Đánh giá phát sinh phế phụ phẩm, phế thải đồng ruộng tại xã Cư yên, huyện Lương sơn, tỉnh Hoà Bình

Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá phát sinh phế phụ phẩm và phế thải và tái sử dụng từ

hoạt động trồng trọt theo hướng nông nghiệp hữu cơ. Phế phụ phẩm đồng ruộng được ước tính cho

các cây trồng chính là cây lúa, ngô, lạc, rau và đậu tương. Phế thải đồng ruộng được xác định bằng

phương pháp lập ô tiêu chuẩn với tổng diện tích 1 ha, phế thải được phân loại theo thông tư

03/2018/BNNPTNT. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng lượng phế phụ phẩm đồng ruộng trong

toàn xã ước tính 301,98 tấn/năm; trong đó, cây lúa là 180,32 tấn/năm, cây ngô 74,45 tấn/năm, cây

lạc 17,84 tấn/năm, cây rau 24,37 tấn/năm, cây đậu tương 5 tấn/năm. Lượng phế thải thu được gồm

50 loại thuốc bảo vệ thực vật và 3 loại phân bón với nhóm thuốc trừ sâu (29,8%) và thuốc trừ bệnh

(26,5%) và thuốc trừ cỏ (21,2%). Hoạt chất Trichlofon đã bị cấm sử dụng vẫn gặp khá phổ biến.

Phế phụ phẩm được tái sử dụng thông qua ủ phân hữu cơ (70%), làm giá thể trồng nấm, hoặc làm

thức ăn chăn nuôi (20%). Quá trình tái sử dụng các phụ phẩm trồng trọt làm phân hữu cơ và thức

ăn chăn nuôi cần chú ý đến yếu tố tồn dư thuốc bảo vệ thực vật.

pdf 6 trang dienloan 6500
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá phát sinh phế phụ phẩm, phế thải đồng ruộng tại xã Cư yên, huyện Lương sơn, tỉnh Hoà Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá phát sinh phế phụ phẩm, phế thải đồng ruộng tại xã Cư yên, huyện Lương sơn, tỉnh Hoà Bình

Đánh giá phát sinh phế phụ phẩm, phế thải đồng ruộng tại xã Cư yên, huyện Lương sơn, tỉnh Hoà Bình
Võ Hữu Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 25 - 30 
25 
ĐÁNH GIÁ PHÁT SINH PHẾ PHỤ PHẨM, PHẾ THẢI ĐỒNG RUỘNG 
TẠI XÃ CƯ YÊN, HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HOÀ BÌNH 
Võ Hữu Công*, Lê Thị Thu Uyên, Nguyễn Thanh Lâm, Phạm Văn Cường 
Học viện Nông nghiệp Việt Nam 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá phát sinh phế phụ phẩm và phế thải và tái sử dụng từ 
hoạt động trồng trọt theo hướng nông nghiệp hữu cơ. Phế phụ phẩm đồng ruộng được ước tính cho 
các cây trồng chính là cây lúa, ngô, lạc, rau và đậu tương. Phế thải đồng ruộng được xác định bằng 
phương pháp lập ô tiêu chuẩn với tổng diện tích 1 ha, phế thải được phân loại theo thông tư 
03/2018/BNNPTNT. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng lượng phế phụ phẩm đồng ruộng trong 
toàn xã ước tính 301,98 tấn/năm; trong đó, cây lúa là 180,32 tấn/năm, cây ngô 74,45 tấn/năm, cây 
lạc 17,84 tấn/năm, cây rau 24,37 tấn/năm, cây đậu tương 5 tấn/năm. Lượng phế thải thu được gồm 
50 loại thuốc bảo vệ thực vật và 3 loại phân bón với nhóm thuốc trừ sâu (29,8%) và thuốc trừ bệnh 
(26,5%) và thuốc trừ cỏ (21,2%). Hoạt chất Trichlofon đã bị cấm sử dụng vẫn gặp khá phổ biến. 
