân tích ngữ nghĩa từ đơn, tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 80 
về mặt từ nguyên của "quan”và của "họ". Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ 
xuất phát từ "âm nhạc cung đình”(nhạc của tầng lớp quan lại), hay gắn với sự tích một 
ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó 
và đã dừng bước để thưởng thức "họ"). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những 
thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức 
các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên 
vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về 
nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian. Một số quan điểm lại cho 
rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ 
không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận định 
diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa "chơi Quan họ”bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo 
dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian. Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ 
nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là "quan 
hệ”của một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc. Tuy vậy vẫn chưa có 
quan điểm nào được đa số các học giả chấp nhận. Nhưng có thể nói rằng Quan họ là thể 
loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam. 
2. Điểm tương đồng 
Văn hóa truyền thống của Việt Nam và Hàn Quốc có rất nhiều điểm tương đồng 
và có lẽ cũng chính vì thế mà hai nước có thể tạo dựng được mối quan hệ thân thiết và 
ngày càng trở nên gần gũi. Trong văn hoá của Hàn Quốc ta có thể thấy phảng phất 
những nét văn hóa của Việt Nam và ngược lại trong văn hóa Việt Nam ta cũng có thể 
bắt gặp những nét văn hóa của Hàn Quốc. Pansori và Quan họ của Việt Nam cũng 
vậy.Khi nghiên cứu về hai loại hình âm nhạc truyền thống này của Hàn Quốc và Việt 
Nam chúng tôi cũng thấy những nét văn hóa tương đồng giữa hai loại hình này. Những 
nét giống nhau này cũng chính là một minh chứng sâu sắc giúp ta nhận ra rằng Pansori 
và Quan họ chính là loại hình tiêu biểu cho âm nhạc truyền thống của hai nuớc. 
2.1 Pansori và quan họ đều là âm nhạc của dân gian, âm nhạc của dân tộc, do 
nhân dân sáng tác và được truyền miệng từ đời này qua đời khác. 
Trải qua bao thăng trầm biến cố của lịch sử nhưng Pansori và Quan họ vẫn giữ 
lại được những kỹ thuật hát đặc sắc cùng những giá tri truyền thống được lưu lại từ 
nhiều đời nay. Dù thời gian vô cùng khắc nghiệt đã bào mòn và phai tàn bao nhiêu thứ 
nhưng Pansori và Quan họ vẫn trường tồn cùng thời gian và nhận được tình yêu mến 
của nhiều người. Điều đó giúp ta khẳng định thêm giá trị văn hóa đặc sắc của Pansori và 
Quan họ. Pansori và Quan họ không phải là âm nhạc của một tầng lớp mà là âm nhạc 
của tất cả mọi tầng lớp trong xã hội. Bởi vậy mà có thể nói rằng Pansori và Quan họ có 
tính đại chúng cao. Tâm tư tình cảm trong Pansori và Quan họ không phải là tâm tư của 
một cá nhân riêng lẻ mà là của cả một nhóm người,một cộng đồng, một dân tộc tạo ra 
nó. Vì vậy tính cá nhân đã mờ nhạt đi, đôi khi biến đi hoàn toàn thay vào đó là tính cộng 
đồng. Dường như Pansori và Quan họ đã phá bỏ rào cản khắc nghiệt giữa các giai cấp, 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 81 
tầng lớp trong xã hội cũ và trở thành âm nhạc của tất cả mọi người, ai ai cũng yêu thích 
cũng lắng nghe. Phải chăng là bởi họ đã bắt gặp thấy nối lòng, những suy nghĩ trăn trở 
băn khoăn của chính mình trong đó. 
Trong Pansori ta thấy được ý thức về xã hội đương thời của người dân lúc bấy 
giờ. Pansori là tiếng lòng của người dân kêu gọi sự đoàn kết và sự hòa hợp giữa các 
tâng lớp trong xã hội. Pansori vỡ ra từ những con đường tấp nập kẻ mua người bán ai ai 
cũng thích thú lắng nghe, từ tầng lớp thứ dân nông thôn - tầng lớp thấp nhất trong xã hội 
lúc đó sau đó lan rộng ra cả tầng lớp quý tộc cho tới tận vua chúa. Đây là hiện tượng 
hiếm gặp trên thế giới và khiến Pansori trở thành đỉnh cao của âm nhạc Hàn Quốc. 
