Đánh giá hiệu quả tẩy giun của albendazole ở học sinh tiểu học tại xã Tân thuỷ, Ba tri, Bến Tre

Nhiễm giun sán là vấn đề sức khỏe của cộng

đồng được nhiều tổ chức trên thế giới quan tâm

vì tính phổ biến và tác hại do bệnh gây ra. Bệnh

thường có ở các nước nhiệt đới, điều kiện kinh

tế khó khăn, môi trường ô nhiễm và tập quán

sinh hoạt (ăn uống, canh tác) của người dân.

Theo điều tra của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -

Côn trùng Trung Ương năm 2011, tỷ lệ nhiễm

giun truyền qua đất ở trẻ 2-5 tuổi có tỷ lệ cao.

Trẻ em là đối tượng dễ bị nhiễm giun đường

ruột nhất. Các loại giun đường ruột phổ biến ở

trẻ em là: giun đũa, giun tóc, giun móc, trong đó

có nhiều trẻ bị nhiễm phối hợp hai hoặc cả ba

loại giun(4).

Từ những năm 90 bắt đầu có các báo cáo về

hiện tượng thuốc tẩy giun bị kháng trong thú y,

mà trong đó có nhóm Benzimidazole, xảy ra

trong chăn nuôi cừu tại Úc, Nam Phi và có thể

tại Nam Mỹ, với tỷ lệ kháng nhiều nơi vượt quá

50% (2). Ở người, cuối những năm 90 cũng đã có

nhiều báo cáo về hiện tượng thuốc giun bị

kháng tại nhiều nước, trong đó có Mebendazole

thuộc nhóm Benzimidazole đối với giun móc(1)

pdf 6 trang dienloan 4560
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả tẩy giun của albendazole ở học sinh tiểu học tại xã Tân thuỷ, Ba tri, Bến Tre", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả tẩy giun của albendazole ở học sinh tiểu học tại xã Tân thuỷ, Ba tri, Bến Tre

