Cẩm nang an toàn sức khỏe

Viêm mí mắt

Là tình trạng viêm mạn tính của bờ mi, thường do vi trùng gây ra. Biểu hiện của viêm mí

mắt: chắp, lẹo, đỏ mắt tái đi tái lại, khô mắt thứ phát, kích thích mắt mạn tính.

Viêm mí mắt có thể gây những biến chứng: nhiễm trùng giác mạc, lông mi mọc lệch (lông

xiêu), quặm (cụp mí) do sẹo (sẹo ở bờ mí mắt làm cho mí mắt xoay vào trong). Có thể điều trị

viêm mí mắt bằng cách lau mắt hằng ngày, bôi thuốc mỡ kháng sinh tại chỗ.

Phương pháp lau chùi mắt: Đắp gạc nóng trên mí mắt trong 5 phút; chùi bờ mí bằng tampon

hoặc một khăn mềm nhúng vào xà phòng nhẹ (như xà phòng trẻ em của Johnson).

Lặp lại đắp gạc nóng: Trong trường hợp viêm bờ mí nặng, có thể cần phải chùi mí mắt 3

lần/ngày.

Màng và mộng thịt ở mắt

Màng che ở mắt (từ dân gian thường dùng) thực chất là sẹo của giác mạc - phần tương ứng

với lòng đen. Bình thường, giác mạc phải trong suốt thì mắt mới nhìn thấy rõ.

Giác mạc trong suốt nhờ được cấu tạo bởi các tế báo đặc biệt. Khi giác mạc bị viêm loét phá

hỏng tạo thành sẹo, các tế bào trong suốt được các tế bào sợi (không trong suốt) thay thế. Sẹo

đục giác mạc to hay nhỏ, dày hay mỏng là do viêm loét nhiều hay ít. Thị lực của mắt sụt nhiều

hay ít là tùy thuộc sẹo đục dày hay mỏng, nằm ở trung tâm hay vòng ngoài của giác mạc.

Nếu sẹo dày ở trung tâm là thị lực sụt nhiều, cách điều trị duy nhất là ghép giác mạc. Các bác

sĩ sẽ lấy giác mạc của người chết thay vào chỗ sẹo đục. Hiện ở nước ta, việc ghép giác mạc

chưa được phát triển lắm

pdf 82 trang dienloan 6500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Cẩm nang an toàn sức khỏe", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cẩm nang an toàn sức khỏe