Phế phụ phẩm được tái sử dụng thông qua ủ phân hữu cơ (70%), làm giá thể trồng nấm, hoặc làm 
thức ăn chăn nuôi (20%). Quá trình tái sử dụng các phụ phẩm trồng trọt làm phân hữu cơ và thức 
ăn chăn nuôi cần chú ý đến yếu tố tồn dư thuốc bảo vệ thực vật. 
Từ khóa: Phụ phẩm đồng ruộng; phế thải; phân hữu cơ; thuốc bảo vệ thực vật; tricloforn 
MỞ ĐẦU * 
Việt Nam là nước nông nghiệp với khoảng 
66,9% dân số làm nghề nông, trong đó có đến 
48% dân số lấy nông nghiệp làm sinh kế; 
nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong 
kinh kế hộ gia đình [2]. Lúa, ngô và các loại 
rau là sản phẩm nông nghiệp chủ đạo đóng 
góp cho GDP từ ngành hàng nông nghiệp và 
là nguồn lương thực, thực phẩm chính. Hàng 
năm, hàng triệu tấn phế thải nông nghiệp từ 
rơm rạ, lõi ngô, hành tỏi, rau quả bị đốt hoặc 
bỏ lại trên đồng ruộng gây ô nhiễm trầm trọng 
cho môi trường [3]. Nhiều công bố cho thấy, 
việc áp dụng rơm rạ tươi không đúng cách 
trên đồng ruộng góp phần tăng từ 1,8-3,5 lần 
lượng khí mê tan (CH4) vì đã cung cấp các 
bon hữu cơ cho vi sinh vật phân huỷ yếm khí 
[13]; [18]. Theo Phạm Châu Thuỳ và ctv 
(2018) [5], việc đốt rơm rạ trên đồng ruộng 
gây ra nhiều tác nhân độc hại như khí CO 
(10,21-56,03 mg/m
3), nồng độ bụi PM2,5 trong 
phạm vi đốt 5 m dao động từ 0,71-29,07 
mg/m
3, cao gấp 103 lần so với quy chuẩn 
quốc gia và gấp 309 lần quy chuẩn của Tổ 
chức Y tế thế giới. Quá trình sản xuất nông 
*
 Tel: 0981 954624, Email: vhcong@vnua.edu.vn 
nghiệp trên đồng ruộng thường phát sinh 2 
loại chất thải là phế phụ phẩm và phế thải. 
Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có những tính 
toán cụ thể lượng phát thải trên đồng ruộng 
phục vụ công tác quy hoạch và tái sử dụng 
một cách hiệu quả các phế phụ phẩm, phế thải 
đồng ruộng. 
Hiện nay, đã có nhiều công bố về việc tái sử 
dụng phế phụ phẩm, phế thải đồng ruộng cho 
hiệu quả kinh tế rất cao. Burange et al. (2016) 
[9] dự báo hàng năm trên thế giới sản sinh ra 
khoảng 1548 triệu tấn phế phụ phẩm nông 
nghiệp với tiềm năng tạo ra ethanol sinh học 
(bioethanol) là 442,2 GL, trong đó phế phụ 
phẩm từ rơm rạ là 731 triệu tấn, chiếm 
khoảng 47,2% tổng lượng phát thải. Một số 
nghiên cứu khác hướng tới việc sử dụng sinh 
khối phế phụ phẩm để sản xuất các sản phẩm 
áp dụng trong công nghệ xử lý môi trường 
[16], than sinh học biochar [12]; [15]; [17], 
than các bon hoạt tính [10]; [14], sử dụng 
làm giá thể trồng nấm [11], hoặc ủ phân hữu 
cơ giữa phụ phẩm rơm rạ kết hợp với phân bò 
[19]. Trong khi đó, phế thải từ đồng ruộng 
thường được đánh giá là độc hại với hệ sinh 
thái cần phải loại bỏ một cách hợp lý thì chưa 
có các biện pháp thu gom, vận chuyển và xử 
lý triệt để. 