Đánh giá hiệu quả tẩy giun của albendazole ở học sinh tiểu học tại xã Tân thuỷ, Ba tri, Bến Tre
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 99
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TẨY GIUN CỦA ALBENDAZOLE 
Ở HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI XÃ TÂN THUỶ, BA TRI, BẾN TRE 
Nguyễn Ngọc Ánh*, Dương Công Thịnh*, Trương Văn Lợi**, Đỗ Tấn Hồng**, Phạm Thị Kim Thoa**, 
Trần Thị Xuyến*, Nguyễn Thị Hồng Ân* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Albendazole được sử dụng rộng rãi để điều trị giun tròn trên người từ nhiều năm nay. Tuy 
nhiên từ những năm 90 bắt đầu có các báo cáo về hiện tượng thuốc tẩy giun bị kháng trong thú y. Từ cơ sở trên 
chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu: Đánh giá hiệu quả tẩy giun của Albendazole ở học sinh tiểu học 
tại xã Tân Thủy, Ba Tri, Bến Tre từ tháng 6/2012 đến tháng 12/2012. 
Phương pháp: Xét nghiệm định lượng số trứng giun bằng phương pháp Kato-Katz. Các học sinh nhiễm 
giun sẽ được điều trị bằng Albendazole 400 mg theo phác đồ của Bộ Y tế. Sau khi uống thuốc 14 ngày, các học 
sinh này được xét nghiệm lại để tính các chỉ số đánh giá hiệu quả của thuốc. 
Kết quả: Có 709 học sinh của trường tiểu học xã Tân Thủy, Ba Tri, tỉnh Bến Tre được xét nghiệm. Tỷ lệ 
nhiễm giun chung là 7,8%, đa số là nhiễm giun móc (77,8%), giun đũa (14,8%), giun tóc (7,4%). Tất cả đều là 
đơn nhiễm (100%), cường độ nhiễm (98,1%). Xét nghiệm sau 14 ngày, tỷ lệ sạch trứng đối với giun đũa là 
(100%), đối với giun tóc là (100%) và giun móc (98,0%). Trường hợp còn dương tính thì số lượng trứng giun 
cũng giảm rất nhiều (83,90%). 
Kết luận: Đa số học sinh địa điểm nghiên cứu nhiễm giun móc. Điều trị bằng Albendazole 400 mg theo 
phác đồ của Bộ Y tế vẫn có hiệu quả. 
Từ khóa: Albendazole / tẩy giun / xã Tân Thuỷ. 
ABSTRACT 
EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF DEWORMING USING ALBENDAZOLE IN PRIMARY 
SCHOOL CHILDREN IN TAN THUY, BA TRI, BEN TRE 
Nguyen Ngoc Anh, Duong Cong Thinh, Truong Van Loi, Đo Tan Hong, Pham Thi Kim Thoa, 
Tran Thị Xuyen, Nguyen Thi Hong An 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 99 - 104 
Background: Albendazole is widely used to treat roundworms in humans for many years. However since 
the 90s there are reports on the deworming drug resistance in veterinary we perform this topic to: Assessment of 
effectiveness of deworming using albendazole in primary school in Tan Thuy commune, Ba Tri, Ben Tre months 
from 6/2012 to 12/2012. 
Study objectives: Evaluate effectiveness of deworming of Albendazole in primary school children. 
Method: Quantitative tests for number of eggs per gram feces by Kato-Katz method. Worm-infected children 
will be treated with Albendazole 400 mg according to the instruction (regime) of the Ministry of Health. 14 days 
after treatment, the children would be considered to test the indicators assessing the effectiveness of the drug. 
Results: 709 children of primary school in Tan Thuy, Ba Tri, Ben Tre were tested. Worm infection rate is 
*: Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng TP. HCM; **: Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh BếnTre 
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Ngọc Ánh, ĐT 0912171177; Email: nguyenanhnimpe@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 100
7.8% with majority were hookworm (77.8% positive cases), followed by an Ascaris (14.8%) and Trichuris 
(7.4%). All positive cases are monosomy with light intensity of infection (98%), Reassessment was carried out 
after 14 days of treatment showed the effect of Albendazole is applicable and effective in eliminate Ascaris (100%), 