Cẩm nang an toàn sức khỏe
Cẩm	Nang	An	Toàn	Sức	Khỏe
Nhiều	tác	giả
Chia	sẽ	ebook	:	
Tham	gia	cộng	đồng	chia	sẽ	sách	:	Fanpage	:	https://www.facebook.com/downloadsachfree
Cộng	đồng	Google	:
Table	of	Contents
Chương	1:	Các	bệnh	mắt
Viêm	mí	mắt
Các	bệnh	chảy	nước	mắt
Bệnh	tăng	nhãn	áp
Bệnh	cườm	mắt	(đục	thủy	tinh	thể)
Khi	nào	nên	mổ	mắt?
Đục	thủy	tinh	thể	và	glaucoma
Tăng	nhãn	áp	cấp
Điều	trị	mắt	cận	thị
Điều	chỉnh	lé
Lưu	ý	khi	mang	kính	sát	tròng
Chương	2:	Bệnh	tai	mũi	họng
Điếc	và	giảm	thính	lực
Các	loại	điếc	và	giảm	thính	lực
Lão	thính	là	gì?
Làm	gì	để	có	sức	nghe	tốt?
Điếc	ảnh	hưởng	thế	nào	đến	gia	đình?
Thủng	màng	nhĩ
Viêm	tai	giữa	cấp	trẻ	em
Cấy	ốc	tai	chữa	điếc
Đoán	bệnh	qua	nước	mũi
Chảy	máu	mũi
Viêm	mũi	dị	ứng
Amiđan
Lúc	nào	cần	cắt	amiđan?
Bệnh	cường	giáp
Chương	3:	Bệnh	răng	miệng
Những	thói	quen	làm	trẻ	dễ	bị	hỏng	răng
Làm	sạch	răng
Fluor	-	lợi	và	hại
Bệnh	sâu	răng
Áp	xe	răng
Viêm	nướu	do	cao	răng
Bệnh	nha	chu
Chương	4:	Bệnh	da	và	tóc
Bệnh	ghẻ
Bệnh	giời	leo	(Zona)
Chàm	thể	tạng
Chàm	tiếp	xúc
Sạm	da
Ung	thư	da
Phòng	tránh	và	chữa	trị	rụng	tóc
Rụng	tóc	do	androgen
Cẩn	thận	với	thuốc	nhuộm	tóc
Chương	5:	Các	bệnh	xương	khớp
Thoái	hoá	khớp
Viêm	khớp	dạng	thấp
Thấp	khớp	cấp	tính	(Bệnh	thấp	tim)
Chứng	đau	lưng
Đau	thắt	lưng
Vẹo	cột	sống
Gai	cột	sống
Viêm	cột	sống	dính	khớp
Thoát	vị	đĩa	đệm	cột	sống
Thế	nào	là	thoát	vị	đĩa	đệm?
Vì	sao	thoát	vị	đĩa	đệm?
Chương	6:	Các	bệnh	của	hệ	tuần	hoàn
Đau	tim
Tim	đập	nhanh	-	khó	thở
Rối	loạn	nhịp	tim
Rối	loạn	nhịp	tim	sẽ	gây	ra	hậu	quả	gì?
Xử	lý	khi	bị	rối	loạn	nhịp	tim
Rối	loạn	thần	kinh	tim
Ngất	và	khả	năng	điều	trị	chứng	ngất	tim
Thiếu	máu
Thiếu	máu	do	thiếu	sắt
Ổ	loét	da	do	máu	kém	lưu	thông
Bệnh	suy	giãn	tĩnh	mạch	mạn	tính
Nhiễm	trùng	huyết
Mỡ	trong	máu
Bệnh	cao	huyết	áp
Tăng	huyết	áp	giả	tạo
Biến	chứng	của	bệnh	cao	huyết	áp
Cơn	đau	thắt	ngực	và	nhồi	máu	cơ	tim
Tai	biến	mạch	máu	não
Oxy	cao	áp	với	bệnh	thiếu	máu	cơ	tim	và	thiểu	năng	tuần	hoàn	não
Phương	pháp	rèn	luyện	sau	tai	biến	xuất	huyết	não
Bệnh	huyết	áp	thấp
Huyết	áp	thấp	và	tai	biến	mạch	máu	não
Rượu	và	bệnh	tim
Chương	7:	Bệnh	gan
Gan	nhiễm	mỡ
Nguy	cơ	nhiễm	viêm	gan	siêu	vi	B	và	C
Những	điều	cần	biết	về	bệnh	viêm	gan	siêu	vi	B
Bệnh	xơ	gan
Bệnh	sán	lá	gan
Chương	8:	Lao	và	các	bệnh	hệ	hô	hấp
Giãn	phế	quản
Hen	phế	quản
Bệnh	suyễn	(hen)
Bệnh	phổi	đa	nang
Bệnh	viêm	phổi	"Legionnaires"
Lao	-	Những	điều	cần	biết
Bệnh	lao	kháng	thuốc
Lao	ngoài	phổi
Tác	hại	của	thuốc	lá
Làm	thế	nào	để	bỏ	thuốc	lá
Ung	thư	phổi
Chương	9:	Các	bệnh	đường	tiết	niệu
Nhiễm	trùng	đường	tiểu
Bệnh	tiểu	ra	máu
Đau	thận
Sỏi	đường	niệu
Dinh	dưỡng	cho	người	bị	sỏi	thận
Suy	thận	và	ghép	thận
Bệnh	tiểu	đường
Theo	dõi	đường	huyết	tại	nhà
Các	biến	chứng	lâu	dài	của	bệnh	tiểu	đường
Bệnh	võng	mạc	tiểu	đường
Chương	10:	Các	bệnh	đường	tiêu	hoá
Bệnh	dịch	tả
Bệnh	lỵ	trực	trùng
Chứng	khó	tiêu,	đầy	bụng
Táo	bón
Trị	táo	bón	bằng	biện	pháp	không	dùng	thuốc
Viêm	đại	tràng	mạn
Chứng	nóng	thượng	vị
Đau	dạ	dày
Bệnh	khớp	kéo	theo	bệnh	dạ	dày
Chảy	máu	đường	tiêu	hoá
Tác	hại	của	giun	móc
Bệnh	giun	đầu	gai
Bệnh	trĩ
Chương	11:	Các	loại	sốt	thông	thường
Phân	biệt	các	loại	sốt
Bệnh	sốt	xuất	huyết
Sốt	xuất	huyết	ở	người	lớn
Chương	12:	Phòng	và	trị	bệnh	ung	thư
Những	đối	tượng	có	nguy	cơ	mắc	bệnh	ung	thư
Ung	thư	khoang	miệng
Ung	thư	đại	trực	tràng
Xơ	nang	vú	có	phải	ung	thư?
Đối	tượng	có	nguy	cơ	mắc	bệnh	ung	thư	vú
Tự	kiểm	tra	để	phát	hiện	sớm	ung	thư	vú
U	xơ	tử	cung
 Nhiều	tác	giả
LTS:	"Cẩm	nang	an	toàn	sức	khỏe	là	tập	hợp	hàng	trăm	bài	báo	chọn	lọc	từ	chuyên	mục	'An
toàn	sức	khỏe'	Báo	Sài	Gòn	giải	phóng.	Nó	mang	đến	cho	bạn	kiến	thức	tổng	thể	trong	việc	giữ
gìn	sức	khỏe	và	phòng	chữa	bệnh.	Sách	do	Nhà	xuất	bản	Phụ	nữ	ấn	hành".
Chương	1:	Các	bệnh	mắt
Viêm	mí	mắt
Là	tình	trạng	viêm	mạn	tính	của	bờ	mi,	thường	do	vi	trùng	gây	ra.	Biểu	hiện	của	viêm	mí
mắt:	chắp,	lẹo,	đỏ	mắt	tái	đi	tái	lại,	khô	mắt	thứ	phát,	kích	thích	mắt	mạn	tính.
Viêm	mí	mắt	có	thể	gây	những	biến	chứng:	nhiễm	trùng	giác	mạc,	lông	mi	mọc	lệch	(lông
xiêu),	quặm	(cụp	mí)	do	sẹo	(sẹo	ở	bờ	mí	mắt	làm	cho	mí	mắt	xoay	vào	trong).	Có	thể	điều	trị
viêm	mí	mắt	bằng	cách	lau	mắt	hằng	ngày,	bôi	thuốc	mỡ	kháng	sinh	tại	chỗ.
Phương	pháp	lau	chùi	mắt:	Đắp	gạc	nóng	trên	mí	mắt	trong	5	phút;	chùi	bờ	mí	bằng	tampon
hoặc	một	khăn	mềm	nhúng	vào	xà	phòng	nhẹ	(như	xà	phòng	trẻ	em	của	Johnson).