Pansori ra đời vào khoảng cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18 thời kỳ Jeoson (저선). Có lẽ đây 
là thời kỳ đen tối và rối ren nhất của xã hội Hàn Quốc. Mâu thuẫn trong xã hội đã lên tối 
cung cực, bọn tham quan ô lại chỉ lo vun vén cho mình mà bóc lột dân chúng tới tận 
xương tận tủy, vua đã hoàn toàn bất lực để mặc cho các thế lực nắm quyền ra sức thao 
túng nền chính trị. Người dân Jeoson không còn được bảo vệ bởi những người được coi 
là vua là quan thế nhưng vua và quan lại vẫn giữ nguyên vị trí là chủ nhân của xã hội 
jeoson và người dân vô cùng bất mãn vì điều này. Họ muốn thay đổi xã hội và làm chủ 
xã hội. Pansori chính là âm nhạc nảy sinh trong bối cảnh mâu thuẫn đó và chứa đựng 
nhận thức đầy sắc sảo về tình hình xã hộ lúc bấy giờ của người dân. 
Vậy còn quan họ thì sao? 
Từ xa xưa dân ca quan họ đã là món ăn tinh thần, một nét sinh hoạt văn hóa đẹp 
của người dân Kinh Bắc. Đây là những làn điệu dân ca đặc sắc của vùng đồng bằng Bắc 
Bộ. Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca 
Việt Nam, quan họ là bức tranh phản ánh cuộc sống muôn mặt và là nét văn hóa tiêu 
biểu của vùng Bắc Bộ. Sau mỗi vụ mùa bận rộ hay khi những hội xuân về những chàng 
trai đầu đội khăn xếp mặc áo the dài, quần trắng ống rộng và những cô gái mặc áo tứ 
thân đầu đội nón quai thao đó là các liền anh liền chị hẹn gặp nhau trong những câu hát 
đối đáp giao duyên, những câu hát về quê hương đất nước. Cứ như vậy những câu hát 
được truyền qua bao thế hệ. Quan họ ra đời với mục đich giải trí, trong những nông 
nhàn các liền anh liền chị đã cất lên những câu hát đối đáp giao duyên. 
2.2 Pansori và Quan họ là tổng thể hợp thành từ nhiều yếu tố văn hóa - nghệ 
thuật dân gian, là âm nhạc chứa đựng tính cảm thụ về mặt ngôn ngữ vừa phong 
phú vừa tinh túy của tiếng Hàn và tiếng Việt. 
Pansori bắt nguồn từ những câu chuyện dài. Phần lớn các câu chuyện trong 
Pansori không phải là truyền thuyết được chuyển thể thành bài hát mà là sự kết hợp nội 
dung của nhiều truyện kể thành một câu chuyện có kết cấu hợp lý và chặt chẽ. Nhiều 
câu chuyên kết hợp với nhau khiến câu chuyện trong Pansori thêm phần dài và phức tạp 
hơn. Pansori gần như giống hoàn toàn với văn hầu Đồng (Vuca), độ dài ngắn và cách 
phát âm của người Hàn Quốc. Các vở Pansori đều lấy nền tảng từ truyền thuyết và các 
câu chuyện kể dân gian. Nhưng chúng cũng không đơn giản như truyền thuyết hay 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 82 
chuyện kể. Mặc dù cốt chuyện khá đơn giản nhưng trong đó có thêm cả những nội dung 
phức tạp, câu chuyện dài thêm và mang không khí buồn thảm. Trong nội dung khá phức 
tạp đó chứa đựng hình ảnh sống động đời sống của người dân thường. Pansori có 5 tác 
phẩm tiêu biểu là ChunHyang ga(춘향가), SimCheong ga(심정가), Heungbo ga(홍부 
가), Sugung ga(수궁가), jeokbyok ga(적북가).Trong đó ChunHyang Ga, SimCheong 
Ga, HungBo Ga là 3 tác phẩm tiêu biêu nhất và nhận được nhiều sự ưa chuộng và yêu 
mến của người Hàn Quốc.(có clip một số tác phẩm tiêu biểu) 
Vở ChunHyang Ga: Đây là vở dài nhất trong 5 vở Pansori. Câu chuyện kể về 
mối tình tuyệt đẹp nhưng cũng đầy chông gai giữa nàng ChunHyang (con gái của kỹ 
nữ) và chàng Lee Mong Ryong (con trai của một vị quan huyện). ChunHyang và 
LeeMongRyong đem lòng yêu nhau họ đã hẹn ước với nhau nhưng cái xã hội phân biệt 
đẳng cấp ấy đã không chấp nhận tình yêu giữa hai người và ngăn cản tình yêu giữa họ. 