Võ Hữu Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 25 - 30 
26 
Xã Cư Yên có điều kiện địa hình và khí hậu 
đặc trưng cho nhiều xã của tỉnh Hoà Bình, với 
điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp 
đáp ứng nhu cầu cao về thực phẩm sạch và an 
toàn. Ưu thế về điều kiện thổ nhưỡng và khí 
hậu thuỷ văn giúp Cư Yên định hình được các 
sản phẩm chủ lực theo hướng phát triển nông 
nghiệp hữu cơ, chất lượng cao [6]. Trong 
những năm gần đây, huyện Lương Sơn nói 
chung, xã Cư Yên nói riêng, đã định hướng 
chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản 
xuất nông nghiệp hữu cơ trên đối tượng chủ 
đạo là cây lúa và các loại rau, ưu tiên sử dụng 
các sản phẩm an toàn và thân thiện với môi 
trường, hạn chế tối đa chất thải từ hoạt động 
nông nghiệp [7]. Trong bối cảnh giá thành vật 
tư nông nghiệp tăng cao, phát sinh khí hiệu 
ứng nhà kính từ phân bón hóa học, việc tái sử 
dụng phế phụ phẩm đồng ruộng kết hợp với 
chế phẩm vi sinh để sản xuất phân hữu cơ vừa 
có hiệu quả quay vòng dinh dưỡng và giảm 
thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, hiện 
chưa có các nghiên cứu ước tính được lượng 
phụ phẩm phát sinh từ các loại cây trồng cũng 
như một số yếu tố hạn chế khác như lượng vỏ 
bao bì thuốc bảo vệ thực vật và các loại tồn 
dư khác trên đồng ruộng để có giải pháp thích 
hợp cho việc tái sử dụng phế phụ phẩm. 
Nghiên cứu này nhằm điều tra hiện trạng phát 
sinh phế phụ phẩm, phế thải đồng ruộng tại 
vùng trồng lúa và rau theo định hướng sản 
xuất hữu cơ và một số biện pháp quản lý chất 
thải đang được áp dụng tại địa phương. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp thu thập số liệu 
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Cơ 
cấu diện tích đất, cơ cấu cây trồng và mùa vụ 
của xã Cư Yên được thu thập từ báo cáo tổng 
kết hàng năm của uỷ ban nhân dân xã. 
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: Số 
liệu về diện tích, năng suất, sản lượng và phát 
sinh phế phụ phẩm trong quá trình sản xuất 
được thực hiện qua phỏng vấn sử dụng bảng 
hỏi trên toàn thể 20 hộ dân đang canh tác trên 
diện tích định hướng theo sản xuất nông 
nghiệp hữu cơ. 
Lượng phế phụ phẩm phát sinh được ước tính 
như sau: Đối với cây lúa, phụ phẩm được xác 
định chủ yếu là rơm, rạ [4]. 
Lượng rơm rạ phát sinh Sản lượng lúa 
(Tỷ lệ rơm rạ:lúa) (1) 
Trong đó, tỷ lệ rơm rạ: Lúa (Trọng lượng 
khô của rơm rạ) (Trọng lượng khô của lúa) (2) 
Cây trồng khác, ước tính lượng phát thải áp 
dụng theo công thức (1), trong đó phụ phẩm 
được tính bằng lượng bỏ đi. Ước tính lượng 
phế phụ phẩm phát sinh được tính trên đơn vị 
hecta (tạ/ha). 
Phương pháp điều tra phể thải đồng ruộng: 
Phế thải đồng ruộng là thành phần chất thải 
khó phân huỷ, trên đồng ruộng thường là vỏ 
bao bì thuốc bảo vệ thực vật, vỏ bao bì phân 
bón, chai lọ. Điều tra phế thải đồng ruộng được 
thực hiện trên toàn bộ cánh đồng với diện tích 
10.000 m
2
 (1 ha) ở vùng trồng lúa vào thời điểm 
tháng 6/2017. Đây là giai đoạn lúa mới cấy 
được 2-3 tuần, lượng phế thải chưa được thu 
gom, nằm rải rác trên cánh đồng. 