Lặp	 lại	đắp	gạc	nóng:	Trong	trường	hợp	viêm	bờ	mí	nặng,	có	thể	cần	phải	chùi	mí	mắt	3
lần/ngày.
Màng	và	mộng	thịt	ở	mắt
Màng	che	ở	mắt	(từ	dân	gian	thường	dùng)	thực	chất	là	sẹo	của	giác	mạc	-	phần	tương	ứng
với	lòng	đen.	Bình	thường,	giác	mạc	phải	trong	suốt	thì	mắt	mới	nhìn	thấy	rõ.
Giác	mạc	trong	suốt	nhờ	được	cấu	tạo	bởi	các	tế	báo	đặc	biệt.	Khi	giác	mạc	bị	viêm	loét	phá
hỏng	tạo	thành	sẹo,	các	tế	bào	trong	suốt	được	các	tế	bào	sợi	(không	trong	suốt)	thay	thế.	Sẹo
đục	giác	mạc	to	hay	nhỏ,	dày	hay	mỏng	là	do	viêm	loét	nhiều	hay	ít.	Thị	lực	của	mắt	sụt	nhiều
hay	ít	là	tùy	thuộc	sẹo	đục	dày	hay	mỏng,	nằm	ở	trung	tâm	hay	vòng	ngoài	của	giác	mạc.
Nếu	sẹo	dày	ở	trung	tâm	là	thị	lực	sụt	nhiều,	cách	điều	trị	duy	nhất	là	ghép	giác	mạc.	Các	bác
sĩ	sẽ	 lấy	giác	mạc	của	người	chết	thay	vào	chỗ	sẹo	đục.	Hiện	ở	nước	ta,	việc	ghép	giác	mạc
chưa	được	phát	triển	lắm.
Để	phòng	ngừa	sẹo	đục	giác	mạc,	cần	phòng	ngừa	bệnh	viêm	loét	giác	mạc.	Bệnh	này	do	vi
khuẩn,	vi	nấm	gây	ra,	 chúng	xâm	nhập	sau	các	chấn	 thương	hoặc	do	các	virus.	Khi	bị	 chấn
thương	mắt	hoặc	bị	viêm	loét	giác	mạc,	nên	đến	các	cơ	sở	chuyên	khoa	mắt	để	điều	trị,	không
nên	 tự	 ý	 mua	 thuốc	 nhỏ.	 Nếu	 dùng	 thuốc	 có	 chứa	 chất	 corticoid	 như	 Dexacol,	 Neodex,
Polydexan,	Cebedexacol,	Spersadex,	Maxitrol,	Polydexa,	bệnh	sẽ	nặng	hơn.
Sẹo	giác	mạc	nằm	ở	lòng	đen,	còn	mộng	thịt	là	một	tổ	chức	xơ	có	mạch	máu	bò	lên	giác	mạc
từ	lòng	trắng.	Mộng	thịt	dễ	điều	trị	hơn	sẹo	đục	nhưng	sau	khi	cắt	bỏ,	mộng	thịt	rất	hay	tái
phát	dày	hơn,	to	hơn.	Chỉ	nên	cắt	bỏ	mộng	thịt	khi	nào	nó	xâm	lấn	nhiều	vào	trung	tâm	giác
mạc.	Bệnh	nhân	lớn	tuổi	thì	tỷ	lệ	tái	phát	thấp.
BS	Nguyễn	Hữu	Châu	(Giám	đốc	Trung	tâm	Mắt	TP	HCM)
Các	bệnh	chảy	nước	mắt
Nước	mắt	được	sản	xuất	đều	đặn	bởi	tuyến	lệ	nằm	ở	dưới	mí	mắt	trên.	Nước	mắt	là	yếu	tố
cần	thiết	bởi	vì	chúng	hình	thành	nên	một	lớp	phim	mỏng	bao	phủ	mặt	trước	của	mắt,	nhanh
chóng	được	dẫn	lưu	khỏi	mắt	qua	một	hệ	thống	ống	phức	tạp	dẫn	từ	góc	trong	của	các	mí	mắt
vào	trong	mũi.	Hệ	thống	ống	này	được	gọi	là	lệ	đạo.
Bất	cứ	xúc	cảm	mạnh	hoặc	sự	kích	thích	mắt	nào	cũng	có	thể	gây	sản	xuất	nước	mắt	quá
mức.	Sự	 tắc	nghẽn	của	hệ	 thống	 lệ	đạo	 là	một	nguyên	nhân	quan	 trọng	gây	chảy	nước	mắt
nhiều.	Điều	này	thường	có	xu	hướng	xảy	ra	ở	người	lớn	tuổi	và	nguyên	nhân	tắc	nghẽn	thường
được	xác	định	là	do	những	thay	đổi	của	ống	lệ	mũi.
Những	 trường	hợp	nặng,	 chảy	nước	mắt	 có	 thể	 thành	dòng	xuống	gò	má.	Nếu	 tắc	nghẽn
không	được	giải	quyết,	sự	ứ	đọng	nước	mắt	trong	các	ống	dẫn	lệ	có	thể	dẫn	đến	nhiễm	trùng
nghiêm	trọng	với	chảy	dịch	mủ	nhầy.
Nếu	bạn	bị	nhiễm	trùng	cấp	ở	hệ	thống	lệ	đạo,	có	thể	điều	trị	bằng	kháng	sinh.	Bước	tiếp
theo	là	xác	định	mức	độ	và	vị	trí	của	tắc	nghẽn.	Có	thể	đến	bệnh	viện	chuyên	khoa	để	bơm	các
ống	lệ	bằng	nước	muối.	làm	giảm	triệu	chứng	thoáng	qua	(thường	tái	phát	sau	đó).	Phẫu	thuật
là	biện	pháp	rất	cần	thiết	để	điều	trị	sự	tắc	nghẽn	nghiêm	trọng	của	các	ống	dẫn	lệ,	hoặc	ở
những	người	bị	nhiễm	trùng	tái	phát	hệ	thống	lệ	đạo.
Ngoài	ra,	bạn	cũng	cần	chú	ý	đến	chảy	nước	mắt	ở	trẻ	sơ	sinh.	Trẻ	sơ	sinh	có	thể	có	một	mắt
"ướt",	thường	vào	lúc	một	đến	hai	tuần	tuổi.	Thỉnh	thoảng	có	thể	chảy	dịch	nhầy	mủ.	Nguyên
nhân	là	có	một	màng	làm	nghẽn	hệ	thống	dẫn	lưu	của	nước	mắt	vào	mũi.	Sự	nghẽn	tắc	này
thường	tự	động	giải	phóng	trong	vòng	4	đến	6	tuần	sau	sinh.	Việc	xoa	nhẹ	góc	trong	của	mí
mắt	có	thể	thúc	đẩy	nhanh	chóng	việc	mở	tắc	nghẽn.	Nếu	nghẽn	tắc	còn	dai	dẳng	sau	khi	đã
xoa	góc	trong	và	bơm	rửa,	thông	lệ	đạo,	cần	làm	phẫu	thuật	để	giải	phóng	chỗ	nghẽn	tắc.
Bệnh	chảy	nước	mắt	có	thể	do	kích	thích	của	mắt	hoặc	bệnh	của	hệ	thống	dẫn	lưu.	Cần	đến
khám	ở	một	bác	sĩ	chuyên	khoa	mắt,	 tiến	hành	một	số	 thử	nghiệm	đơn	giản	để	chẩn	đoán
nguyên	nhân.
Bệnh	tăng	nhãn	áp
Tăng	nhãn	áp	là	một	bệnh	của	mắt,	nguyên	nhân	của	20%	ca	mù	ở	Việt	Nam.	Trong	bệnh
này,	áp	lực	của	các	chất	dịch	trong	mắt	gia	tăng	đến	mức	thần	kinh	thị	giác	bị	tổn	hại.	Áp	lực
tăng	 do	 có	 quá	 nhiều	 dịch	 được	 tạo	 ra	 hoặc	 do	 các	 ống	 dẫn	 trong	mắt	 bị	 tắc	 nghẽn	 (bình
thường,	dịch	dẫn	lưu	ra	ngoài	con	mắt	theo	đường	các	mạch	máu).	Bệnh	tăng	nhãn	áp	làm	tổn
hại	thị	lực,	khi	áp	lực	gia	tăng	có	thể	làm	co	hẹp	những	mạch	máu	nuôi	dưỡng	các	sợi	thần	kinh
nhạy	cảm	ở	phía	sau	mặt.