Trichuris (100%) and hookworm (cure rate: (98.0%). One positive case hookworm is remain after treatment also 
showed significantly reducing EPG (83.90%). 
Conclusion: Most pupils of primary school in Tan Thuy commune are infected with hookworm. Treatment 
with albendazole 400 mg according to the regime of the Ministry of Health is still effective. 
Keywords: Albendazole/ deworm/ Tan Thuy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm giun sán là vấn đề sức khỏe của cộng 
đồng được nhiều tổ chức trên thế giới quan tâm 
vì tính phổ biến và tác hại do bệnh gây ra. Bệnh 
thường có ở các nước nhiệt đới, điều kiện kinh 
tế khó khăn, môi trường ô nhiễm và tập quán 
sinh hoạt (ăn uống, canh tác) của người dân. 
Theo điều tra của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - 
Côn trùng Trung Ương năm 2011, tỷ lệ nhiễm 
giun truyền qua đất ở trẻ 2-5 tuổi có tỷ lệ cao. 
Trẻ em là đối tượng dễ bị nhiễm giun đường 
ruột nhất. Các loại giun đường ruột phổ biến ở 
trẻ em là: giun đũa, giun tóc, giun móc, trong đó 
có nhiều trẻ bị nhiễm phối hợp hai hoặc cả ba 
loại giun(4). 
Từ những năm 90 bắt đầu có các báo cáo về 
hiện tượng thuốc tẩy giun bị kháng trong thú y, 
mà trong đó có nhóm Benzimidazole, xảy ra 
trong chăn nuôi cừu tại Úc, Nam Phi và có thể 
tại Nam Mỹ, với tỷ lệ kháng nhiều nơi vượt quá 
50% (2). Ở người, cuối những năm 90 cũng đã có 
nhiều báo cáo về hiện tượng thuốc giun bị 
kháng tại nhiều nước, trong đó có Mebendazole 
thuộc nhóm Benzimidazole đối với giun móc(1). 
Năm 2011 Viện Sốt rét- KST- CT TP Hồ Chí 
Minh đã nghiên cứu đánh giá hiệu lực của 
Albendazole trong điều trị giun tròn tại một số 
trường tiểu học của huyện Bù Gia Mập tỉnh 
Bình Phước với kết luận: Albendazole còn tác 
dụng rất tốt trong điều trị giun tròn. 
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam nói 
chung, khu vực phía Nam nói riêng 
Albendazole được sử dụng rộng rãi để điều trị 
giun tròn trên người, liệu rằng Albendazole có 
còn nguyên tác dụng với các loại giun tròn 
đường ruột hay không? Từ cơ sở trên chúng tôi 
tiến hành khảo sát nhằm trả lời câu hỏi: “Hiệu 
quả tẩy giun hiện nay của Albendazole ở học 
sinh tiểu học như thế nào?”. 
Theo điều tra của Viện Sốt rét – KST – CT 
TP.Hồ Chí Minh năm 2011 cho thấy: Xã Tân 
Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre là vùng có tỷ lệ 
nhiễm giun tròn đường ruột cao, nên được chọn 
để thực hiện nghiên cứu. Kết quả thu thập được 
sẽ cung cấp một số thông tin hữu ích và thực tế 
trong điều trị nhiễm giun ở xã Tân Thủy. Hơn 
nữa, thông tin này có thể gợi ý điều tra rộng hơn 
cho các vùng nhiễm giun tròn khác vì mỗi cộng 
đồng có đặc trưng riêng. Qua đó giúp các đơn vị 
thực hiện chương trình phòng chống giun sán 
lựa chọn chiến luợc sát hợp với từng địa 
phương dựa trên khuyến cáo của WHO(5), góp 
phần nâng cao sức khỏe và chất lượng sống cho 
trẻ em nói riêng và người dân nói chung. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Địa điểm, thời gian, đối tượng 
Địa điểm 
Tại trường tiểu học xã Tân Thủy, huyện Ba 
Tri, tỉnh Bến Tre. 
Thời gian 
Từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2012. 
Đối tượng 
Toàn bộ học sinh tiểu học có độ tuổi từ 6 
đến 12 tuổi. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu can thiệp. 
Cỡ mẫu 
Tất cả các học sinh của trường đều đươc XN 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 101
phân tìm trứng giun tròn. Cỡ mẫu điều tra được 
tính sao cho đợt lấy mẫu phân thứ hai (14 ngày 
sau điều trị) sẽ thu được toàn bộ số mẫu phân 
dương tính của đợt điều tra ban đầu của học 
sinh đã được điều trị trước đó với Albendazole. 