LeeMongRyong phải theo cha lên Seoul. ChunHyang ở quê nhà vẫn đợi chờ chàng. 
Nhưng rồi quan trên phái tên họ Byon xuống làm quan huyện tinh NamWon hắn nghe 
danh tiếng của nàng ChunHyang và đã dùng vũ lực ép buộc nàng rồi giam nàng vao tù. 
Nhưng nàng ChunHyang đã đã không chấp nhận và đã phản kháng lại. LeeMongRyong 
thi đỗ trạng nguyên quay về NamWon và đã cứu nàng ra khỏi tù. Cuối cùng qua bao 
nhiêu sóng gió hai người đã được đoàn tụ. 
Vở SimCheong Ga: Đây là vở xứng đáng được gọi là vở bi tráng nhất trong 5 vở 
Pansori. Cha của SimCheong là Simbongsa không chỉ nghèo mà còn mù lòa, mẹ cô hiền 
lành dịu dàng nhưng vì cảnh nghèo đói mà sau khi đẻ SimCheong đã chết vì hậu sinh. 
SimCheong lớn lên bằng sữa mà ông bố mù lòa của mình đi xin được. Vừa lớn 
SimCheong đã phải gánh trách nhiệm phụng dưỡng cha mình. Để cha mình sáng mắt 
SimCheong đã phải bán mình làm cống vật cho biển. Sau khi rơi xuống biển 
SimCheong đã không chết mà lạc vào long cung rồi trở thành hoàng hậu nhưng lòng 
vẫn thương nhớ về cha già. Truyện kết thúc bằng chi tiết SimCheong gặp lại cha mình 
và người cha mắt sáng trở lại. 
Vở Hungbu Ga: Đây là một trong những câu chuyện mang đậm tính chất bản địa 
và cũng phong phú chất liệu đời sống người dân thường nhất. Chuyện kể về 2 anh em 
Nolbu và Hungbu. Nolbu xấu xa làm đủ mọi trò xấu nhưng lại giàu có sau khi cha mất 
đã lấy hết gia sản và hắt hủi người em.Hungbu hiền lành tuy nghèo nhưng hay giúp đỡ 
người khác. Thấy con chim én bị thương Hungbu đã cẩn thận bó vết thương cho chim 
và chăm sóc cho nó đến khi nó khỏi. Chim đã cho Hungbu hạt bí thần và sau khi trong 
lên ra quả thì trong quả bí thần kỳ đó có tiền vàng khiến Hungbu trở nên giàu có và 
sống hạnh phúc. Người anh thấy vậy đã làm chim bi thương rồi chăm sóc cho nó. Chim 
cũng cho người anh hạt bí thần kỳ nhưng ...  gỡ bạn bè, bao giờ Quan họ cũng tuân theo 
lề luật: đối đáp nam nữ, đối giọng, đối lời và hát đôi nam đối với nữ. Đối đáp nam nữ là 
bên gái hát một bài, tiếp đó, bên trai lại hát một bài, cứ thế dài hết cuộc hát hoặc canh 
hát. Đối giọng: bên hát trước hát bài có làn điệu âm nhạc như thế nào thì bên hát sau 
phải hát đối lại một bài cũng có làn điệu âm nhạc như thế nào thì bên hát sau phải hát 
đối lại một bài cũng có làn điệu âm nhạc như thế, được coi là đối giọng. Đối lời: Đối lời 
khác với đối giọng không chỉ ở chỗ một bên thuộc lĩnh vực âm nhạc, một bên thuộc lĩnh 
vực thơ ca, mà còn khác ở chỗ:nếu bên hát trước đã hát một lời ca nào đấy (một đoạn 
thơ, một bài thơ) thì bên hát sau cũng sử dụng làn điệu âm nhạc giống như bên hát 