Phương pháp phân tích số liệu 
Phương pháp phân tích mẫu phế phụ phẩm 
trên đồng ruộng: Mỗi mẫu 200 g phế phụ 
phẩm ngô, lạc và cây cỏ hôi thu từ đồng 
ruộng (Hình 1). Các chỉ tiêu protein, tinh bột 
và xenlulo được phân tích theo TCVN 
3705:1990, TCVN 8765:2012, TCCS 
29:2015/TTPT tại Trung tâm Phân tích và 
Chuyển giao công nghệ môi trường, Viện 
Môi trường Nông nghiệp. Cơ sở phân tích đạt 
tiêu chuẩn theo ISO/IEC17025. 
 (a) (b) 
Hình 1. Lấy mẫu phân tích: (a) Mẫu phụ phẩm và (b) Phân loại phế thải đồng ruộng 
Võ Hữu Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 25 - 30 
27 
Phương pháp phân tích mẫu phế thải trên 
đồng ruộng: Vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật 
được thu gom tại thời điểm đã kết thúc lịch 
phun, vỏ bao bì được phân loại dựa vào thông 
tin trên bao bì. Số lượng, chủng loại được ghi 
chú và đếm tần suất xuất hiện tương ứng với 
lượng sử dụng và phát thải trên đồng ruộng. 
Loại hoạt chất của phế thải được tổng hợp và 
so sánh với Danh mục thuốc BVTV được 
phép sử dụng và cấm sử dụng tại Việt Nam 
ban hành kèm theo thông tư 03/2018/TT-
BNNPTNT ngày 9/2/2018 [1]. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp 
Cư Yên là vùng đất bán sơn địa có tổng diện 
tích đất tự nhiên 1.392,47 ha, trong đó 
1.186,93 ha diện tích đất nông nghiệp, chiếm 
85,24%. Đất được sử dụng để sản xuất nông 
nghiệp và lâm nghiệp lần lượt là 566,7 ha 
(48%) và 610,5 ha (51%), đất nuôi trồng thủy 
sản và đất nông nghiệp khác chiếm một phần 
rất nhỏ khoảng 0,81% (Bảng 1) [8]. 
Bảng 1. Cơ cấu sử dụng đất của xã Cư Yên 
Chỉ tiêu 
Diện tích 
(ha) 
Cơ cấu 
(%) 
Tổng diện tích đất 1392,47 
1. Đất nông nghiệp 1186,93 85,24 
1.1 Đất sản xuất nông 
nghiệp 
 566,70 47,75 
1.2 Đất lâm nghiệp 610,50 51,44 
1.3 Đất nuôi trồng thủy 
sản 
 7,21 0,61 
1.4 Đất làm muối 0 
1.5 Đất nông nghiệp 
khác 
 2,52 0,20 
2. Đất phi nông nghiệp 179,12 12,86 
2.1 Đất ở 39,87 22,25 
2.2 Đất chuyên dùng 120,28 67,15 
2.3 Đất phi nông 
nghiệp khác 
 18,97 10,60 
3. Đất chưa sử dụng 26,42 1,90 
Cơ cấu cây trồng khá đa dạng với diện tích 
cây lúa chiếm 51%; ngô 16%; lạc 7%; sắn 
5%; rau đậu các loại 11% và cây trồng khác 
11%. Tùy theo từng vụ mà các loại cây trồng 
được bố trí khác nhau. 
Phế phụ phẩm đồng ruộng 
Hệ số phát sinh được ước tính cho cây lúa, 
ngô, lạc, rau và đậu tương tại Bảng 2. Hệ số 
phát thải phụ phẩm cây lúa ước tính từ điều 
kiện thực tế là 5,02 tạ/ha, cây ngô là 7,52 
tạ/ha, cây rau 3,6 tạ/ha, cây đậu tương 4 tạ/ha. 
Để đánh giá độ tin cậy của phép ước tính dựa 
vào kinh nghiệm của người dân, hệ số phát 
thải trong nghiên cứu này được so sánh với 
các giá trị được Bộ NN&PTNT công bố năm 
2014. Kết quả cho thấy, hệ số ước tính cho các 
loại cây lúa, ngô, lạc và rau khá tương đồng. 