Tỷ lệ nhiễm chung của tỉnh Bến Tre qua điều tra 
năm 2006 là 25%. Như vậy để có 300 mẫu dương 
tính trước khi điều trị sẽ cần điều tra 300*100/25 
= 1200 học sinh. 
Chọn mẫu 
Các học sinh nhiễm bất kỳ một loại giun 
tròn nào (giun đũa, giun móc, giun tóc) sẽ được 
chọn vào nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ là có 
tiêu chảy ở mẫu phân đầu tiên, hoặc không thể 
đưa tiếp mẫu phân thứ hai 14 ngày sau đó, hoặc 
đang mắc các bệnh khác cần phải điều trị. 
Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh 
học 
Đề cương nghiên cứu được Hội đồng Đạo 
đức trong nghiên cứu y sinh học của Viện Sốt 
rét - KST-CT TP. HCM thông qua và được cho 
phép tiến hành. Các thầy cô giáo, phụ huynh 
học sinh và học sinh được thông báo mục đích, 
ý nghĩa của nghiên cứu. Qua sổ liên lạc của nhà 
trường, phụ huynh ký tên đồng ý cho con em 
mình được xét nghiệm và được tẩy giun nếu kết 
quả xét nghiệm dương tính. Albendazole đã 
được sử dụng rộng rãi qua nhiều năm và cho 
thấy rất an toàn khi dùng để tẩy giun với các tác 
dụng phụ hầu như không đáng kể, nếu có chỉ là 
nhẹ và thoáng qua như nhức đầu, đau bụng. 
Nội dung nghiên cứu 
Kỹ thuật sử dụng 
Mẫu phân của học sinh sẽ được xét 
nghiệm trong ngày bằng phương pháp Kato-
Katz và nếu dương tính sẽ đếm số trứng giun 
/gram phân. Các học sinh nhiễm giun sẽ được 
điều trị bằng albendazole 400 mg theo phác 
đồ điều trị của Bộ Y tế ban hành 2009. Mười 
bốn ngày sau, các học sinh đã được điều trị 
bằng Albendazole nói trên sẽ cung cấp mẫu 
phân thứ hai. Mẫu phân này cũng sẽ được xét 
nghiệm bằng phương pháp Kato-Katz và đếm 
trứng /gram phân nếu dương tính. 
Vật liệu, thuốc, hóa chất 
Lọ lấy phân, bìa Kato-Katz, lưới lọc phân, 
giấy cellophan, lam kính, dung dịch xanh 
malachit, máy đếm, thuốc albendazole viên 400 
mg. “Phác đồ chẩn đoán và điều trị một số bệnh 
giun sán ở Việt Nam” do Bộ Y tế ban hành 2009. 
Các thuốc nhóm Pyrimidin: Không có chống 
chỉ định. 
Kỹ thuật thu thập số liệu 
Đếm số trứng giun có trong tiêu bản phân 
và nhân với hệ số của bìa Kato-Katz được sử 
dụng (x 24) để có số trứng giun trong một gram 
phân. 
Phương pháp xử lý số liệu 
Số trứng giun/gram phân sẽ được tính trung 
bình cho từng loại giun, đồng thời phân loại 
theo mức độ nhiễm nhẹ, vừa và nặng. Tính tỷ lệ 
nhiễm giun chung, tỷ lệ nhiễm đối với từng loài 
giun, tỷ lệ đơn nhiễm, đa nhiễm. Đối với thuốc 
tẩy giun sẽ tính các chỉ số: tỷ lệ giảm trứng giun, 
tỷ lệ sạch trứng để đánh giá hiệu lực của thuốc. 
Phần mềm thống kê được dùng là Epidata 3.1 
Bảng 1. Mức độ nhiễm cho từng loại giun được quy 
định như sau. 
Giun Nhiễm nhẹ Nhiễm vừa Nhiễm nặng 
Đũa 1-4999 trứng/g* 5000-49999 trứng/g 50000 trứng/g 
Tóc 1-999 trứng/g 1000-9999 trứng/g 10000 trứng/g 
Móc 1-1999 trứng/g 2000-3999 trứng/g 4000 trứng/g 
*trứng/g: số trứng giun trong một gram phân. 
Các chỉ số đánh giá hiệu lực của thuốc tẩy 
giun 
Các chỉ số đánh giá hiệu lực của thuốc tẩy giun 
Tỷ lệ giảm trứng (Egg reduction rate - ERR): 
epg t. bình trước điều trị - epg t. bình sau điềutrị. 
ERR = --------------------------------------------- x 100% 
epg t. bình trước điều trị 
Tỷ lệ sạch trứng (Cure rate - CR): 
Số cas dương trước điều trị - số cas dương sau điều trị 
CR =------------------------------------------------- x 100% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 102
Số cas dương tính trước điều trị 
Hiệu lực của thuốc tẩy giun, theo Tổ chức Y 
tế Thế giới, được đánh giá qua tỷ lệ sạch trứng 
giun (cure rate - CR) như sau (4): 
Nếu CR = 0 - 19%: Thuốc không có tác 
dụng; 20 - 59 %: Thuốc tác dụng trung bình; 
60 - 89 %: Thuốc tác dụng tốt; > 90 %: Thuốc 
tác dụng rất tốt. 
Thuốc sử dụng và liều dùng 
