An toàn vệ sinh thực phẩm tại các bếp ăn tập thể, khu công nghiệp Việt Nam – Singapore tỉnh Bình dương, năm 2013
Đặt vấn đề: Tại Việt Nam các vụ ngộ độc thực phẩm trên 30 người mắc thường xảy ra tại các bếp ăn tập thể (BATT). Năm 2012, tỉnh Bình Dương có đến 75% các vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra tại BATT. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các BATT tại khu công nghiệp Việt Nam‐ Singapore đạt các điều kiện về VSATTP và tỉ lệ nhân viên có kiến thức, thực hành đúng về VSATTP. Xác định mối liên quan giữa các điều kiện VSATTP với loại hình và quy mô bếp, giữa kiến thức và thực hành với các đặc tính của mẫu nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên tất cả người chế biến (432 người) tại toàn bộ 48 BATT có tổ chức nấu ăn tại chỗ trong khu công nghiệp Việt Nam‐ Singapore, tỉnh Bình Dương. Chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi để phỏng vấn trực tiếp kiến thức của người chế biến và bảng kiểm để quan sát thực hành của người chế biến, bảng kiểm để quan sát trực tiếp các điều kiện vệ sinh của BATT. Chúng tôi sử dụng phép kiểm chi bình phương để xác định mối liên quan giữa các biến số. Kết quả: Chỉ có 10,4% BATT đạt các điều kiện về VSATTP. Trong số 432 người được phỏng vấn, tỉ lệ nhân viên có kiến thức và thực hành đúng về VSATTP lần lượt là 9,3% và 8,6%. Về tỉ lệ kiểm soát thực phẩm đầu vào, những bếp có loại hình hợp đồng nấu có tỉ lệ đạt cao hơn so với những bếp có loại hình tự tổ chức nấu (PR=1,4; KTC 95% (1,1‐2,1)), những bếp có quy mô lớn có tỉ lệ đạt cao hơn so với những bếp có quy mô nhỏ hơn (PR=1,3; KTC 95% (1,1‐1,7)). Những người đã tập huấn về VSATTP có tỉ lệ kiến thức đúng cao hơn so với những người chưa được tập huấn 8,9 lần (PR=8,9; KTC95% (1,2‐63,6)) và có tỉ lệ thực hành đúng cao hơn 8,2 lần (PR=8,2, KTC 95% (1,2‐58,9)). Ngoài ra, nhân viên làm việc ở bếp hợp đồng nấu có tỉ lệ kiến thức đúng cao hơn 3,9 lần so với nhân viên làm việc ở bếp tự tổ chức nấu (PR=3,9; KTC 95% (1,2‐12,3)). Kết luận: Tỉ lệ BATT đạt các điều kiện về VSATTP rất thấp, do đó các cơ quan quản lý cần tăng cường hơn công tác thanh, kiểm tra VSATTP tại các BATT, đặc biệt là đối với những bếp có loại hình tự nấu hoặc bếp có quy mô nhỏ (dưới 500 suất ăn/ngày). Bên cạnh đó, tỉ lệ nhân viên có kiến thức đúng và thực hành đúng về VSATTP rất thấp nên công tác tập huấn kiến thức VSATTP cần được đẩy mạnh nhiều hơn, đặc biệt là đối với nhân viên làm việc ở những bếp có loại hình tự tổ chức nấu
Tóm tắt nội dung tài liệu: An toàn vệ sinh thực phẩm tại các bếp ăn tập thể, khu công nghiệp Việt Nam – Singapore tỉnh Bình dương, năm 2013
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 332 AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM TẠI CÁC BẾP ĂN TẬP THỂ, KHU CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM – SINGAPORE TỈNH BÌNH DƯƠNG, NĂM 2013 Lê Thị Ngọc Ánh*, Lê Hoàng Ninh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tại Việt Nam các vụ ngộ độc thực phẩm trên 30 người mắc thường xảy ra tại các bếp ăn tập thể (BATT). Năm 2012, tỉnh Bình Dương có đến 75% các vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra tại BATT. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các BATT tại khu công nghiệp Việt Nam‐ Singapore đạt các điều kiện về VSATTP và tỉ lệ nhân viên có kiến thức, thực hành đúng về VSATTP. Xác định mối liên quan giữa các điều kiện VSATTP với loại hình và quy mô bếp, giữa kiến thức và thực hành với các đặc tính của mẫu nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên tất cả người chế biến (432 người) tại toàn bộ 48 BATT có tổ chức nấu ăn tại chỗ trong khu công nghiệp Việt Nam‐ Singapore, tỉnh Bình Dương. Chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi để phỏng vấn trực tiếp kiến thức của người chế biến và bảng kiểm để quan sát thực hành của người chế