Hệ số phát thải ước tính cho cây đậu tương 
trong nghiên cứu này khá thấp do số hộ tham 
gia trồng đậu tương khá ít (0,27 ha). Kết quả 
phân tích từ 20 hộ nghiên cứu cho thấy, diện 
tích trồng lúa, ngô và rau là lớn nhất, đây cũng 
là các nguồn phát sinh ra lượng phế phụ phẩm 
lớn nhất trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp. 
Đặc điểm dinh dưỡng của phế phụ phẩm 
Thành phần dinh dưỡng trong phế phụ phẩm 
là nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm môi 
trường, nhưng cũng là thành phần có thể tái 
sử dụng thành các dạng vật liệu hữu ích. 
Trong đó, protein, tinh bột và xenlulo là 3 
thành phần chính (Bảng 3). Kết quả phân tích 
thành phần dinh dưỡng của thân cây ngô, lạc 
và cây cỏ hôi cho thấy hàm lượng xenlulo 
chiếm tỷ lệ cao nhất ở cả 3 loại phế phụ phẩm 
(từ 26,59-36,32%), cao nhất ở mẫu phụ phẩm 
cây cỏ và ngô. Hàm lượng protein và tinh bột 
cao nhất ở cây lạc và cỏ (9,2-11,3% và 5,2-
5,6%). Nghiên cứu này cho thấy, ngoài thành 
phần phế phụ phẩm từ các loại cây trồng 
chính, thân cây cỏ cũng có thể coi là một 
nguồn cung cấp dinh dưỡng trong quá trình 
tái sử dụng phế phụ phẩm đồng ruộng. 
Bảng 2. Thành phần, khối lượng phế phụ phẩm đồng ruộng 
Cây trồng Diện tích 
(ha) 
Năng suất 
(tạ/ha) 
Sản lượng 
(tạ) 
Hệ số phát thải 
(tạ/ha) 
Khối lượng 
(tạ/năm) 
Lúa 10,80 92,60 1000,10 5,02 54,22 
Ngô 2,10 132,20 277,60 7,52 15,80 
Lạc 0,86 45,80 36,40 4,47 3,84 
Rau 4,40 398,20 525,60 3,60 15,63 
Đậu tương 0,20 84,60 22,84 4,00 0,84 
Võ Hữu Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 25 - 30 
28 
Bảng 3. Đặc trưng dinh dưỡng của một số phế phụ phẩm 
Phụ phẩm 
Hàm lượng (%) 
Protein Tinh bột Xenlulo 
Cây ngô 5,10 1,60 34,97 
Cây lạc 11,30 5,60 26,59 
Cây cỏ hôi 9,20 5,20 36,32 
Phương pháp TCVN 3705:1990 TCVN 8765:2012 TCCS 29:2015/TTPT 
Phát sinh phế thải đồng ruộng 
Điều tra phát sinh phế thải đồng ruộng được 
thực hiện theo đặc trưng phân bố của các cánh 
đồng với diện tích khảo sát là 1 ha. Số lượng 
vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật và mức độ sử 
dụng của từng loại thuốc trong cùng nhóm 
của thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, thuốc trừ 
bệnh, thuốc diệt ốc, các loại thuốc khác được 
tổng hợp và phân loại theo thông tư 
03/2018/TT-BNNPTNT [1]. Kết quả nghiên 
cứu thực địa cho thấy người dân áp dụng 50 
loại thuốc bảo vệ thực vật trên đồng ruộng và 
3 loại phân bón. Tỷ lệ sử dụng cao gồm nhóm 
thuốc trừ sâu (29,8%) và thuốc trừ bệnh 
(26,5%) và thuốc trừ cỏ (21,2%) (Hình 2). 
Bên cạnh các loại thuốc bảo vệ thực vật, 
thuốc diệt chuột và kích thích sinh trưởng 
cũng được sử dụng khá phổ biến. Tần suất sử 
dụng các loại thuốc cũng có sự khác nhau ở 
trong cùng nhóm. 