Có	4	loại	tăng	áp:
-	Tăng	áp	góc	mở	mạn	tính:	Chiếm	tỷ	lệ	lớn,	xảy	ra	phần	lớn	ở	người	già	nhưng	cũng	có	thể
xảy	ra	ở	lứa	tuổi	trung	niên.	Họ	hàng	của	những	người	bị	bệnh	tăng	nhãn	áp	có	nguy	cơ	bị	mắc
bệnh	cao	hơn	do	yếu	 tố	di	 truyền.	Bệnh	 tiến	 triển	chậm	chạp	và	 thường	không	được	chú	ý
trong	nhiều	tháng	hoặc	nhiều	năm.
-	Tăng	 áp	 góc	đóng	hay	 tăng	 áp	 cấp:	Đây	 là	 loại	 bệnh	 tăng	 áp	hay	 gặp	nhất	ở	Việt	Nam,
thường	xảy	ra	ở	lứa	tuổi	trung	niên	và	người	già,	đặc	biệt	là	phụ	nữ.	Nó	xảy	ra	một	cách	đột
ngột,	áp	lực	của	mắt	tăng	rõ	rệt.	Nếu	không	điều	trị	tức	thời,	mắt	sẽ	tổn	thương	suốt	đời	trong
một	thời	gian	rất	ngắn.
Không	giống	như	bệnh	tăng	áp	mạn	tính,	bệnh	tăng	áp	cấp	thường	có	những	triệu	chứng	rõ
rệt	như	đau	mắt	dữ	dội,	nhìn	mờ,	đỏ	mắt,	có	những	vòng	nhiều	màu	quanh	các	nguồn	sáng	và
nôn	mửa.
-	Tăng	áp	bẩm	sinh:	Loại	tăng	áp	này	hiếm,	xuất	hiện	ngay	lúc	trẻ	được	sinh	ra.	Sự	giãn	lớn
của	mắt	trẻ	sơ	sinh,	chảy	nước	mắt	và	sợ	ánh	sáng	một	cách	bất	thường	là	những	triệu	chứng
của	bệnh,	cần	đến	bác	sĩ	nhãn	khoa	khám.
-	Tăng	áp	thứ	phát:	Xuất	hiện	sau	viêm	mắt,	phẫu	thuật	mắt,	có	biến	chứng	chấn	thương	mắt
hoặc	đục	thủy	tinh	thể	quá	chín.
Bệnh	tăng	nhãn	áp	càng	được	chẩn	đoán	sớm	thì	cơ	hội	thành	công	trong	việc	ngăn	ngừa
mất	thị	lực	càng	lớn.	Mặc	dù	bệnh	tăng	áp	không	thể	chữa	khỏi	hoàn	toàn	nhưng	hầu	hết	các
trường	hợp	có	thể	kiểm	soát	được.	Việc	điều	trị	tùy	thuộc	vào	hình	thái	của	bệnh,	có	thể	dùng
thuốc	nhỏ,	thuốc	uống,	phẫu	thuật	hoặc	laser.
Thuốc	Spersacet	gồm	Sulfacetamind	Sodium	và	Chloramphénicol,	dùng	trị	viêm	mắt	trong
một	 thời	 gian	 ngắn	 khoảng	 10	 ngày.	 Không	 nên	 dùng	 quá	 lâu	 vì	 tác	 dụng	 phụ	 của
Chloramphénicol	có	thể	gây	biến	chứng,	chủ	yếu	là	gây	thiếu	máu,	thiếu	sắt	bất	sản	hay	các
loạn	sản	khác	về	máu.
Dùng	thuốc	mỡ	Tétracycline	6	tháng	liền	mà	không	hết	thì	không	cần	dùng	thêm	nữa.	Có	thể
thay	bằng	thuốc	mỡ	Erythromycin.	Nếu	còn	đau	mắt	hột,	có	thể	dùng	Doxycyline	100	mg	x	2
lần/ngày	trong	3	tuần	hoặc	nhỏ	thuốc	loại	Sulfamide	4	lần/ngày	trong	5	tuần.
Thuốc	mới	nhất	hiện	nay	là	Azithromycine,	tên	thương	mại	là	Zithromax,	dùng	điều	trị	đau
mắt	hột.	Hiện	nay,	cơ	quan	chống	mắt	hột	quốc	tế	cũng	dùng	thuốc	Azthromycine	để	điều	trị
mắt	hột	cho	các	quốc	gia	ở	châu	Phi.
Để	phòng	ngừa	và	chống	lây	lan	bệnh	mắt	hột,	cần	giữ	vệ	sinh	môi	trường,	rửa	mặt	bằng
nước	sạch	và	dùng	khăn	riêng.
Bệnh	cườm	mắt	(đục	thủy	tinh	thể)
Bệnh	đục	thủy	tinh	thể	được	dân	gian	gọi	là	cườm	khô,	khác	với	bệnh	tăng	nhãn	áp	được	gọi
là	cườm	nước.	Mắt	của	con	người	cũng	giống	như	một	máy	hình.	Máy	hình	gồm	hai	bộ	phận
chính	là	ống	kính	và	phim,	còn	có	mắt	ống	kính	là	thủy	tinh	thể,	phim	là	võng	mạc.	Ở	máy	hình,
khi	ống	kính	bị	mốc	hay	vỡ	thì	ảnh	mờ,	còn	ở	mắt	khi	thuỷ	tinh	thể	bị	đục	hay	vỡ	(do	chấn
thương)	thì	người	ta	nhìn	mờ.
Bệnh	cườm	đa	số	là	do	tuổi	già	(90%)	vì	chuyển	hoá	trong	cơ	thể	suy	yếu.	Còn	các	nguyên
nhân	khác	là	bị	bệnh	trong	cơ	thể	như	tiểu	đường,	viêm	nhiễm	ở	mắt,	bị	cườm	nước,	bị	chấn
thương	hoặc	các	bệnh	bẩm	sinh	gây	cườm	ở	trẻ	nhỏ.	Một	số	yếu	tố	khác	cũng	gây	cườm	như
thiếu	dinh	dưỡng,	do	ảnh	hưởng	của	các	tia	sáng	(như	tia	cực	tím...).
Người	bệnh	thấy	mắt	bị	mờ	dần,	không	đau,	không	nhức,	không	đỏ,	đi	thử	kính	không	thấy
kính	nào	nhìn	rõ	hơn.	Đến	lúc	mờ	nhiều	(không	còn	đọc	được	các	chữ	lớn	trong	sách	báo),	nhìn
vào	trong	mắt	thấy	đồng	tử	đổi	màu,	có	thể	màu	trắng	hoặc	đen	nâu.	Đi	khám	bệnh,	bác	sĩ
nhãn	khoa	có	thể	phát	hiện	ngay	từ	khi	mới	bắt	đầu	bị	cườm.
Không	có	thuốc	nào	nhỏ	vào	mắt	làm	tan	cườm	như	lời	đồn	đại.	Khi	đã	bị	cườm,	nhất	là	lúc
cườm	đã	chín	thì	cách	chữa	duy	nhất	là	mổ	để	lấy	cườm	rồi	đặt	thuỷ	tinh	thể	nhân	tạo	hoặc
cho	đeo	kính.
Khi	nào	nên	mổ	mắt?
Tùy	 theo	 từng	 người.	 Đối	 với	 người	 làm	 việc	 bằng	mắt	 nhiều	 như	 đọc	 sách,	 lái	 xe...,	 khi
không	nhìn	được	chữ	rõ	nữa	thì	nên	đi	mổ	sớm.	Còn	đối	với	những	người	không	phải	làm	việc
bằng	mắt	nhiều	thì	có	thể	để	muộn	hơn.	Tuy	nhiên,	không	bao	giờ	để	cườm	quá	chín	tức	mắt
quá	mờ	(không	thấy	được	bóng	bàn	tay	trước	mắt).	Cườm	quá	chín	sẽ	gây	biến	chứng	như
cườm	nước	cấp	tính	gây	đau	nhức,	nhức	đầu	dữ	dội,	có	thể	làm	tổn	thương	thần	kinh	thị	giác.
Lúc	đó,	phải	đi	mổ	gấp	mà	sau	mổ	chưa	chắc	đã	nhìn	thấy	được.	Ở	nước	ta	có	rất	nhiều	người