trước, nhưng lời ca phải khác đi mà vẫn gắn bó với tình, ý, hình tượngcủa lời ca 
người hát trước để tạo nên hiệu quả hô ứng, đối xứng, cảm thông. Hát đối nam nữ, đối 
giọng, đối lời được coi là sự đối đáp hoàn chỉnh theo lề lối của Quan họ. Điều này cũng 
giống lề lối của nhiều dòng dân ca khác. Nhưng cần lưu ý rằng trình độ đối giọng, đối 
lời của ca hát Quan họ đã tiến tới một đỉnh cao mới về nghệ thuật âm nhạc và thơ ca, 
bởi vậy Quan họ không ngừng liên tiếp vươn tới những sáng tạo mới, vươn tới sự tích 
lũy thường xuyên về vốn âm nhạc, vốn thơ ca, trình độ sáng tác và nghệ thuật ca hát. 
b. Hát giải hạn 
Ngày xưa, con người thường tin vào số mệnh. Khi gặp nhiều việc không may 
hoặc tin rằng vào những tuổi, những năm, tháng nào đấy con người sẽ bị những hạn lớn 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 91 
như mất tiền của, bệnh tật,thì con người đã tìm những cách giải hạn, hy vọng tai qua 
nạn khỏi. Ở vùng quan họ, nhiều người trước đây, sau khi làm các nghi thức cũng lễ, 
thường mời 4, 5, 6 nhóm quan họ vừa nam, vừa nữ đến nhà ca một đêm Quan họ với 
niềm tin rằng có Quan họ nam nữ dập dìu đến nhà, ca xướng giao hòa đông vui, gắn bó 
thì cái may sẽ đến, cái rủi sẽ qua, vững lòng sống trong niềm tin, hy vọng. Hát giải hạn 
khộng bị gò bó nhiều vào lề lối, bên hát trước muốn hát bài nào thì bên hát sau hát đối 
bài đấy. Không đối đúng cũng cho qua và cứ thể tiếp tục kéo dài canh hát gồm những 
bài đối đáp có nội dung vui vẻ, gắn bó, hẹn ước, thề nguyềnKết thúc canh hát cũng 
hát đôi câu giã bạn rồi các Quan họ chúc gia chủ may mắn, bình yên, rủi không đến, 
phúc ùa vềTrước lúc ra về gia chủ thường gửi biếu Quan họ “lộc thánh”tức là một ít 
vật phẩm đã dùng để cúng lễ. 
c. Hát cầu đảo 
Không biết tự bao giờ người Quan họ cũng như đông đảo cư dân nông nghiệp trên 
quê hương Quan họ tin rằng mưa, nắng thuận hòa, mùa màng tươi tốt, dân an, vật 
thịnhLà kết quả của hòa hợp âm dương, hòa hợp giữa đất trời và con người. Nếu âm 
thịnh dương suy thì gây lụt, bão. Nếu dương thịnh âm suy sẽ gây hạn hán, sâu 
keoNgười Quan họ tin rằng tiếng hát Quan họ có thể thấu đến trời cao và thế giới 
thần linh, có thể hòa hợp âm dương. Vì vậy, nếu trời hạn hán kéo dài mãi không mưa thì 
ở mốt số đền miếu trong vùng Quan họ thường có câu hát cầu đảo (cầu mưa). Hát cầu 
đảo thường chỉ có Quan họ nữ. Dân làng gọi hết Quan họ nữ trong làng, giữ gìn chay 
tịnh, đến ăn ngủ tại cửa đền hát liền 2, 3 ngày đêm. Không hát những bài tình tứ trao 
duyên như Quan họ thường hát mà chỉ hát những bài hát có nội dung cầu nguyện mưa 
thuận gió hòa và chỉ hát một giọng La rằng. 