Đối với nhóm thuốc trừ sâu, thuốc Fastocid 
5EC và Địch bách trùng 90sp với các hoạt 
chất alpha cypermethrin và trichlorfon được 
sử dụng ở mức độ cao. Trong đó, hoạt chất 
trichlofon là chất bị cấm sử dụng theo thông 
tư 03/2018/BNNPTNT. Trichlorfon được biết 
đến là thuốc trừ sâu và diệt các côn trùng như 
gián, dế, rệp, bọ chét, ruồi... được áp dụng 
trên phạm vi rộng như rau, hoa quả, đồng 
ruộng, chăn nuôi, cây cảnh, trồng rừng. 
Trichlorfon là chất có độc tính cao. 
Hình 2. Vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật tại vùng 
sản xuất nông nghiệp 
Xử lý phế phụ phẩm, phế thải đồng ruộng 
Từ kết quả điều tra nông hộ thấy rằng phế phụ 
phẩm đồng ruộng được các gia đình xử lý 
bằng nhiều hình thức khác nhau như đốt, làm 
thức ăn gia súc, ủ phân compost, làm nấm 
rơm hoặc bỏ ngay tại ruộng (Bảng 4). Trong 
đó, ủ phân compost là hình thức phổ biến nhất 
(chiếm 70% tổng số hộ). Người dân đã tận 
dụng nguồn phế phụ phẩm có sẵn này (chủ 
yếu là rơm, rạ) để tạo ra phân hữu cơ vừa tiết 
kiệm chi phí đầu vào mà vẫn đảm bảo được 
yêu cầu của thị trường về mặt chất lượng sản 
phẩm (Hình 2). Biện pháp đốt ngay tại ruộng 
(chiếm 10%) được áp dụng vì xử lý nhanh mà 
tốn ít sức lao động. Có 10% số hộ áp dụng phế 
phụ phẩm làm giá thể trồng nấm rơm, đây là 
phương pháp hữu ích đem lại lợi ích về kinh tế, 
thu nhập cho người dân tại địa bàn xã. 
Biện pháp dùng sinh khối thực vật làm thức 
ăn chăn nuôi (chủ yếu là dùng phần thân hoặc 
lá thừa của một số loại rau) chỉ chiếm tỷ lệ 
nhỏ 5% vì lí do lượng thức ăn này không 
đáng kể. Hình thức bỏ chúng tại ruộng cũng ít 
được thực hiện vì đa số người dân đều ý thức 
được phế phụ phẩm là nguồn tài nguyên. 
Bảng 4. Hình thức xử lý phụ phẩm đồng ruộng 
TT Hình thức sử dụng Số hộ Tỷ lệ (%) 
1 Ủ phân Compost 14 70 
2 Làm nấm rơm 2 10 
3 Đốt 2 10 
4 Làm thức ăn chăn nuôi 1 5 
5 Bỏ tại ruộng 1 5 
 Tổng 20 100 
Hình 3. Mô hình ủ phân compost từ rơm rạ và 
trấu trên địa bàn xã 
Võ Hữu Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 25 - 30 
29 
Trong khi đó, phế thải đồng ruộng chưa được 
xử lý đúng cách. Phế thải được thu gom định 
kỳ và xử lý bằng biện pháp đốt cùng với rác 
thải sinh hoạt. Một số người dân nhận thức 
được vấn đề ô nhiễm môi trường do dư lượng 
hoá chất bảo vệ thực vật gây ra đã tiến hành 
thu gom cho vào túi nilon mang đi sau khi 
phun, nhưng đa số vẫn để bao bì lại ở một số 
khu vực trên cánh đồng. Theo đánh giá của 
người dân, để quản lý hiệu quả phế thải đồng 
ruộng, đặc biệt là vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực 
vật thì nên đặt các bể thu gom tại các vị trí 
giao nhau của các cánh đồng, thuận lợi cho 
việc thu gom và chuyển đi xử lý định kỳ. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu đã ước tính tổng lượng phụ phẩm 
đồng ruộng cho toàn xã là 301,98 tấn/năm; 
trong đó, cây lúa là 180,32 tấn/năm, cây ngô 
74,45 tấn/năm, cây lạc 17,84 tấn/năm, cây rau 
24,37 tấn/năm, cây đậu tương 5 tấn/năm. 