bị	cườm	không	chịu	đi	mổ	vì	sợ,	khi	đã	có	biến	chứng	thành	cườm	nước,	đau	nhức	quá,	đã	mù
mới	chịu	mổ,	lúcđó	có	mổ	cũng	không	cứu	vãn	nổi,	chỉ	giải	quyết	cho	khỏi	đau	nhức	mà	thôi.
Sau	khi	mổ	cườm,	muốn	nhìn	rõ,	phải	đeo	kính	hoặc	đặt	thuỷ	tinh	thể	nhân	tạo.	Có	3	loại
kính:
-	Kính	gọng:	Loại	kính	có	độ	hội	tụ	cao	khoảng	+	10	đến	+	12	điốp.
-	Kính	tiếp	xúc	(kính	sát	tròng).
-	Thuỷ	tinh	thể	nhân	tạo:	Là	một	thấu	kính	chỉ	nhỏ	bằng	hạt	bắp,	rất	nhỏ,	được	đặt	ngay	vào
trong	mắt	lúc	mổ.
Dùng	kính	nào	tốt	nhất?
Tùy	trường	hợp	và	điều	kiện	tài	chính	của	bệnh	nhân.	Tốt	nhất	là	đặt	thuỷ	tinh	thể	nhân	tạo
vì	nó	cho	hình	ảnh	trung	thực	nhất.	Hiện	nay,	ở	nước	ta,	việc	đặt	thuỷ	tinh	thể	nhân	tạo	đã	rất
thông	dụng.	Mới	đây	đã	có	thể	mổ	bằng	phương	pháp	Phaco,	không	cần	phải	khâu,	phục	hồi
nhanh.	Thường	thì	thuỷ	tinh	thể	nhân	tạo	không	gây	phản	ứng	gì	cho	người	bệnh.
Nếu	không	có	điều	kiện,	sau	khi	mổ	có	thể	đeo	kính	gọng,	nhưng	có	phiền	toái	là	hình	ảnh
lớn	hơn	bình	thường.	Lúc	đầu,	bệnh	nhân	nhìn	không	quen	sẽ	rất	khó	chịu,	nhận	định	khoảng
cách	không	đúng,	nhất	là	xuống	cầu	thang	dễ	bị	ngã,	đôi	khi	chóng	mặt.	Ai	cũng	phải	tập	luyện
đeo	kính	một	thời	gian	rồi	dần	dần	mới	quen,	có	người	phải	mất	6	tháng,	có	người	tập	hoài	mà
vẫn	không	quen	được.
Kính	áp	tròng	ít	ảnh	hưởng	hơn	kính	gọng,	vì	vậy	thoải	mái	hơn,	nhưng	chỉ	dùng	cho	người
trẻ	vì	cần	khéo	léo,	tay	không	run	và	mắt	kia	còn	nhìn	được	tốt.	Còn	đối	với	người	già	bị	cườm
cả	hai	mắt	thì	rất	khó	sử	dụng	vì	tay	họ	đã	run,	mắt	mờ,	thao	tác	không	chính	xác,	dễ	bị	rớt
kính.	Ngoài	ra,	kính	áp	tròng	có	thể	gây	dị	ứng,	không	phải	ai	cũng	thích	hợp	được.
Không	phải	mổ	cườm	bao	giờ	cũng	tốt	và	làm	cho	mắt	có	thể	thấy	rõ	ràng	được	ngay.	Lúc
mới	mổ	và	sau	khi	mổ	có	thể	có	biến	chứng	như	xuất	huyết,	viêm	bồ	đào,	cườm	nước	thứ	phát,
bong	võng	mạc,	viêm	nhiễm...	Nếu	đặt	thuỷ	tinh	thể	nhân	tạo	thì	một	thời	gian	cũng	dễ	bị	đục
bao	sau,	làm	mắt	mờ	trở	lại,	phải	dùng	laser	để	đốt.	Ngoài	ra,	mắt	sau	khi	đã	mổ	cườm	và	đeo
kính	nhìn	được	rõ	nhiều	hay	ít	còn	tùy	thuộc	vào	tình	trạng	võng	mạc	còn	tốt	hay	đã	bị ... .
Bệnh	có	nguy	hiểm	không?
Nếu	chỉ	xét	trên	tình	trạng	nhiễm	mỡ	của	gan	thì	hiếm	khi	nó	là	yếu	tố	đe	doạ	tính	mạng	vì	ít
khi	sự	nhiễm	mỡ	của	gan	làm	suy	giảm	chức	năng	gan	một	cách	trầm	trọng	và	cấp	tính.	Tuy
nhiên,	nếu	xét	trên	cách	nhìn	nhiễm	mỡ	ở	gan	là	một	phần	trong	tình	trạng	dư	thừa	chất	béo
trên	cơ	thể	thì	sự	dư	thừa	chất	béo	này	có	thể	dẫn	đến	những	bệnh	lý	khá	nguy	hiểm	như	cao
huyết	áp,	nhồi	máu	cơ	tim,	tai	biến	mạch	máu	não...
Một	nghiên	cứu	mới	đây	cho	biết	gan	nhiễm	mỡ	thường	đi	kèm	với	rối	loạn	lipid	(chất	mỡ)
và	rối	loạn	men	gan.	Các	men	này	thường	nằm	trong	tế	bào	gan	và	chỉ	phóng	thích	vào	máu	khi
tế	bào	gan	bị	vỡ	nên	người	ta	hay	làm	xét	nghiệm	các	men	gan	để	thăm	dò	tình	trạng	các	tế
bào	gan.
Cần	lưu	ý	rằng	không	phải	tất	cả	những	người	có	gan	nhiễm	mỡ	đều	rối	loạn	lipid	trong	máu;
khoảng	10%	bệnh	nhân	không	có	rối	 loạn	lipid	máu	và	khoảng	20%	không	có	rối	 loạn	men
gan.	Tuy	nhiên,	người	bị	gan	nhiễm	mỡ	cũng	có	ít	nhất	một	rối	loạn	nào	đó,	nếu	không	có	rối
loạn	lipid	thì	cũng	có	rối	loạn	men	gan.
Điều	trị
Hiện	nay	y	học	chưa	điều	trị	được	bệnh	gan	nhiễm	mỡ	vì	nếu	có	một	loại	thuốc	nào	lấy	mỡ	ở
trong	gan	thì	nó	cũng	có	thể	lấy	mỡ	ở	bất	kỳ	chỗ	khác	và	đó	thực	sự	là	một	dược	phẩm	kỳ	diệu
mà	người	ta	đang	mong	ước.	Nếu	người	bệnh	bị	tăng	lipid	máu,	bác	sĩ	có	thể	cho	dùng	thuốc
làm	hạ	lipid	máu,	qua	đó	hy	vọng	làm	giảm	dần	lượng	mỡ	ở	gan	và	bảo	tồn	các	chức	năng	của
gan.
Phòng	ngừa:
-	Tránh	ăn	nhiều	chất	béo	và	chất	đường	bột.
-	Không	uống	rượu	nhiều.
-	Thường	xuyên	tập	thể	dục	thể	thao	hoặc	dưỡng	sinh.
BS	Trần	Sơn	Vương	(Trung	tâm	Đào	tạo	và	Bồi	dưỡng	cán	bộ	y	tế	TP	HCM)
Viêm	gan	siêu	vi
Viêm	gan	siêu	vi	là	những	bệnh	nhiễm	trùng	làm	tổn	thương	gan	do	nhiều	loại	siêu	vi	khác
nhau	gây	ra.	Có	5	loại	siêu	vi	gây	viêm	gan	thường	gặp	là:	A,	B,	C,	D,	và	E.	Đường	lây	của	các
bệnh	viêm	gan	siêu	vi	không	giống	nhau:
-	Viêm	gan	siêu	vi	A	và	E	lây	qua	nguồn	nước	bẩn,	ô	nhiễm	phân,	rác	và	cách	ăn	uống	không
hợp	vệ	sinh.
-	Viêm	gan	siêu	vi	A,	C	và	D	lây	qua	đường	máu,	truyền	máu,	dùng	chung	dụng	cụ	tiêm	chích,
rạch	da,	dính	máu,	dịch	tiết	người	bệnh.	Quan	hệ	tình	dục,	mẹ	truyền	sang	con	khi	mang	thai.