d. Hát mừng 
Xưa khánh thành nhà mới, con cái đỗ đạt bằng cấp, đã đẻ nhiều con gái rồi đẻ 
được con traiđều có thể ăn mừng. Lên thọ tuổi 50, 60, 70, 80 tuổi,đỗ bằng cấp cao, 
thăng quan tiến chức thường mở tiệc khao. Trong các dịp ăn mừng và khao, ngoài 
việc làm những nghi lễ, mời họ hàng, dân làngđến ăn mừng, thì trong vùng Quan họ 
bao giờ cũng có những canh hát Quan họ của nhiều nhóm Quan họ kéo dài có khi vài 
ngày đêm. Trong những cuộc hát mừng này, Quan họ không phải tuân thủ lề lối nghiêm 
ngặt mà cốt sao có nam, có nữ, có đối đáp, hầu hết là ca nhưng bài giọng Vặt có nội 
dung lời ca sâu nặng nghĩa tình, gắn bó keo sơn và không khí hát phải thật vui, nhiều 
tiếng cười, lời nói vui xen vào khi hát. Chủ và khách chan hòa trong niềm vui và hy 
vọng chân tình. Hát ở các đám cưới cũng vậy. Chỉ cần tránh những bài có nội dung, lời 
ca ai oán, trách móc, than thân trách phận. 
e. Hát hội 
Trong vùng Quan họ, một trong những hoạt động văn nghệ chủ yếu của hội làng 
là ca hát Quan họ giữa nhiều tốp Quan họ nam nữ. Từ ngày mùng 4 tháng giêng âm lịch 
cho đến ngày 28 tháng hai âm lịch, liên tiếp các hội làng diễn ra trong vùng Quan họ. 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 92 
Nam nữ Quan họ cũng tấp nập mời nhau đi các hội làng “để vui xuân, vui hội, gặp 
bầu, gặp bạn, ca đôi câu, đôi canh cầu may, cầu phúc”. Suốt tháng 8 âm lịch hàng năm, 
các làng có lệ vào đám, ở hội đình, Quan họ lại có dịp mời nhau dự hội, ca hát. 
f. Hát canh 
Nhiều nơi kiêng chữ hát, nên canh hát còn được gọi là canh ca; chẳng hạn: ca một 
canh. Một canh hát Quan họ đúng lề lối xưa thường diễn ra vào mùa xuân hoặc mùa thu, 
mùa của hội chùa, hội đình làng vào đám, giữa những nhóm Quan họ nam và nữ mời 
nhau đến nhà “ca một canh cho vui bầu vui bạn, vui xóm vui làng, cầu may cầu phúc”. 
Canh hát thường được giữ đúng các lề lối như Quan họ đã đề ra và được kéo dài 
từ 7- 8h tối đến 2-3h sáng. Đôi khi hội làng mở nhiều ngày cũng có những canh hát kéo 
dài từ 2-3 ngày đêm. 
g. Hát lễ thờ 
Khi các Quan họ rủ nhau đến hội làng để hát vui hoặc hát giải thì mỗi nhóm Quan 
họ thường sắm sửa trầu cau, hương, nên, hoa quả để vào đình làm lễ thánh cũng như lễ 
trình dân. Khi các Quan họ xin vào đặt lễ thờ thì thường được các vị bô lão trong làng 
có hội đón tiếp mọt cách trang trọng nồng hậu. Mặc dù dưới thời Phong kiến rất ngặt 
nghèo với việc có đàn bà con gái vào lễ trước bàn thờ Thành hoàng nhưng dường như 
các liền anh liền chị Quan họ lại là một ngoại lệ. Sau khi đặt lễ cúng Thành hoàng các 
nhóm Quan họ thường ca một đôi bài theo giọng La rằng để chúc thánh, chúc dân người 
an - vật thịnh, phúc, lộc, thọ, khang ninh. Như vậy Quan họ gọi là hát lễ thờ. 