biến, bảng kiểm để quan sát trực tiếp các điều kiện vệ sinh của BATT. Chúng tôi sử dụng phép kiểm chi bình phương để xác định mối liên quan giữa các biến số. Kết quả: Chỉ có 10,4% BATT đạt các điều kiện về VSATTP. Trong số 432 người được phỏng vấn, tỉ lệ nhân viên có kiến thức và thực hành đúng về VSATTP lần lượt là 9,3% và 8,6%. Về tỉ lệ kiểm soát thực phẩm đầu vào, những bếp có loại hình hợp đồng nấu có tỉ lệ đạt cao hơn so với những bếp có loại hình tự tổ chức nấu (PR=1,4; KTC 95% (1,1‐2,1)), những bếp có quy mô lớn có tỉ lệ đạt cao hơn so với những bếp có quy mô nhỏ hơn (PR=1,3; KTC 95% (1,1‐1,7)). Những người đã tập huấn về VSATTP có tỉ lệ kiến thức đúng cao hơn so với những người chưa được tập huấn 8,9 lần (PR=8,9; KTC95% (1,2‐63,6)) và có tỉ lệ thực hành đúng cao hơn 8,2 lần (PR=8,2, KTC 95% (1,2‐58,9)). Ngoài ra, nhân viên làm việc ở bếp hợp đồng nấu có tỉ lệ kiến thức đúng cao hơn 3,9 lần so với nhân viên làm việc ở bếp tự tổ chức nấu (PR=3,9; KTC 95% (1,2‐12,3)). Kết luận: Tỉ lệ BATT đạt các điều kiện về VSATTP rất thấp, do đó các cơ quan quản lý cần tăng cường hơn công tác thanh, kiểm tra VSATTP tại các BATT, đặc biệt là đối với những bếp có loại hình tự nấu hoặc bếp có quy mô nhỏ (dưới 500 suất ăn/ngày). Bên cạnh đó, tỉ lệ nhân viên có kiến thức đúng và thực hành đúng về VSATTP rất thấp nên công tác tập huấn kiến thức VSATTP cần được đẩy mạnh nhiều hơn, đặc biệt là đối với nhân viên làm việc ở những bếp có loại hình tự tổ chức nấu. Từ khóa: An toàn vệ sinh thực phẩm, bếp ăn tập thể ABSTRACT FOOD SAFETY AT CANTEENS IN VIETNAM – SINGAPORE INDUSTRIAL PARK, BINH DUONG PROVINCE, 2013 Le Thi Ngoc Anh, Le Hoang Ninh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 332 – 340 Background:In Viet Nam,the majority of food poisoning outbreaksaffecting over 30 people usually occurat canteens. In 2012, there were 75% foodpoisoning cases happening at canteens in Binh Duong province. Objectives:To determine the proportion of canteens in the Vietnam‐Singapore Industrial park which attain * Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: Ths. Lê Thị Ngọc Ánh ĐT: 0976119309 Email: lengocanh309@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 333 the food safety standards and the proportionof food‐handlers with right knowledge and practicesoffood safety. To identify the relationship between the sanitary conditions of food safety and the type and scale of canteens;between the knowledge and practicesof food handlers and their characteristics. Methods: The descriptive cross‐sectional study was performed on allfoodhandlers (432 people) ofthe entire 48 canteenswhose cooking is organized on the spot in Vietnam‐Singapore Industrial parks in Binh Duong province. We used questions to interview directly the foodhandlers’ knowledgeand usedachecking table toobserve sanitary conditions of thesecanteens and of the foodhandlers’practices.We used chi‐squared test to measure the relationship between variables. Results: Only 10.4% canteensattainted the conditions of food safety. In 432 interviewees, theproportions offoodhandlers with the right knowledge and practicesin food safety account for 9.3% and 8.6% respectively. In terms of the rate of food control input, that of canteens belonging to the contracted cooking type was higher than that of canteens ofthe self‐organized cooking type (PR = 1,4, 95% CI (1,1‐ 2,1 )), the large scale canteens (over 500 meals/day) achieved a higher rate than did smaller scale canteens (PR=1,3, 95% CI (1,1‐ 1,7)). The propotion ofpeople who had participated in training on food safety outmatched that of those who had never attended by 8,9 times in terms of right knowledge (PR = 8,9, 95% CI (1,2‐ 63,6)) and the rate of right practice outdid by 8,2 times (PR = 8,2, 95% CI (1,2‐ 58,9)). Additionally, foodhandlers who work at canteens of