Biểu	hiện	của	bệnh	viêm	gan	siêu	vi	khác	nhau	tùy	theo	từng	loại	siêu	vi:
-	Nhiễm	siêu	vi	A:	Người	bệnh	có	biểu	hiện	viêm	gan	cấp	như	sốt,	mệt	mỏi,	vàng	da	nhưng
thường	nhẹ,	hồi	phục	hoàn	toàn.	Viêm	gan	A	không	gây	viêm	gan	mạn,	xơ	gan,	ung	thư	gan.
-	Nhiễm	siêu	vi	E:	Biểu	hiện	cũng	giống	như	siêu	vi	A	nhưng	mức	độ	viêm	gan	có	thể	nặng
hơn,	nhất	là	ở	phụ	nữ	mang	thai,	viêm	gan	E	không	gây	viêm	gan	mạn,	xơ	gan,	ung	thư	gan.
-	Nhiễm	siêu	vi	B:	Chỉ	có	một	số	người	biểu	hiện	viêm	gan	cấp	như	viêm	gan	A	và	E	còn	đa	số
khỏe	mạnh,	không	có	triệu	chứng	nên	thường	phát	hiện	bệnh	là	do	tình	cờ	thử	máu,	khám	sức
khỏe,	hiến	máu...	Nhưng	90%	người	bệnh	sẽ	phục	hồi	hoàn	toàn	và	chỉ	có	10%	là	bệnh	có	thể
kéo	dài	thành	viêm	gan	mãn,	gây	xơ	gan,	ung	thư	gan	sau	này.
-	Nhiễm	siêu	vi	C:	Diễn	biến	bệnh	giống	như	viêm	gan	B	nhưng	nguy	cơ	viêm	gan	mãn,	xơ
gan	cao	hơn.
-	Riêng	đối	với	siêu	vi	D:	Chỉ	gây	bệnh	cho	người	đã	nhiễm	siêu	vi	B	và	khi	đó	bệnh	cũng
thường	nặng,	với	biến	chứng	xơ	gan	cao	hơn.
Do	có	nhiều	loại	viêm	gan	khác	nhau	và	biểu	hiện	rất	đa	dạng	nên	chỉ	có	thử	máu	mới	định
bệnh	chắc	chắn.	Khi	thử	máu,	có	thể	phải	làm	nhiều	loại	xét	nghiệm	khác	nhau,	nên	khi	nghi
ngờ	nhiễm	bệnh,	bạn	nên	đi	khám	tại	cơ	sở	y	tế	có	chuyên	khoa	bệnh	nhiễm	hoặc	tiêu	hoá	-
gan	mật	để	được	hướng	dẫn	cụ	thể.
Cần	làm	gì	khi	mắc	bệnh	viêm	gan	siêu	vi?
Bạn	cần	bình	tĩnh	bởi	đa	số	trường	hợp	viêm	gan	siêu	vi	đều	có	thể	bình	phục	hoàn	toàn	nếu
tuân	theo	sự	hướng	dẫn	của	thầy	thuốc	chuyên	khoa.	Đừng	tự	ý	điều	trị	theo	lời	mách	bảo	của
những	người	không	chuyên	môn,	bởi	vì	đến	nay	vẫn	chưa	có	loại	thuốc	nào	diệt	được	các	loại
siêu	vi	gây	viêm	gan.	Nếu	đang	bị	viêm	gan,	biện	pháp	chủ	yếu	để	bệnh	mau	khỏi	là	nghỉ	ngơi
hoàn	toàn,	ăn	thức	ăn	dễ	tiêu,	rau	tươi,	trái	cây	nhằm	nâng	cao	sức	đề	kháng	cho	cơ	thể,	giúp
đẩy	lùi	bệnh.	Thầy	thuốc	có	thể	cho	bạn	dùng	thêm	vài	loại	thuốc	có	tính	cách	hỗ	trợ	làm	giảm
các	triệu	chứng.
Còn	nếu	là	người	nhiễm	siêu	vi	B,	C	hoặc	D	không	triệu	chứng	thì	không	cần	thiết	điều	trị	gì
cả,	vẫn	ăn	uống,	sinh	hoạt,	lao	động	bình	thường	nhưng	cần	phòng	tránh	lây	lan	cho	mọi	người.
Cần	quan	tâm	giữ	gìn	sức	khỏe	hơn,	tránh	nhiễm	thêm	các	bệnh	khác	và	tránh	dùng	ma	tuý,
thuốc	lá,	rượu	làm	tổn	hại	sức	khỏe.	Nhiều	người	giữ	gìn	sức	khỏe	tốt	sau	một	thời	gian	đã
hoàn	toàn	khỏi	bệnh,	xét	nghiệm	cho	thấy	đã	sạch	hết	mầm	bệnh.
Cần	làm	gì	để	phòng	bệnh	viêm	gan	siêu	vi?
1.	Phòng	tránh	các	đường	lây	lan.
-	Phòng	tránh	viêm	gan	siêu	vi	A	và	E	bằng	cách:	Giữ	vệ	sinh	ăn	uống.	Ăn	sạch,	uống	nước
nấu	sôi	để	nguội,	rửa	tay	trước	khi	ăn.
-	Phòng	tránh	B,	C	và	D	bằng	cách:	Truyền	máu	có	kiểm	tra	viêm	gan	siêu	vi,	vệ	sinh	vô	trùng
các	dụng	cụ	y	 tế,	săn	sóc	sức	khỏe,	dùng	riêng	vật	dụng	có	 thể	dây	dính	máu	như	kim,	ống
chích,	dao	cạo,	kìm	cắt	móng	tay...	Truyền	máu	có	kiểm	tra	siêu	vi	giêm	gan,	sống	lành	mạnh,
chung	thủy	vợ	chồng,	sử	dụng	bao	cao	su	đúng	cách.	Phụ	nữ	mang	thai	nên	đi	khám	thai	để
phát	hiện	sớm	viêm	gan	siêu	vi	nhằm	có	biện	pháp	phòng	bệnh	thích	hợp	cho	trẻ.
2.	Chích	ngừa
Cần	lưu	ý	hiện	nay	chỉ	có	vắcxin	phòng	bệnh	viêm	gan	siêu	vi	B	(D)	và	gần	đây	là	viêm	gan
siêu	vi	A	nên	chích	ngừa	không	phòng	được	các	bệnh	viêm	gan	siêu	vi	C	và	E.
Đối	với	trẻ	em	dưới	1	tuổi,	chích	ngừa	viêm	gan	siêu	vi	B	đã	được	đưa	vào	chương	trình
tiêm	chủng	mở	rộng	để	trẻ	được	chích	miễn	phí	ở	các	cơ	sở	y	tế.
Nguy	cơ	nhiễm	viêm	gan	siêu	vi	B	và	C
Sự	lây	truyền	của	2	loại	siêu	vi	này	có	chung	đặc	điểm	là	cùng	lây	qua	3	con	đường	chích:
quan	hệ	tình	dục,	qua	đường	máu	và	lây	từ	mẹ	sang	con	(trong	thời	kỳ	mang	thai).
Một	số	nhóm	người	sau	đây	có	nguy	cơ	bị	nhiễm	virus	viêm	gan	siêu	vi	B	(Hepatitis	B	virus	-
HBV)	và	virus	viêm	gan	siêu	vi	C	(Hepatitis	C	Virus	-	HCV)	hơn	cả:
-	Có	quan	hệ	tình	dục	bừa	bãi,	thường	quan	hệ	với	gái	mãi	dâm,	đồng	tính	luyến	ái	(quan	hệ
tình	dục	với	người	đồng	giới	đặc	biệt	là	nam	giới),	có	chồng	bị	nhiễm	hoặc	ngược	lại.
-	Tiêm	chích	xì-ke,	dùng	chung	bơm	tiêm.
-	Bệnh	nhân	thường	phải	sử	dụng	máu	qua	truyền	máu	và	dùng	các	sản	phẩm	của	máu	cũng
như	truyền	dịch.
-	Xăm	mình,	xỏ	lỗ	tai,	xăm	môi,	xăm	lông	mày,	hoặc	những	bệnh	nhân	điều	trị	bằng	châm
cứu.
-	Trẻ	sơ	sinh	có	mẹ	mang	mầm	bệnh	HBV,	HBC.
-	Một	số	nhân	viên	y	tế	tiếp	xúc	với	bệnh	phảm	từ	máu.
-	Thân	nhân,	của	người	bệnh	viêm	gan	siêu	vi	B	và	C.