3.3 Nội dung tư tưởng chứa đựng Pansori và Quan họ 
Bất kỳ một loại hình nghệ thuật nào được sáng tác ra đều có mục đích và tư tưởng 
của người sáng tác hàm chứa trong đó. Pansori và Quan họ cũng vậy. Chủ thể sáng tác 
của 2 loại hình nghệ thuật này không phải là cá nhân mà là quần chúng nhân dân thế 
nên tư tưởng, nỗi niềm mà người dân gửi gắm trong đó cũng sâu sắc hơn rất nhiều. 
3.3.1. Pansori 
 Pansori ra đời trong hoàn cảnh xã hội đương thời từ cuối thế kỷ XVII- đầu thế kỷ 
XVIII vô cùng đen tối và khủng hoảng. Trong nước, mâu thuẫn giữa các đảng phái 
chính trị ngày càng gia tăng, vua bất lực, các thế lực nắm quyền xung quanh vua tranh 
chấp thao túng chính trị. Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, hết mất mùa, thiên tai lại 
đến nạn giặc Oa xâm chiếm vào năm Nhâm Thìn (1592).Trong khi đó điểm tựa trước 
đây luôn được tôn sùng là vua quan, triều đình lại bất lực, bỏ mặc dân đen. Trước tình 
hình đó nhân dân phải tìm một chỗ dựa mới cho mình ít nhất là về mặt tinh thần và khi 
đó Pansori đã được ra đời. 
Pansori là khúc hát về hiện thực tăm tối, về bộ mặt thật đang được phơi bày của 
xã hội đương thời. Xã hội trong những tác phẩm của Pansori chính là hình ảnh thu nhỏ 
của xã hội đương thời – một xã hội phong kiến cổ hủ lạc hậu đang trên đà sụp đổ, một 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 93 
xã hội mà vua trở thành bù nhìn không còn khả năng quyết định và cứu giúp thần dân 
của mình thông qua tấm gương phản chiếu là Pansori, đời sống hiện thực đi vào trong 
lời ca tiếng hát rất đỗi thân quen và gần gũi. Những số phận con người, những mảnh đời 
éo le như được tạc lại một cách chân thực tỉ mỉ. Bộ mặt của xã hội phong kiến lạc hậu, 
của vua quan thời Joseong(조성) chưa bao giờ lại được hiện lên một cách chân thực đến 
thế. 
Trong vở Chun Hyang Ga (춘향가) nàng Chun Hyang (춘향) hiện lên với thân 
phận của một kỹ nữ - một thân phận có địa vị thấp nhất và bị khinh rẻ trong xã hội 
đương thời. Cũng chính bởi thân phận ấy mà biết bao sóng gió tủi cực đã ập đến cuộc 
đợi nàng. Tình yêu trong sáng, rất đáng ngưỡng mộ của nàng và Lee Mong Ryong 
(이몽룡) cũng bị ngăn cản bởi bức rào cản của định kiến xã hội chính là sự phân biệt 
giai cấp, đẳng cấp trong xã hội. Đối với thân phận của Chun Hyang (춘향) những người 
tôn trọng, khắt khe trong việc giữ gìn phong tục tập quán của xã hội sẽ nhìn Chun 
Hyang (춘향) trong hình thái của một kỹ nữ. Còn những ai đứng ở lập trường tiến bộ sẽ 
thấy việc đối xử với Chun Hyang (춘향) như một kỹ nữ là không thỏa đáng. Với thân 
phận là nữ giới lại bị coi là tầng lớp tận cùng của xã hội, nàng Chun Hyang (춘향) vẫn 
vươn lên phản kháng chế độ xã hội phong kiến đương thời bằng một tinh thần sắt đá, 
quật cường. Chính Chun Hyang (춘향) là hiện thân cho tầng lớp nhân dân của xã hội 
đương thời luôn khao khát được giải phóng mình, khao khát được tôn trọng, được sống 
với đúng nghĩa của một con người thực sự. 