the contracted cooking type had the propotion of right knowledge that was 3,9 timeshigher than those who work at canteens of the self‐ organized cooking type (PR = 3,9, 95% CI (1,2 –12,3)). Conclusion:The proportion of canteens attaining food safetywasnoticeably low. To cope with this, management agencies need to strengtheninspection of foodsafety atcanteens, especiallythe canteensbelonging to the self‐organized cooking type orsmall in scale (under 500 meals/day).Moreover, the proportion of food‐ handlers with right knowledge and practices in food safetywas low as well, thus trainingshould be promoted, especially for people who work in canteens of the self‐organized cooking type. Keywords:foodsafety, canteens ĐẶT VẤN ĐỀ Vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề y tế công cộng lớn được các quốc gia quan tâm. Tại Việt Nam, từ năm 2001‐2010 đã xảy ra 1.892 vụ ngộ độc thực phẩm, với 55.381 người mắc và 514 người tử vong, trong đó các vụ ngộ độc lớn thường xảy ra tại các BATT(1,4,9). Tỉnh Bình Dương là tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế cao, là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp lớn. Năm 2012, tỉnh đã xảy ra 4 vụ ngộ độc thực phẩm, với 142 người mắc và 03 người tử vong, trong đó có 01 vụ (với 61 người mắc) xảy ra tại 1 BATT trong khu công nghiêp Việt Nam ‐ Singapore, nguyên nhân là do vi sinh vật(3). Thực phẩm có thể bị ô nhiễm vào chuỗi thức ăn từ trong quá trình sản xuất, chế biến đến khi ăn, do nhiều nguyên nhân. Trong đó có thể do điều kiện bếp ăn chưa được đảm bảo vệ sinh hoặc có thể do người chế biến không tuân thủ tốt các điều kiện vệ sinh, làm nhiễm bẩn vào thực phẩm trong quá trình sơ chế, nấu nướng và phân chia thức ăn hoặc do bảo quản thực phẩm không đúng cách. Nghiên cứu này được thực hiện để tìm ra các điều kiện VSATTP chưa được đảm bảo của BATT cũng như của người chế biến, nhằm cung cấp thêm thông tin cho các nhà quản lý trong công tác thanh kiểm tra và tập huấn kiến thức VSSATTP đạt hiệu quả hơn, góp phần ngăn ngừa các vụ ngộ độc thực phẩm khác có thể xảy ra. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ các BATT tại khu công nghiệp Việt Nam ‐ Singapore, tỉnh Bình Dương, năm 2013 đạt các điều kiện VSATTP. Xác định tỉ lệ nhân viên có kiến thức, thực hành đúng về VSATTP. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 334 Xác định mối liên quan giữa các điều kiện VSATTP của BATT với loại hình và quy mô bếp Xác định mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của nhân viên chế biến với các đặc tính của mẫu (tuổi, giới, trình độ học vấn, thời gian làm việc trong ngành, tập huấn VSATTP, loại hình bếp, quy mô bếp) ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện vào tháng 5/2013, đối tượng là toàn bộ 48 bếp ăn tập thể có tổ chức nấu ăn tại chỗ trong khu công nghiệp Việt Nam ‐ Singapore I và II tỉnh Bình Dương và toàn bộ 432 nhân viên có trực tiếp tiếp xúc với thực phẩm tại các BATT này. Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn trực tiếp kiến thức của người chế biến, bảng quan sát điều kiện vệ sinh của bếp và bảng quan sát thực hành của người chế biến. Để hạn chế sai lệch thông tin có thể xảy ra khi đến thu thập số liệu tại các BATT, đoàn nghiên cứu đã nêu rõ lý do thu thập số liệu nhằm phục vụ cho nghiên cứu khoa học, chứ không phải để thanh tra hay kiểm tra các cơ sở. Việc quan sát thực hành của từng nhân viên chế biến và quan sát điều kiện vệ sinh của BATT được thực hiện trước khi phỏng vấn kiến thức. Số liệu sau khi thu thập được làm sạch và nhập liệu bằng phần mềm EpiData 3.1 và phân tích bằng Stata 12.0. Các phương pháp thống kê: tỷ lệ %, tần số được sử dụng để mô tả đơn biến. Sử dụng phép kiểm chi bình phương và phép kiểm Fisher, với mức ý nghĩa p<0,05 để xác định sự khác biệt giữa 2 tỷ lệ. Ngoài ra, sử dụng phép kiểm chi bình phương khuynh hướng (với p<0,05) để xác định mối liên quan có tính khuynh hướng của các biến số. Số đo kết hợp được dùng là tỉ số tỉ lệ hiện mắc (PR) và khoảng tin cậy 95%. BATT đạt các điều kiện VSATTP khi đạt 4 nhóm điều kiện về vệ sinh cơ sở, vệ sinh trang thiết bị dụng cụ, kiểm soát thực phẩm đầu vào, lưu mẫu thức ăn và ghi chép thực đơn hàng ngày gồm 16 nội dung được đánh giá (bảng 3). Nhân viên có kiến thức đúng khi trả lời đúng tất cả 13 nội dung về kiến thức được hỏi (bảng 4). Nhân viên có thực hành chung đúng khi thực hành đúng tất cả các nội dung được quan sát chung và quan sát theo vị trí công việc (bảng 5). KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Sau khi loại 14 BATT (với 56 nhân viên chế biến) không thỏa tiêu chí chọn mẫu do công ty bị phá sản không còn hoạt động hoặc đã chuyển hình thức nấu tại chỗ sang thuê suất ăn sẵn, kết quả thu thập được toàn bộ 48 bếp ăn tập thể với 432 nhân viên chế biến: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu Đặc tính của BATT Bảng 1. Đặc tính của BATT (n=48) Đặc tính của BATT Tần số Tỉ lệ (%) Loại hình bếp Tự nấu 21 43,8 Hợp đồng nấu 27 56,2 Quy mô bếp Nhỏ (<200 suất/ngày) 13 27,1 Vừa (200-500 suất) 17 35,4 Lớn (> 500 suất) 18 37,5 Phần lớn các bếp có loại hình hợp đồng nấu (56,3%) và có quy mô lớn trên 500 suất ăn/ngày(37,5%). Đặc tính của nhân viên chế biến thức ăn Bảng 2. Đặc tính của nhân viên chế biến thức ăn (n=432) Đặc tính của nhân viên chế biến Tần số Tỉ lệ (%) Nhóm tuổi < 40 tuổi 257 59,5 ≥ 40 tuổi 175 40,5 Giới Nam 182 42,1 Nữ 250 57,9 Trình độ học vấn ≤ Cấp 1 161 37,3 Cấp 2 180 41,7 ≥ Cấp 3 91 21,1 Thời gian làm việc trong ngành < 1 năm 150 34,7 Từ 1- <3 năm 151 34,9 ≥ 3 năm 131 30,3 Tập huấn về VSATTP Đã từng 352 81,5 Chưa từng 80 18,5 Loại hình bếp Tự nấu 103 23,8 Hợp đồng nấu 329 76,2 Quy mô bếp Nhỏ 40 9,3 Vừa 87 20,1 Lớn 305 70,6 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 335 Nhân viên chế biến dưới 40 tuổi chiếm phần lớn 59,5%. Nữ đông hơn nam (57,9%). Đa số nhân viên có trình độ học vấn cấp 2 và dưới cấp 1 chiếm 41,7%, 37,3%. Nhân viên có thời gian làm việc ≥3 năm chiếm tỉ lệ thấp nhất 30,3%. Có 18,5% người chưa từng tham gia khóa tập huấn nào về VSATTP. Đa số nhân viên làm việc ở bếp hợp đồng nấu 76,2% và bếp có quy mô lớn 70,6%. Các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm tại các BATT Bảng 3. Tình hình đảm bảo các điều kiện về VSATTP của các BATT (n=48) Các điều kiện về VSATTP Đạt n (%) Vệ sinh cơ sở Bếp ăn được thiết kế theo nguyên tắc 1 chiều 25 (52,1) Cống rãnh trong khu vực chế biến kín và không ứ đọng nước 20 (41,7) Có phòng thay đồ cho nhân viên 34 (70,8) Thùng chứa rác có nắp đậy kín 30 (62,5) Tối thiểu 25 người chế biến phải có 1 nhà vệ sinh 44 (91,7) Nhà vệ sinh có xà bông rửa tay 11 (22,9) Có giấy xét nghiệm nước đảm bảo vệ sinh 42 (87,5) Vệ sinh cơ sở 5 (10,4) Trang thiết bị, dụng cụ Có dao thớt dùng riêng cho thực phẩm sống và chín 43 (89,6) Có kệ cao để đựng thức ăn chín (cách mặt đất ≤60 cm) 45 (93,8) Mặt bàn chế biến không thấm nước, dễ lau chùi 47 (97,9) Các chất tẩy rửa có nhãn nhận biết 40 (83,3) Trang thiết bị, dụng cụ của bếp 34 (70,8) Kiểm soát thực phẩm đầu vào Thực phẩm nguyên liệu có nguồn gốc rõ ràng 40 (83,3) Có sổ ghi chép nguồn gốc xuất xứ thực phẩm đầu vào 39 (81,3) Việc kiểm soát thực phẩm đầu vào 37 (77,1) Lưu mẫu và thực đơn Có lưu mẫu thức ăn đã nấu chín trong 24 giờ 39 (81,3) Có sổ ghi chép mẫu lưu 38 (79,2) Có sổ ghi chép thực đơn hàng ngày 41 (85,4) Việc lưu mẫu và thực đơn hàng ngày 37 (77,1) BATT đạt các điều kiện về VSATTP 5 (10,4) Qua khảo sát 48 bếp ăn tập thể chỉ có 5 bếp (10,4%) đạt tất cả các điều kiện chung về VSATTP. Trong đó, điều kiện về kiểm soát thực phẩm đầu vào, lưu mẫu và ghi chép thực đơn hàng ngày đạt tỉ lệ cao nhất (77,1%). Điều kiện về vệ sinh cơ sở đạt tỉ lệ thấp nhất (10,4%), trong đó chỉ có 22,9% nhà