-	Những	bệnh	nhân	đang	được	điều	trị	có	liên	quan	đến	phẫu	thuật	như	mổ	xẻ,	chạy	thận
nhân	tạo.
Những	điều	cần	biết	về	bệnh	viêm	gan	siêu	vi	B
Bệnh	viêm	gan	siêu	vi	B	biểu	hiện	dưới	nhiều	hình	thức.	Đối	với	một	người	có	sức	khỏe	bình
thường,	việc	mang	virus	kéo	dài	trên	6	tháng	vẫn	không	có	triệu	chứng	gì	về	lâm	sàng	cũng
như	về	xét	nghiệm.	Đây	chính	là	nguồn	lây	lan	cho	cộng	đồng.	Với	những	người	bị	bệnh	viêm
gan	siêu	vi	B	cấp	tính,	bệnh	diễn	tiến	qua	4	giai	đoạn:
-	Giai	đoạn	ủ	bệnh:	Không	có	triệu	chứng	rõ	rệt,	kéo	dài	30-180	ngày,	trung	bình	khoảng	70
ngày.
-	Giai	đoạn	khởi	phát:	Kéo	dài	3-10	ngày	với	các	triệu	chứng	mệt	mỏi,	uể	oải,	nôn	ói,	chán	ăn,
đau	lâm	râm	vùng	hạ	sườn	phải,	sốt,	đau	khớp.
-	Giai	đoạn	toàn	phát:	Vàng	da,	vàng	mắt,	nước	tiểu	vàng,	kéo	dài	2-8	tuần.
-	Giai	đoạn	phục	hồi:	Các	triệu	chứng	giảm	dần.
Trong	viêm	gan	siêu	bi	B	thể	cấp	tính,	90%	bệnh	nhân	khỏi	bệnh	hoàn	toàn.	Đặc	biệt	bệnh
nhân	càng	nhỏ	tuổi,	tỷ	lệ	chuyển	sang	dạng	mãn	tính	càng	cao.
Viêm	gan	siêu	vi	B	mãn	có	2	dạng:	thể	tồn	tại	và	thể	tấn	công.	Ở	thể	tồn	tại,	bệnh	nhân	không
có	triệu	chứng	gì	rõ	rệt.	Xét	nghiệm	máu	có	men	gan	tăng	vừa.	Ở	thể	tấn	công,	bệnh	nhân	hay
bị	mệt	mỏi,	chán	ăn,	đau	cơ,	đau	khớp.	Xét	nghiệm	máu	có	men	tăng	cao.	Biến	chứng	của	viêm
gan	siêu	vi	B	mãn	tính	cần	lưu	ý	là	xơ	gan	và	ung	thư	gan.
Hiện	nay,	viêm	gan	siêu	vi	B	chưa	có	thuốc	điều	trị	đặc	hiệu,	chỉ	có	thuốc	ngừa.	Do	đó,	nên
chủng	ngừa	viêm	gan	siêu	vi	B	cho	những	người	chưa	nhiễm	virus	theo	lịch.	Đối	với	bệnh	nhân
bị	nhiễm	viêm	gan	siêu	vi	B	cấp	cần	được	nghỉ	ngơi	tốt,	chế	độ	dinh	dưỡng	thích	hợp	và	ăn
nhiều	đạm.	Hạn	chế	mỡ,	theo	dõi	phát	hiện	biến	chứng	kịp	thời.
Người	có	sức	khỏe	bình	thường	mang	virus	cần	được	giáo	dục,	phổ	biến	kiến	thức	để	tránh
lây	lan	cho	người	khác,	theo	dõi	phát	hiện	men	gan	theo	định	kỳ.	Hiện	nay,	những	bệnh	nhân
viêm	gan	mãn	có	thể	được	chỉ	định	điều	trị	với	Interferons	(Intron	A)	nhằm	mục	đích	giảm	lây
nhiễm,	ngăn	chặn	sự	nhân	đôi	của	virus,	cải	thiện	triệu	chứng	do	siêu	vi	gây	ra,	ngăn	ngừa	sự
tiến	triển	đến	những	biến	chứng	không	phục	hồi	được	như	xơ	gan,	ung	thư	gan.	Tuy	nhiên,	việc
điều	trị	này	phải	được	chỉ	định	và	theo	dõi	bởi	các	bác	sĩ	chuyên	khoa.
Bệnh	xơ	gan
Xơ	gan	là	hệ	quả	diễn	biến	chậm	của	nhiều	bệnh	gan	khác	nhau	về	nguyên	nhân,	trong	đó
đứng	đầu	là	rượu,	kế	tiếp	là	siêu	vi	(B,	C,	A)	thứ	ba	là	dùng	thuốc	không	thận	trọng,	không	hợp
lý.	Ngoài	ra,	vệ	sinh	thực	phẩm,	thói	quen	ăn	uống,	phương	thức	điều	trị,	sinh	hoạt	xã	hội...
cũng	là	những	yếu	tố	gây	bệnh	có	thể	dẫn	tới	biến	chứng	xơ	gan	và	cổ	trướng.
Cách	nhận	biết	xơ	gan	cổ	trướng
Bác	sĩ	sẽ	chẩn	đoán	bệnh	dựa	vào	các	dấu	chứng	đặc	trưng	của	bệnh	(vết	hồng	ban	ở	mu	bàn
chân	tay,	đám	mạch	máu	chân	nhện,	to	vú,	dịch	hoàn	teo)	và	các	triệu	chứng	như	lách	to,	cổ
trường,	phình	tĩnh	mạch	thực	quản,	ói	máu,	thành	bụng	có	nhiều	mạch	máu	lớn,	giống	như	đầu
con	sứa.	Lúc	đầu	ở	vùng	hạ	sườn	phải,	bờ	trái	của	gan	to	quá	mũi	xương	ức,	sau	đó	teo	nhỏ	lại,
ở	giai	đoạn	kế	tiếp	sờ	bờ	gan	thấy	lổn	nhổn	như	đầu	đinh.
Còn	cổ	trướng	(báng	bụng)	là	biến	chứng	của	xơ	gan	có	tăng	áp	lực	tĩnh	mạch,	dịch	trong
khoang	màng	bụng	càng	 lúc	càng	nhiều,	ảnh	hưởng	đến	chức	năng	của	thận,	hệ	 thống	bạch
mạch	của	gan	và	ruột.	áp	lực	tăng	càng	nhiều	nếu	gan	càng	suy	nặng	sẽ	làm	kiệt	nước	trong
máu	lưu	thông	nhưng	lại	có	quá	nhiều	nước	trong	ổ	bụng	và	làm	mạch	máu	co	lại	ở	trong	sâu.
Cổ	trướng	có	thể	tự	phát	gây	nhiễm	trùng	màng	bụng,	ấn	vào	bụng	sẽ	có	cảm	giác	đau	kèm
theo	sốt,	nhất	là	ở	người	xơ	gan	do	rượu.	Khi	có	báng	bụng,	tính	mạng	bệnh	nhân	sẽ	bị	nguy
hiểm	nếu	không	được	phát	hiện	và	chữa	trị	sớm.
Biến	chứng
Xơ	gan	có	một	số	biến	chứng	đặc	biệt.	Thường	gặp	nhất	là	xuất	huyết	tiêu	hoá	do	vỡ,	giãn
tính	mạch	thực	quản,	bệnh	nhân	sẽ	ói	ra	nhiều	máu,	ói	thành	từng	cơn,	ra	máu	đông	có	lẫn
thức	ăn	hoặc	không.	Biến	chứng	thường	gặp	thứ	hai	là	hôn	mê	gan,	bệnh	nhân	có	triệu	chứng
vàng	da	niêm,	tri	giác	lơ	mơ,	hơi	thở	hôi	mùi	trái	cây.	Nếu	gặp	các	biến	chứng	trên	phải	đưa
ngay	bệnh	nhân	đến	bệnh	viện	để	chữa	trị.
Phòng	ngừa
-	Bỏ	rượu,	đặc	biệt	đối	với	những	người	có	một	vài	triệu	chứng	kể	trên,	hoặc	đã	bị	xơ	gan,
đối	với	người	bình	thường	mỗi	ngày	có	thể	uống	một	lít	rượu,	chứng	1	lon	bia	333	hoặc	1	ly