Lượng phế thải phát sinh chủ yếu là vỏ bao bì 
thuốc bảo vệ thực vật và bao bì phân bón với 
khoảng 50 loại thuốc bảo vệ thực vật và 3 loại 
phân bón. Tỷ lệ sử dụng cao gồm nhóm thuốc 
trừ sâu (29,8%) và thuốc trừ bệnh (26,5%) và 
thuốc trừ cỏ (21,2%). Trong các loại thuốc trừ 
sâu, hoạt chất Trichlofon đã bị cấm sử dụng 
theo thông tư 03/2018/BNNPTNT nhưng vẫn 
được sử dụng khá phổ biến. 
Phế phụ phẩm được thu gom cho việc ủ phân 
hữu cơ, dùng làm giá thể trồng nấm và thức 
ăn cho trâu bò. Nghiên cứu này đề xuất việc 
đánh giá rủi ro môi trường khi sử dụng phụ 
phẩm bị lẫn tạp với các loại hoá chất bảo vệ 
thực vật. 
LỜI CÁM ƠN 
Nhóm tác giả cảm ơn Học viện Nông nghiệp 
Việt Nam đã hỗ trợ kinh phí từ đề tài (T2017-
01-03 ĐTN) cho nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn 
(2018), Thông tư 03/2018/TT-BNNPTNT, Ban 
hành Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng 
và cấm sử dụng tại Việt Nam, ngày 9/2/2018. 
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Báo cáo 
Môi trường Quốc gia-Môi trường nông thôn 2014: 
Chương 1. 
3. Đinh Hồng Duyên, Phạm Thị Thảo Nguyên, 
Phạm Thuý Kiều (2010), “Đánh giá đặc tính sinh 
học và định tên nấm dùng trong xử lý phế thải 
nông nghiệp”, Tạp chí Khoa học và Phát triển, 
8(2), tr. 287-295. 
4. Trần Sỹ Nam, Nguyễn Thị Huỳnh Như, Nguyễn 
Hữu Chiếm, Nguyễn Võ Châu Ngân, Lê Hoàng 
Việt và Kjeld Ingvorsen (2014), “Ước tính lượng 
và các biện pháp xử lý rơm rạ ở một số tỉnh đồng 
bằng sông cửu long”, Tạp chí Khoa học Trường 
Đại học Cần Thơ, Phần A: Khoa học Tự nhiên, 
Công nghệ và Môi trường, 32, tr. 87-93. 
5. Phạm Châu Thuỳ, Đỗ Thị Mai, Nghiêm Trung 
Dũng (2018), “Xác định mức độ phát thải của một 
số chất ô nhiễm không khí từ quá trình đốt rạ trên 
đồng ruộng tại Gia Lâm, Hà Nội”, Tạp chí Khoa 
học Nông nghiệp Việt Nam, 16(2), tr. 152-160. 
6. UBND xã Cư Yên (2016a), Báo cáo kết quản lý 
và sử dụng đất đai năm 2016, nhiệm vụ quản lý sử 
dụng đất đai năm 2017, Số 79 BC/UBND. 
7. UBND xã Cư Yên (2016b), Báo cáo kiểm điểm 
công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2016, 
và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 
2017, Số 60 – BC/ĐU. 
8. UBND xã Cư Yên (2017), Báo cáo tình hình 
kinh tế-xã hội năm 2017. 
9. Burange A., Clark J. H., Luque R. (2016), 
Trends in food and agricultural waste 
valorization, Encyclopedia of Inorganic and 
Bioinorganic Chemistry, John Wiley & Sons, Ltd. 
10. Hashemian S., Salari K., Yazdi Z. A. (2014), 
“Preparation of activated carbon from agricultural 
wastes (almond shell and orange peel) for 
adsorption of 2-pic from aqueous solution”, 
Journal of Industrial and Engineering Chemistry, 
20, pp. 1892–1900. 