Albendazole 400 mg viên nén do Holden 
Medical Laboratories Pvt. Ltd. Sinnar, India sản 
xuất, số lô sản xuất HEF22 tháng 6/2010, hạn 
dùng đến tháng 5/2013, đã được Tổ chức Y tế 
Thế giới kiểm nghiệm chất lượng. Liều dùng 
(theo phác đồ trên), nhai kỹ trước khi uống. 
KẾT QUẢ 
Kết quả mẫu nghiên cứu 
Bảng 2. Tỷ lệ thu được mẫu phân theo khối lớp. 
Khối lớp
Thu được mẫu phân 
Số học sinh 
Có(%) Không(%) 
Khối 1 135 (74,6%) 46 (25,4%) 181 
Khối 2 155 (83,3%) 31 (16,7%) 186 
Khối 3 146 (88,5%) 19 (11,5%) 165 
Khối 4 166 (79,0%) 44 (21,0%) 210 
Khối 5 107 (60,0%) 71 (40,0%) 178 
Tổng 709 (77,1%) 211 (22,9%) 920 
Tỷ lệ thu được mẫu phân đạt khá cao 77,1%. 
Bảng 3: Tỷ lệ xét nghiệm dương tính với trứng giun. 
Khối lớp
Kết quả xét nghiệm Số xét 
nghiệm Dương tính (%) Âm tính(%) 
Khối 1 9 (6,7%) 126 (93,3%) 135 
Khối 2 5 (3,2%) 150 (96,7%) 155 
Khối 3 8 (5,5%) 138 (94,5%) 146 
Khối 4 21 (12,7%) 145 (87,3%) 166 
Khối 5 12 (11,2%) 95 (88,8%) 107 
Tổng 55 (7,8%) 654 (92,2%) 709 
Bảng 4.Tỷ lệ nhiễm từng loại giun. 
Nhiễm 
Kết quả xét nghiệm Số xét 
nghiệm Dương tính (%) Âm tính(%) 
Giunđũa 8 (1,1%) 701 (98,9%) 709 
Giuntóc 4 (0,6%) 705 (99,4%) 709 
Giunmóc 42 (5,9%) 667 (94,1%) 709 
Nhận xét: Giun móc chiếm đa số các trường 
hợp (77,8%), đến giun đũa (14,8%), giun tóc 
(7,4%). Ngoài ra còn phát hiện được 1 trường 
hợp nhiễm giun kim (0,14%). 
Tỷ lệ đơn nhiễm và đa nhiễm 
Trong 55 trường hợp xét nghiệm thấy trứng 
giun trong phân đều là đơn nhiễm. 
Bảng 5. Cường độ nhiễm trứng giun (số trứng giun 
/g phân - epg). 
Nhiễm Số trường 
hợp 
Epg tối 
thiểu 
Epg tối 
đa 
Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Giun đũa 8 24 48 33,00 11,62 
Giun tóc 4 24 168 60,00 62,35 
Giun móc 42 24 9384 383,86 743,88 
Bảng 6.Mức độ nhiễm cho từng loại giun (số trường 
hợp). 
Giun Nhiễm nhẹ Nhiễm vừa Nhiễm nặng Tổng 
Đũa 8 00 00 8 
Tóc 4 00 00 4 
Móc 41 00 01 42 
- Các trường hợp nhiễm giun chủ yếu là 
nhiễm nhẹ (98,1%). 
- Một trường hợp nhiễm nặng với giun móc 
chiếm 1,9%. 
So sánh kết quả trước và sau điều trị 
Bảng7. Kết quả xét nghiệm lại sau khi điều trị 02 
tuần (ở các trường hợp dương tính lần đầu với giun 
đũa, giun tóc và giun móc). 
Nhiễm 
Trước điều trị Sau điều trị 14 ngày Tỷ lệ 
sạch 
trứng 
(CR) % 
Số trường hợp 
(+) Số trường hợp (+) 
Giun đũa 8 00 100,0 
Giun tóc 4 00 100,0 
Giun móc 42 01 98,00 
Tổng 54 01 
Nhận xét: Tỷ lệ sạch trứng (cure rate - CR) 
trên, tác dụng của albendazole là rất tốt đối với 
giun đũa, giun tóc, giun móc. 1 trường hợp 
nhiễm giun kim được phát hiện, sau khi cho 
uống thuốc và xét nghiệm lại thì không thấy 
trứng giun kim nữa, nhưng không tính tỷ lệ 
sạch trứng của albendazole đối với giun kim vì 
kỹ thuật Kato-Katz không thích hợp để phát 
hiện trứng giun kim. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 103
Bảng 8. Số trứng giun trung bình/g phân (epg) ở các 
trường hợp chưa sạch trứng. 
Nhiễm Epg trước 
điều trị 
Epg sau điều 
trị 
Tỷ lệ giảm trứng 
(ERR) % 
Giun móc 744 120 83,90 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ thu được mẫu phân tương đối cao 
(77%). Do có sự chuẩn bị tốt về công tác triển 
khai thực hiện đề tài, tuyên truyền, đặc biệt là có 
sự phối tốt giữa y tế, nhà trường và phụ huynh 
học sinh, các thầy cô giáo đã nhiệt tình phối hợp 
với đoàn nghiên cứu, triển khai thực hiện đúng 
tiến độ đề tài do đó công việc nghiên cứu đã 
diễn ra như mong muốn. 
Với 709 mẫu xét nghiệm, tỷ lệ dương tính 
với trứng giun là 7,8%, thấp hơn rất nhiều so với 
tỷ lệ 37,9% của điều tra toàn quốc năm 2006 của 
các Viện SR-KST-CT Trung ương và khu vực(4). 
Có thể do sau thời điểm này, việc điều trị định 