Nếu như vở Chun hyang ga (춘향가) phản ánh nguyên hình chế độ hà khắc, bất 
công của xã hội đương thời thì vở Sim Cheong Ga (심청가) lại phản chiếu chân thực 
bức tranh cuộc sống nghèo khổ, bần hàn của người dân qua hai hình ảnh nàng Sim 
Cheong (심청) và người cha Simbongsa(심봉사). Vợ mất sớm Simbongsa (심봉사) 
một mình gà trống nuôi con trong cảnh tủi nhục.Sim Cheong (심청) lớn lên khó nhọc 
bằng dòng sữa mà ông bố mù lòa của mình ăn xin được. Vừa lớn Sim Cheong (심청) đã 
phải gánh trên vai trách nhiệm nặng nề vừa làm để kiếm sống vừa phụng dưỡng cha. 
Nhưng rồi Sim Cheong (심청) lại phải đối mặt với cái chết. Để cha mình có thể sáng 
mắt trở lại, Sim Cheong (심청) đã quyết định bán mình làm vật tế để đổi lấy 300 bao 
gạo cống vật. Vở kịch Sim cheong ga (심청가) không chỉ phản ánh cuộc sống nghèo 
đến cùng cực của người dân mà còn khắc họa tấm gương của một người con gái hiếu 
thảo như Sim cheong (심청). Pansori không chỉ mang đến bức tranh hiện thực cho 
người xem mà còn khơi dậy trong mỗi người sự đồng cảm, lòng khát khao được sống 
hạnh phúc, được giải phóng khỏi giới hạn của con người. Và phần sau của vở Sim 
cheong ga (심청가)chính là minh chứng cho điều đó. Nàng Sim cheong (심청) bị đưa 
đi làm tế vật cho thần biển, nàng nhảy xuống biển nhưng không chết mà lạc vào long 
cung và trở thành hoàng hậu. Ở đoạn kết Sim cheong (심청) gặp lại cha và giúp cha 
sáng mặt chính là kết thúc có hậu xứng đáng mà nhân dân dành cho hai nhân vật. Có thể 
thấy Pansori chủ yếu khắc họa những nỗi buồn đau da diết nhưng trong nỗi buồn ấy ta 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 94 
không thấy nỗi tuyệt vọng, chán nản mà ta vẫn thấy đâu đó ánh sáng của sự lạc quan, hy 
vọng. Đó phải chăng là tư tưởng mà người dân Hàn Quốc muốn gửi gắm trong Pansori? 
3.3.2 Quan họ 
Quan họ là một hinh thái sinh hoạt văn hóa dân gian, một tổng thể do nhiều yếu tố 
văn hóa nghệ thuật hợp thành, trong đó nổi bật là giá trị của nghệ thuật ca hát Quan họ 
với nội dung tư tưởng bao hàm nhiều ý nghĩa phong phú, sâu, rộng. 
Quan họ là một tổng thể hợp thành từ nhiều yếu tố văn hóa nghệ thuật dân gian xứ 
Bắc, trong một quá trình lịch sử lâu dài, có nhiều tầng, nhiều lớp trong một chỉnh thể 
văn hóa; gắn bó với văn hóa, văn minh làng xã, thu hút và biểu hiện những ước mơ; tập 
hợp và hành động chung cho những nguyện vọng, những khát khao của con người xứ 
Bắc nhiều đời, đối với quyền sống, quyền hạnh phúc của con người trên bình diện văn 
hóa – xã hội. 
Theo chiều dài lịch sử, Quan họ đã sáng tạo, dung nạp, chuyển hóa, sinh thành, 
đào thải để thích nghi, đáp ứng những nhu cầuvề văn hóa, nghệ thuật, những nguyện 
vọng về cuộc sống của cộng đồng người sáng tạo, nuôi dưỡng, giữ gìn, phát triển. 