11. Kamthan R., Tiwari I. (2017), “Agricultural 
wastes-potential substrates for mushroom 
cultivation”, European Journal of Experimental 
Biology, 7(5), pp. 31. 
12. Kung C., Kong F., Choi Y. (2015), “Pyrolysis 
and biochar potential using crop residues and 
agricultural wastes in China”, Ecological 
Indicators, 51, pp. 139-145. 
13. Naser H. M., Nagata O., Tamura S., Hatano R. 
(2007), “Methane emissions from five paddy 
fields with different amounts of rice straw 
application in central Hokkaido, Japan”, Soil 
Science and Plant Nutrition, 53(1), pp. 95-101. 
Võ Hữu Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 25 - 30 
30 
14. Soleimani M., Kaghazchi T. (2007), 
“Agricultural waste conversion to activated carbon 
by chemical activation with phosphoric acid”, 
Cheminal Engineering and Technology, 30(5), pp. 
649-654. 
15. Srinivasan P., Sarmah A. K., (2015), 
“Characterisation of agricultural waste-derived 
biochars and their sorption potential for 
sulfamethoxazole in pasture soil: A spectroscopic 
investigation”, Science of the Total Environment, 
502, pp. 471–480. 
16. Sud D., Mahajan G., Kaur M. P. (2008), 
“Agricultural waste material as potential adsorbent 
for sequestering heavy metal ions from aqueous 
solutions - A review”, Bioresource Technology, 
99, pp. 6017–6027. 
17. Thines K. R., Abdullah E. C., Mubarak N. M., 
Ruthiraan M. (2017), “Synthesis of magnetic 
biochar from agricultural waste biomass to 
enhancing route for waste water and polymer 
application: A review”, Renewable and 
Sustainable Energy Reviews, 67, pp. 257-276. 
18. Yagi K., Minami K. (1990), “Effect of organic 
matter application on methane emission from 
some Japanese paddy fields”, Soil Science and 
Plant Nutrition, 36(4), pp. 599-610. 
19. Zhou C., Liu Z., Huang Z. L., Dong M., Yu X. 
L., Ning P. (2015), “A new strategy for co-
composting dairy manure with rice straw: 
Addition of different inocula at three stages of 
composting”, Waste Management, 40, pp. 38–43. 
SUMMARY 
AGRICULTURAL RESIDUES AND FIELD WASTES GENERATION IN CU YEN 
COMMUNE, LUONG SON DISTRICT, HOA BINH PROVINCE 
Vo Huu Cong
*
, Le Thi Thu Uyen, Nguyen Thanh Lam, Pham Van Cuong 
Vietnam National University of Agriculture 
This research aims to investigates agricultural residues and wastes generated from organic agricultural 
production and its reultilization. Crop residues were identified on rice, maize, peanut, vegetable and 
soybean cultivation. The field waste generation was measured by total sampling plot area of 1 ha, types 
of wastes was classified reffered to circular 03/2018/BNNPTNT. The results show total amount of 
residues was estimated about 301.98 tons/year, of which, rice is 180.32 tons/year, maize is 74.45 
tons/year, peanut is 17.84 tons/year, vegetable is 24.37 tons/year, and soybean is 5 tons/year. The field 
wastes are the inappropriate disposal bags containing 50 active chemicals from pesticides and 3 
branches of fertilizers. The highly usage rates are pesticides (29.8%) and fungicides (26.5%) and 
herbicides (21.2%). In particular, Trichlofon which has been banned was found in the field. The 
residues are recycled for organic fertilizer by composting technique (70%), substrate for mushroom 
cultivation or animal feed (20%). It is suggested that reultilization of crop residues for organic fertilizer 
and feeding livestock need to aware the presence of pesticide. 
Keywords: crop residues, field waste, organic fertilizer, pesticide, tricloforn 
Ngày nhận bài: 23/7/2018; Ngày phản biện: 24/8/2018; Ngày duyệt đăng: 31/10/2018 
*
 Tel: 0981 954624, Email: vhcong@vnua.edu.vn 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_phat_sinh_phe_phu_pham_phe_thai_dong_ruong_tai_xa_c.pdf