kỳ hàng năm cho các học sinh tiểu học được tiến 
hành rộng rãi nên đã góp phần hạ tỷ lệ nhiễm 
giun ở các đối tượng này. 
Trong số các loại giun phát hiện, giun móc 
chiếm đa số (77,8%), kế đến là giun đũa 
(14,8%), giun tóc 7,4%. So với các khảo sát 
trước đây tại các tỉnh thuộc khu vực phía 
Nam là thứ tự các loài giun bị nhiễm nhiều là 
giun móc, giun tóc, và sau cùng là giun đũa. 
Tuy nhiên tại khảo sát này tỷ lệ nhiễm giun 
đũa đứng thứ 2 sau giun móc. 
Trong 55 trường hợp xét nghiệm thấy trứng 
giun trong phân đều là đơn nhiễm. Tuy nhiên vì 
nhiễm giun móc chiếm đa số, kế đến là nhiễm 
giun đũa, là hai loài giun gây thiếu máu, thiếu 
chất dinh dưỡng nên hậu quả của nhiễm giun 
cũng nặng nề hơn. 
Đa số các trường hợp dương tính có cường 
độ nhiễm nhẹ (98,1%), thể hiện qua số trứng 
giun trung bình trong một gram phân, nhưng 
không vì thế mà coi nhẹ tình hình nhiễm, vì số 
lượng trứng giun/g phân không phản ảnh trung 
thực mức độ nhiễm do chỉ có giun cái mới đẻ 
trứng và đẻ không đều, những con giun đực có 
mặt và không phát hiện được cũng gây tác hại 
không kém. 
Tác dụng của thuốc, thể hiện qua tỷ lệ làm 
sạch trứng giun là rất tốt đối với đối với tất cả 
các loài giun trên. Phát hiện của nghiên cứu này 
cũng phù hợp với các đánh giá trong y văn. Đối 
với 01 trường hợp chưa sạch trứng giun, thì tỷ lệ 
giảm trứng giun do tác dụng của thuốc là rất 
cao (83,90%). Như vậy, dù không khỏi bệnh thì 
tác hại của việc nhiễm giun cũng đã giảm nhẹ 
rất nhiều. Phác đồ điều trị dùng là ba viên mỗi 
ngày uống 1 viên trong ba ngày liên tiếp (đối 
với giun móc, giun tóc) tác dụng của thuốc cao 
hơn so với phác đồ điều trị 1 ngày. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu này, tỷ lệ nhiễm giun của 
các học sinh tiểu học ở Tân Thủy, Ba Tri, Bến Tre 
là thấp, cường độ nhiễm nhẹ. Nhưng vì nhiễm 
giun móc chiếm đa số (77,8%). 
Tác dụng của Albendazole 400 mg liều dùng 
ba viên, mỗi ngày uống 1 viên trong ba ngày 
liên tiếp (đối với giun móc). Đã đáp ứng điều trị 
tốt với tất cả các loài giun trên. Một trường hợp 
chưa sạch trứng giun thì số lượng trứng cũng đã 
giảm rất nhiều dưới tác dụng của thuốc. 
Nghiên cứu này cho thấy phác đồ điều trị 
theo ca bệnh mang lại hiệu quả và ít tốn kém so 
với điều trị cộng đồng. Điều này cũng phù hợp 
với khuyến cáo của WHO những vùng có tỷ lệ 
nhiễm < 30% nên điều trị theo ca bệnh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adugna S, Y Kebede, Moges F, Tiruneh M(2007). Efficacy of 
mebendazole and albendazole for Ascaris lumbricoides and 
hookworm infections in an area with long time exposure for 
antihelminthes, Northwest Ethiopia. Department of 
Biochemistry, College of Medicine and Health Sciences, 
University of Gondar, PO Box 1391, Gondar, Ethiopia;45(3):301-
6. 
2. Geerts S. and Gryseels B (2000), “Drug Resistance in Human 
Helminths: Current Situation and Lessons from 
Livestock”,Clinical Microbiology Reviews, Apr. 2000, p. 207-222. 
3. Geerts S. and Gryseels B. (2001), “Anthelmintic resistance in 
human helminths: a review”,Tropical Medicine and International 
Health,Vol 6 no. 11: 915-921, Nov 2001. 
4. Nguyễn Mạnh Hùng, Đỗ Trung Dũng. Viện Sốt rét-KST-CT TƯ 
(2011), Hội nghị tổng kết công tác PCSR và giun sán 2006-2010, 
triển khai kế hoạch năm 2011,HàNội, tr 8-9. 
5. World Health Organization (1996), Report of the WHO informal 
consultation on the use of chemotherapy for the control of 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 104
morbidity due to soil-transmitted nematodes in humans. WHO/CTD/SIP/96.2. 29 April to 1 May 1996. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_tay_giun_cua_albendazole_o_hoc_sinh_tieu_h.pdf