vệ sinh có xà bông rửa tay. Kiến thức và thực hành của nhân viên chế biến Bảng 4. Kiến thức VSATTP của nhân viên chế biến (n=432) Nội dung Đúng n (%) Bếp ăn được thiết kế theo nguyên tắc 1 chiều là để tránh nhiễm chéo giữa thực phẩm sống và chín hoặc để tránh gây ra ngộ độc thực phẩm 195 (45,1) Sử dụng dụng cụ chế biến riêng cho thực phẩm sống và chín 392 (90,7) Rửa rau phải ngâm kỹ (ít nhất 10 phút) và rửa ít nhất qua 3 lần nước sạch hoặc rửa trực tiếp dưới vòi nước chảy 347 (80,3) Không được vận chuyển thực phẩm ngược chiều chế biến 348 (80,6) Thức ăn đã nấu chín sau 2 giờ thì phải đun nấu lại trước khi ăn 329 (76,2) Cần bảo quản thực phẩm sống và chín riêng biệt 417 (96,5) Thực phẩm đã rã đông nếu bảo quản lại sẽ không an toàn 289 (67,1) Cần phải bảo quản thức ăn đã qua chế biến ở nhiệt độ 60°C 240 (55,6) Cần phải rửa tay trước khi chế biến thức ăn 372 (86,1) Cần phải đeo bao tay khi chế biến thực phẩm 413 (95,6) Cần phải thay bao tay khi chuyển giữa các khâu làm việc 418 (96,8) Khi có vết thương ở bàn tay cần phải băng kín vết thương và đeo bao tay trước khi tiếp xúc với thực phẩm 242 (56,0) Kiến thức về ngộ độc thực phẩm nguy hiểm và có thể gây chết người 404 (93,5) Kiến thức chung đúng của nhân viên 46 (9,3) Qua khảo sát kiến thức của 432 nhân viên chế biến, chỉ có 46 nhân viên (9,3%) có kiến thức chung đúng về VSATTP trong tất cả các nội dung được hỏi. Trong đó, kiến thức về thay ... hơn.Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Bảng 7. Mối liên quan giữa lưu mẫu thức ăn và ghi chép thực đơn hàng ngày với loại hình và quy mô bếp (n=48) Đặc tính Việc lưu mẫu và ghi thực đơn hàng ngày p PR (KTC 95%) Đạt (%) Không đạt (%) Loại hình bếp Tự nấu 13 (61,9) 8 (38,1) 0,04* 1,4 (1,1-2,0) Hợp đồng nấu 24 (88,9) 3 (11,1) Quy mô bếp Nhỏ 6 (46,2) 7 (53,8) 0,00** 1,4 (1,2-1,8) Vừa 13 (76,5) 4 (23,5) Lớn 18 (100) 0 (0,0) *: Kiểm định Fisher ** Chi bình phương khuynh hướng <0,05 Những bếp hợp đồng nấu hoặc những bếp có quy mô càng lớn có tỉ lệ đạt về lưu mẫu thức ăn và ghi chép thực đơn hàng ngày cao hơn những bếp tự tổ chức nấu hoặc những bếp có Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 337 quy mô nhỏ hơn. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mối liên quan giữa kiến thức chung với đặc tính của mẫu Bảng 8. Mối liên quan giữa kiến thức chung với đặc tính của mẫu (n=432) Đặc tính Kiến thức chung p PR Đúng(%) Sai (%) (KTC 95%) Nhóm tuổi < 40 tuổi 29 (11,3) 228 (88,7) 0,08 ≥ 40 tuổi 11 (6,3) 164 (93,7) 0,6 (0,2-1,1) Giới Nữ 28 (11,2) 222 (88,8) 0,10 Nam 12 (6,6) 170 (93,4) 0,6 (0,3-1,1) Trình độ học vấn ≤ Cấp 1 13 (8,1) 148 (91,9) 1 Cấp 2 15 (8,3) 165 (91,7) 0,09 1,1 (0,5-2,1) ≥ Cấp 3 12 (13,2) 79 (86,8) 1,30 1,6 (0,8-3,4) Thời gian làm việc trong ngành < 1 năm 11 (7,3) 139 (92,7) 1 Từ 1- < 3 năm 14 (9,3) 137 (90,7) 0,54 1,3 (0,6-2,7) ≥ 3 năm 15 (11,5) 116 (88,5) 0,24 1,6 (0,7-3,3) Tập huấn về VSATTP Đã từng 39 (11,1) 313 (88,9) 0,00 8,9 (1,2- 63,6) Chưa từng 1 (1,3) 79 (98,7) Loại hình bếp Tự nấu 3 (2,9) 100 (97,1) 0,01 Hợp đồng nấu 37 (11,3) 292 (88,7) 3,9 (1,2- 12,3) Quy mô bếp Nhỏ 1 (2,5) 39 (97,5) 1 Vừa 2(2,3) 85 (97,7) 0,90 0,9 (0,2-3,5) Lớn 37 (12,1) 268 (87,9) 0,73 1,2 (0,4-3,9) Không có mối liên quan giữa nhóm tuổi, giới tính, trình độ học vấn, thời gian làm việc trong ngành và quy mô của bếp với kiến thức chung đúng của nhân viên (p>0,05). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tập huấn kiến thức về VSATTP với kiến thức chung của nhân viên, với p=0,00, PR=8,9; KTC95% (1,2‐63,6). Điều này có nghĩa là những người đã từng tham gia tập huấn về VSATTP có tỉ lệ kiến thức chung đúng cao hơn 8,9 lần so với những người chưa từng tham gia tập huấn. Giữa loại hình bếp với kiến thức chung của nhân viên có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p=0,01; PR=3,9; KTC 95% (1,2‐12,3). Theo đó, những bếp hợp đồng nấu có tỉ lệ nhân viên có kiến thức chung đúng cao gấp 3,9 lần nhân viên ở bếp tự tổ chức nấu. Mối liên quan giữa thực hành chung với các đặc tính mẫu: Bảng 9. Mối liên quan giữa thực hành chung với đặc tính của mẫu (n=432) Đặc tính Thực hành chung p PR Đúng (%) Sai (%) (KTC 95%) Nhóm tuổi < 40 tuổi 23 (8,9) 234 (91,1) 0,73 0,89 (0,47- 1,69) ≥ 40 tuổi 14 (8,0) 161 (92,0) Giới Nam 15 (8,2) 167 (91,8) 0,83 0,9 (0,5-1,8) Nữ 22 (8,8) 228 (91,2) Trình độ học vấn ≤ Cấp 1 18(11,2) 143 (88,8) 1 Cấp 2 13 (7,2) 167 (92,8) 0,21 0,7 (0,3-1,3) ≥ Cấp 3 6 (6,6) 85 (93,4) 0,24 0,6 (0,2-1,4) Thời gian làm việc trong ngành < 1 năm 15(10,0) 135 (90,0) 1 Từ 1- < 3 năm 10 (6,6) 141 (93,4) 0,29 0,7 (0,3-1,4) ≥ 3 năm 12 (9,2) 119 (90,8) 0,81 0,9 (0,4-1,9) Tập huấn VSATTP Đã từng 36(10,3) 316 (89,7) 0,01 8,2(1,2-58,9) Chưa từng 1 (1,3) 79 (98,7) Loại hình bếp Tự nấu 4 (3,8) 99 (96,2) 0,05 2 Hợp đồng nấu 33 (10) 296 (90) 2,6 (0,9-6,7) Quy mô bếp Nhỏ 3 (7,5) 37 (92,5) 1 Vừa 6 (6,9) 81 (93,1) 0,90 0,9 (0,2-3,5) Lớn 28 (9,2) 277 (90,8) 0,73 1,2 (0,4-3,9) Không có mối liên quan giữa nhóm tuổi, giới, trình độ học vấn, thời gian làm việc trong ngành, loại hình bếp và quy mô bếp với thực hành chung của nhân viên (p>0,05). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tập huấn kiến thức VSATTP với thực hành chung của nhân viên, với p=0,01; PR=8,2, KTC 95% (1,2‐ 58,9). Những nhân viên đã từng được tham gia tập huấn về VSATTP thì có tỉ lệ thực hành chung đúng cao gấp 8,2 lần so với những nhân viên chưa từng được tham gia tập huấn. BÀN LUẬN Tình hình đảm bảo các điều kiện về VSATTP của các BATT Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 10,4% các BATT trong KCN Việt Nam – Singapore đảm bảo các điều kiện chung về VSATTP. Kết quả này tương đương với nghiên cứu được Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 338 thực hiện tại Tp.HCM năm 2007(8). Trong những điệu kiện VSATTP mà các BATT chưa đảm bảo, có 47,9% BATT chưa đạt quy trình chế biến một chiều, kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu được thực hiện năm 2008 tại Đồng Nai (68%)(10). Thực tế khảo sát cho thấy phần lớn các bếp không được thiết kế một chiều ngay từ đầu mà được thiết kế lại dựa trên khu vực nhà cũ hoặc khu làm việc cũ, nơi tương đối chật hẹt, không đủ diện tích để phân chia giữa các khu chế biến, mặt khác lối đi vào và ra nhà bếp không đảm bảo 1 chiều. Bên cạnh đó, có đến 77% nhà vệ sinh không có xà bông rửa tay, 37,5% BATT có thùng rác không đậy kín nắp. Kết quả này cung cấp thêm thông tin cảnh báo cho các nhà quản lý trong công tác thanh kiểm tra, cũng như những người quản lý tại các BATT trong việc kiểm soát và ngăn ngừa nguy cơ nhiểm khuẩn lây truyền qua đường thực phẩm. Ngoài ra,vẫn còn 17,6% các BATT sử dụng các chất tẩy rửa không có nhãn nhận biết. Điều này có thể dẫn đến việc nhầm lẫn các chất tẩy rửa với các chất khác gây nên ngộ độc thực phẩm. Kiến thức về VSATTP của nhân viên chế biến Tỉ lệ nhân viên có kiến thức chung đúng về VSATTP quá thấp chỉ có 9,3%. Kết quả này thấp hơn so với một số nghiên cứu khác được thực hiện tại Đồng Nai (22%) và Bình Phước (27,4%)(6,10). Tuy tỉ lệ kiến thức chung giữa các nghiên cứu có khác nhau do các tiêu chí đánh giá không đồng nhất nhưng cũng đều cho thấy kiến thức của nhân viên làm công tác chế biến thực phẩm còn nhiều hạn chế. Những nội dung cơ bản mà phần lớn nhân viên có kiến thức sai là cách xử lý vết thương ở bàn tay trước khi tiếp xúc với thực phẩm (44%), nhiệt độ bảo quản thực phẩm đã nấu chín (44,4%), kết quả này tương đồng nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ(2). Bên cạnh đó, có đến 55% nhân viên không biết mục đích của việc thiết kế bếp theo nguyên tắc một chiều, kết quả này cao hơn so với nghiên cứu tại Bình Phước năm 2011 (21,8%)(6). Ngoài ra vẫn còn một số nội dung mà có hơn 20% nhân viên có kiến thức