rượu	đế	30	ml.	Nhưng	nếu	hằng	ngày	người	nam	uống	hơn	60	g	cồn	tinh	khiết	và	người	nữ
uống	hơn	20	g	thì	có	khả	năng	bị	xơ	gan	(bình	thường	1	xị	rượu	đế	có	trên	100	g	cồn	nguyên
chất).
-	Giữ	vệ	sinh	ăn	uống	giữ	vệ	sinh	hằng	ngày	để	không	lây	bệnh	viêm	gan	siêu	vi,	nếu	có	nguy
cơ	mắc	bệnh	hoặc	công	tác	trong	môi	trường	dễ	lây	bệnh	thì	nên	chích	ngừa	trước.
-	Cần	tránh	các	thuốc	hoặc	chất	độc	gây	hại	cho	gan,	trường	hợp	bất	khả	kháng	như	dùng
thuốc	để	trị	bệnh	lao...	nên	theo	kỹ	hướng	dẫn	của	bác	sĩ	để	hạn	chế	tác	dụng	của	thuốc	lên	gan.
-	Dinh	dưỡng	tốt	cũng	là	một	cách	phòng	bệnh	quan	trọng,	người	nghiện	rượu	vừa	suy	dinh
dưỡng	thì	nguy	cơ	bệnh	xơ	gan	càng	lớn.
Bệnh	sán	lá	gan
Sán	lá	gan	có	hình	dạng	tựa	như	chiếc	lá	me,	màu	xám	hồng,	mỏng,	kích	thước	khoảng	20-30
mm	khi	 trưởng	thành,	đẻ	 trứng	trong	đường	mật	của	các	súc	vật	ăn	cỏ	như	trâu	bò,	ngựa...
Trứng	theo	đường	mật	xuống	ruột	rồi	theo	phân	ra	ngoài.	Ở	môi	trường	nước	ngọt	như	ao,	hồ,
đầm,	sông,	trứng	phát	triển	thành	ấu	trùng,	có	lớp	vỏ	bao	bọc	bên	ngoài,	và	sống	ký	sinh	một
thời	gian	trong	các	loại	ốc	dưới	nước	(ốc	Limnea	Truneatula),	chuyển	thành	hâụ	ấu	trùng.
Hậu	ấu	trùng	chui	ra	khỏi	ốc	và	bám	vào	các	loại	cây	thủy	sinh	(rau	muống,	xà	lách	xoong...).
Khi	người	và	súc	vật	ăn	phải	rau	bị	nhiễm,	hậu	ấu	trùng	theo	thức	ăn	vào	ruột,	lớp	vỏ	vỡ	ra	và
phóng	thích	các	con	sán	non.	Sán	non	đi	xuyên	qua	vách	ruột	theo	máu	vào	gan.	Chúng	sống,
trưởng	thành,	đẻ	trứng	tại	hệ	thống	dẫn	mật	trong	gan.	Trứng	theo	dịch	mật	bài	tiết	xuống
ruột,	theo	phân	ra	ngoài	để	tiếp	tục	một	chu	trình	mới.
Triệu	chứng:	Ở	người,	khoảng	15	ngày	sau	khi	ăn	thức	ăn	có	ấu	trùng	sán	lá	gan,	bệnh	sẽ	tiến
triển	qua	hai	giai	đoạn	sau:
-	Giai	đoạn	khởi	đầu:	Kéo	dài	2-3	tháng,	sán	sẽ	từ	ruột	di	chuyển	vào	gan.	Bệnh	nhân	sẽ	có
các	dấu	hiệu	như	mệt	mỏi,	đau	bụng,	tiêu	chảy,	đau	bụng	âm	ỉ,	 liên	tục	ở	vùng	gan	(do	gan
sưng	lên),	kèm	theo	sốt,	chán	ăn	và	đôi	khi	có	ngứa	da	kiểu	dị	ứng.
-	Giai	đoạn	viêm	đường	mật:	Giai	đoạn	này	sán	đến	sống	trưởng	thành	và	đẻ	trứng	tại	hệ
thống	đường	mật	trong	gan	gây	ra	các	cơn	đau	bụng	ở	vùng	gan,	hoặc	vùng	hông	phải.	Đau
càng	lúc	càng	to	do	gan	ngày	càng	sưng	to.	Tính	chất	cơn	đau	thường	làm	cho	bệnh	nhân	và
bác	sĩ	nghĩ	 là	do	rối	 loạn	tiêu	hoá	hay	do	bệnh	dạ	dày.	Hệ	thống	ống	dẫn	mật	bị	tắc	nghẽn,
thành	ống	dẫn	mật	sưng	dày	lên	làm	cho	mật	không	được	bài	tiết	tốt.	Hậu	quả	là	dịch	mật	ứ	lại
làm	cho	bệnh	nhân	vàng	mắt,	vàng	da	như	những	bệnh	gan	khác.	Các	dấu	hiệu	rối	loạn	tiêu	hoá
như	táo	bón...	cũng	thường	hay	gặp.	Đau	bụng	có	thể	bớt	sau	khi	uống	thuốc,	giảm	đau	như	sau
đó	tái	đi	tái	lại	nhiều	lần	và	có	thể	kéo	dài	đến	vài	tháng,	vài	năm.
Biến	chứng:
Nếu	không	được	điều	trị	đúng,	bệnh	nhân	dần	suy	nhược,	kém	ăn	mất	ngủ	và	thiếu	máu.	Đặc
biệt	khi	siêu	âm	bụng	thấy	có	các	khối	u	nhỏ,	lạ,	nằm	rải	rác	trong	gan,	và	chưa	được	chẩn	đoán
rõ	ràng,	bệnh	nhân	sẽ	rất	lo	lắng,	dễ	nghĩ	sau	là	bệnh	nhọt	gan,	ung	thư	gan	và	còn	suy	sụp	tinh
thần	hơn,	nhất	là	khi	đã	dùng	qua	nhiều	loại	thuốc	kháng	sinh,	giảm	đau	nhưng	không	thất	kết
quả.
Điều	trị:
Hiện	nay	thuốc	điều	trị	sán	lá	gan	tốt	nhất	là	Bithimol	hoặc	Triclabendazol.	Tuy	nhiên	ở	Việt
Nam	hai	 loại	 thuốc	này	 còn	 khá	hiếm	và	 khó	 tìm	 thấy.	 Chúng	 ta	 có	 thể	 dùng:	 Emetin,	 hay
Praziquantel	để	điều	trị	và	hiệu	quả	cũng	khá	tốt.	Riêng	đối	với	Emetin,	không	được	dùng	quá
liều	hoặc	tự	ý	dùng	thuốc	tại	nhà	mà	phải	có	sự	theo	dõi	nghiêm	ngặt	của	bác	sĩ	vì	thuốc	ảnh
hưởng	lên	cơ	quan	tim	mạch	có	thể	gây	ngưng	tim	đột	ngột.	Thời	gian	điều	trị	là	10	ngày,	1
tháng	sau	phải	tái	khám,	nếu	có	dấu	hiệu	tái	phát,	phải	điều	trị	đợt	nữa.	Nói	chung,	bệnh	nhân
phải	được	điều	trị	nội	trú	với	chế	độ	theo	dõi	sát.
Phòng	ngừa:
-	Cần	tuân	thủ	nguyên	tắc	ăn	chín	uống	sôi.	Rau	sống	phải	rửa	sạch	dưới	vời	nước	chảy	khá
mạch	sau	khi	ngâm	bằng	nước	muối	hoặc	nước	có	pha	thuốc	tím.	Hiện	nay,	trên	thị	trường	có
bán	các	loại	nước	chuyên	dùng	rửa	rau,	có	thể	sử	dụng	theo	hướng	dẫn	trên	từng	sản	phẩm.
-	Nếu	nghi	ngờ	bị	nhiễm	sán	lá	gan,	bệnh	nhân	cần	đến	có	sở	chuyên	khoa	khám	thử	máu,
làm	siêu	âm	và	điều	trị.	Hiện	nay	Trung	tâm	Bệnh	nhiệt	đới	và	Bộ	môn	Ký	sinh	Trường	Đại	học
Y	Dược	tại	TP	HCM	có	thực	hiện	các	xét	nghiệm	đặc	hiệu	để	chẩn	đoán	sớm	và	chính	xác	bệnh

File đính kèm:

  • pdfcam_nang_an_toan_suc_khoe.pdf