Trong mọi chặng đường lịch sử giá trị nội dung bản chất của Quan họ giàu có, 
phức tạp, đa diện. Đến với ngày hội có hàng trăm nhóm Quan họ nam nữ tươi vui, mời 
chào, ca hát hoặc đến với một canh hát do Quan họ gái, trai mời nhau đến nhà ca một 
canh “Mừng xuân, mừng hội, vui bầu, vui bạn...”. Người đẹp, trang phục đẹp, cử chỉ 
đẹp, ngôn ngữ đẹp, tiếng nói, tiếng cười, miếng trầu, chén nước...Chuẩn mực văn hóa 
thắm đượm tình người, tình bạn, tình yêu “sum họp trúc mai”, “Bốn bể giao tình”, thế 
giới lung linh, say đắm của sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật, thật sự mang lại những 
khoảnh khắc hạnh phúc cho con người. Đến với Quan họ là đến với sự liên kết con 
người bằng sợi dây ân nghĩa, yêu thương, của tình bạn trọn đời, tình bạn truyền đời, tình 
yêu nam nữ mang màu sắc lý tưởng kiểu Quan họ như phong tục, lề lối Quan họ đã ước 
định. Con người có thêm sức mạnh, niềm tin yêu để chống lại sự cô đơn, sự bất lực 
trước một xã hội có nhiều bất công, áp bức đè nặng nhiều thế kỷ. 
Sự phân biệt đẳng cấp, phân biệt thân phận nhất là trong xã hội xưa là nỗi đau tinh 
thần của nhiều người. Đến với Quan họ là đến với mối quan hệ tôn lẫn kính trung sự 
bình đẳng giữa người với người: giữa nam với nữ, giữa các thân phận khác nhau trong 
đời thường. Không ở đâu trong xã hội cũ con người lại được sống trong mối quan hệ 
“Người với người là bạn”như trong sinh hoạt văn hóa Quan họ. Có lẽ cũng bởi vậy mà 
bất chấp quy định của xã hội phong kiến ngặt nghèo trong việc đàn bà, con gái trước 
bàn thờ Thành hoàng vào những dịp lễ quan trọng, những liền anh, liền chị khi vào lễ 
thánh vẫn được các vị đứng đầu làng đón tiếp một cách trang trọng nồng hậu. Trước vũ 
trụ bao la huyền bí, nhiều rủi hơn may người Quan họ đã đến với tiếng hát làm nhịp cầu 
đến với thế giới tâm linh để cầu mưa, cầu phúc, cầu duyên hay giải hạnhy vọng vượt 
qua mọi thác ghềnh, hy vọng tấm lòng thành kính tiếng hát diệu kỳ kia sẽ xua đi mọi tai 
ương bất hạnh mang lại niềm tin trong cuộc sống. 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 
 95 
III. KẾT LUẬN 
Bài nghiên cứu của chúng tôi còn rất nhiều thiếu sót nhưng chúng tôi hy vọng 
những kiến thức ít ỏi này sẽ giúp các bạn hiểu hơn về Pansori, Quan họ và thêm yêu quý, 
trân trọng hai loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc này. Chính các yếu tố như kỹ 
thuật hát, ngôn từ cũng như những nội dung tư tưởng chứa đựng trong Pansori và Quan 
họ đã làm nên nét độc đáo, tinh tế, đặc sắc ấy. Bất chấp dòng thời gian nghiệt ngã, 
Pansori và Quan họ vẫn khẳng định được vị trí của mình trong lòng người dân hai nuớc 
và cả thế giới. Pansori và Quan họ không chỉ là linh hồn, là tinh hoa của văn hóa Hàn-
Việt mà còn là tinh hoa của nhân loại. 
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Giáo trình văn hóa Hàn Quốc 한국의 문화 욕사 자료집 II 
2. 판소리 이야기 Câu chuyện về Pansori 
3. Nghiên cứu khoa học:Vài nét khai quát về Pansori loại hình âm nhạc truyền 
thống của Hàn Quốc của nhóm nghiên cứu Chu Thị Thanh Thúy, Dương Thị 
Tuyên, Lê Thị Hải Yến, Trần Thị Yến. 
4. Ca dao trữ tình Việt Nam (Nhà xuất bản Giáo dục-năm xuất bản 1998 do Vũ 
Thúy Anh – Vũ Quang Hào sưu tầm và biên soạn). 
5. Sv kinhbac.com 
6. Quan ho.org 

File đính kèm:

  • pdfpansori_va_quan_ho_dinh_cao_cua_am_nhac_han_quoc_va_viet_nam.pdf