sai như rửa rau không đúng cách, di chuyển thực phẩm ngược chiều chế biến, bảo quản lại thực phẩm sau khi rã đông. Các kiến thức nêu trên đều là những kiến thức cơ bản về VSATTP, người chế biến cần phải có kiến thức đúng để có thể thực hành đúng, đảm bảo an toàn thực phẩm trong quá trình chế biến và bảo quản. Từ đây cho thấy các nhà quản lý, cũng như những người làm công tác truyền thông giáo dục, tập huấn kiến thức cho nhân viên chế biến là cần phải tập trung vào các nội dung mà nhiều nhân viên còn sai. Thực hành về VSATTP của nhân viên chế biến Tỉ lệ nhân viên có thực hành chung đúng khá thấp 8,6%. Kết quả này gần bằng với một số nghiên cứu khác tiến hành tại Tp.HCM (12,5%) và Đồng Nai (13%)(8,10). Những nội dung mà phần lớn nhân viên thực hiện sai như không mặc đồng phục đúng quy định, không thay bao tay khi chuyển giữa các khâu làm việc, không rửa tay đúng cách, không rửa tay sau khi đụng tay vào các bộ phận của cơ thể, không đeo bao tay khi tiếp xúc với thực phẩm, sơ chế thực phẩm và để rổ rá đựng thực phẩm dưới nền nhà, di chuyển thực phẩm ngược chiều chế biến và không che chắn thực phẩm sau khi chế biến xong. Thông tin này cho thấy người quản lý bếp cần phải tăng cường giám sát và nhắc nhở nhân viên nhiều hơn trong việc đảm bảo vệ sinh cá nhân, vệ sinh trong quá trình chế biến thực phẩm. Đối với việc rửa tay của nhân viên, cần phải có hướng dẫn 6 bước rửa tay đúng cách, có hình ảnh minh họa, dán ở vị trí dễ nhìn thấy, gần bồn rửa tay để hướng dẫn và nhắc nhở nhân viên tự giác thực hiện. Mối liên quan giữa các điều kiện VSATTP với loại hình và quy mô bếp Những bếp hợp đồng nấu có tỉ lệ kiểm soát thực phẩm đầu vào, lưu mẫu thức ăn và ghi chép thực đơn hàng ngày đạt cao hơn so với Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 339 bếp tự nấu 1,4 lần (bảng 6, 7). Kết quả này là phù hợp với thực tế vì những bếp hợp đồng nấu nếu không kiểm soát tốt thực phẩm đầu vào và lưu mẫu thức ăn tốt thì khi xảy ra ngộ độc thực phẩm, họ sẽ không được tiếp tục hợp đồng nấu nữa. Những bếp có quy mô lớn trên 500 suất ăn/ ngày có tỉ lệ đạt về kiểm soát thực phẩm đầu vào cao hơn 1,3 lần so với bếp có quy mô từ 200‐500 suất ăn, cao hơn 1,7 lần so với bếp có quy mô <200 suất ăn. Bên cạnh đó những bếp có quy mô lớn cũng có tỉ lệ đạt về việc lưu mẫu thức ăn và ghi chép thực đơn hàng ngày cao hơn 1,4 lần so với bếp có quy mô vừa và cao hơn 2 lần so với bếp có quy mô nhỏ (bảng 6,7). Có thể là do những bếp có quy mô càng lớn sẽ cung cấp suất ăn càng nhiều, nếu không kiểm soát thực phẩm đầu vào tốt, cũng như không lưu mẫu thức ăn hoặc không ghi chép thực đơn hàng ngày thì nguy cơ xảy ra ngộ độc thực phẩm với số người mắc sẽ càng cao, lúc đó họ khó có thể gánh vác được trách nhiệm của mình. Mối liên quan giữa kiến thức với các đặc tính của mẫu nghiên cứu Những người đã từng tham gia tập huấn có tỉ lệ kiến thức chung đúng cao gấp 8,9 lần so với những người chưa từng tham gia tập huấn. Kết quảnày tương đồng với nghiên cứu thực hiện tại Đồng Nai(10). Bên cạnh đó, những người đã từng tham gia tập huấn kiến thức VSATTP cũng có thực hành chung đúng cao hơn người chưa từng được tham gia tập huấn gấp 8,2 lần. Đồng nhất với các kết quả của nghiên cứu thực hiện tại Đồng Nai, năm 2008(10) và hai nghiên cứu khác tại Tp.HCM năm 2009 và năm 2010(7, 5). Từ đây cho thấy việc tập huấn kiến thức VSATTP cho nhân viên chế biến theo quy định ít nhất 1 năm 1 lần là rất cần thiết. Ngoài ra, những nhân viên chế biến làm việc ở bếp hợp đồng nấu có tỉ lệ kiến thức đúng cao hơn 3,9 lần so với nhân viên làm việc ở bếp tự nấu. Có thể do những bếp hợp đồng nấu là bếp chuyên tổ chức nấu ăn nên người quản lý có kinh nghiệm hơn trong việc tuyển chọn cũng như đào tạo, tập huấn kiến thức VSATTP cho nhân viên chế biến. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Tỉ lệ BATT đạt các điều kiện VSATTP rất thấp (10,4%), do đó các cơ quan quản lý cần đẩy mạnh hơn công tác thanh, kiểm tra tại các BATT trong KCN Việt Nam‐Singapore I, II, tỉnh Bình Dương, đặc biệt là đối với những bếp có loại hình tự nấu hoặc bếp có quy mô nhỏ (dưới 500 suất ăn/ngày). Trong đó, chú trọng kiểm tra đến các điều kiện vệ sinh mà phần lớn các BATT chưa đảm bảo như cống rãnh trong khu vực chế biến, thiết kế bếp ăn theo nguyên tắc 1 chiều, vệ sinh thùng rác. Đặc biệc là trong nhà vệ sinh yêu cầu phải có xà bông rửa tay. Tỉ lệ nhân viên có kiến thức chung đúng chỉ có 9,3%, do đó những người làm công tác truyền thông, tập huấn kiến thức VSATTP, cũng như các quản lý BATT cần phải tăng cường việc tập huấn kiến thức VSATTP cho nhân viên, đặc biệt là đối với nhân viên làm việc ở những bếp tự tổ chức nấu. Nội dung tập huấn cần phải cụ thể hơn, tập trung vào những kiến thức mà khá nhiều nhân viên còn sai như xử lý vết thương ở bàn tay trước khi tiếp xúc với thực phẩm, nhiệt độ bảo quản thực phẩm, lợi ích của việc thiết kế bếp một chiều, thực phẩm đã rã đông không nên bảo quản lại, thức ăn đã nấu chín sau 2 giờ phải đun nấu lại trước khi ăn. Tỉ lệ nhân viên có thực hành chung đúng cũng chiếm tỉ lệ rất thấp (8,6%). Vì vậy các quản lý bếp cần phải chú trọng hơn đến việc giám sát và nhắc nhở nhân viên trong quá trình chế biến và bảo quản, đặc biệt tập trung nhiều đến các thực hành mà đa số nhân viên còn sai như mặc đồng phục, rửa tay đúng cách, rửa tay khi đụng vào các bộ phận của cơ thể và thay bao tay khi chuyển giữa các khâu làm việc. Về việc nhắc nhở rửa tay, cần có hướng dẫn 6 bước rửa tay đúng cách, có kèm theo hình ảnh, dán trước bồn rửa tay, nơi dễ nhìn thấy để nhắc nhở nhân viên tự giác thực hiện. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 340 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2008). Niên giám thống kê y tế năm 2008. NXB Thống Kê. Hà Nội. Tr. 162. 2. Burcu Tokuça, B, Galip Ekuklua G, Berberoğlua U, et al (2009) Knowledge. attitudes and self‐reported practices of food service staff regarding food hygiene in Edirne. Turkey. Food Control. 20. 565‐568. 3. Chi Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm tỉnh Bình Dương (2012) Báo cáo công tác đảm bảo an toàn thực phẩm năm 2012. Bình Dương. Tr. 1‐6. 4. Cục An toàn vệ sinh thực phẩm ‐ Bộ Y tế. Số liệu vụ ngộ độc. ‐lieu‐attp‐8/ngo‐doc‐thuc‐ pham‐23.vfa. Truy cập ngày 29/5/2012. 5. Đỗ Thị Thu Trang (2009) Kiến thức. thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm của người chế biến thức ăn tại bếp ăn tập thể trường học huyện Hóc Môn. Luận văn tốt nghiệp. Đại học Y Dược Tp.HCM. Tr. 30‐57. 6. Ngô Đằng (2011) Kiến thức. thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nhân viên chế biến thực phẩm tại bếp ăn tập thể thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước năm 2011. Luận văn chuyên khoa I. Đại Học Y Dược Tp.HCM. Tr. 30‐68. 7. Nguyễn Thanh Khê (2010) Kiến thức và thực hành về các điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của người chế biến thực phẩm tại các bếp ăn tập thể trường mầm non quận 6 thành phố Hồ Chí Minh năm 2010. Luận văn tốt nghiệp chuyên khoa cấp I. Đại học Y Dược Tp.HCM. Tr. 38‐60. 8. Nguyễn Thị Huỳnh Mai (2007) Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm ở bếp ăn tập thể công ty. xí nghiệp tại Tp.HCM năm 2007. Luận văn Thạc sĩ y học. Đại học Y Dược Tp.HCM. tr. 31‐73. 9. Trần Đáng (2007) An toàn thực phẩm. NXB Y học.Hà Nội. Tr. 67‐ 89. 10. Trần Minh Hòa (2008) An toàn vệ sinh thực phẩm tại các cơ sở sản xuất cung cấp suất ăn công nhiệp tỉnh Đồng Nai. năm 2008. Luận văn Thạc sĩ y học. Đai học Y Dược Tp.HCM. Tr. 34‐55. Ngày nhận bài báo: 19/5/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 12/6/2014 Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
File đính kèm:
- an_toan_ve_sinh_thuc_pham_tai_cac_bep_an_tap_the_khu_cong_ng.pdf