Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Thận Hà Nội

Điều trị và kiểm soát thiếu máu đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng,

hiệu quả điều trị thận nhân tạo. Nghiên cứu tiến hành trên 61 bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựa

chọn và tiêu chuẩn loại trừ. Tiến hành thu thập số liệu từ hồ sơ bệnh án theo phương pháp hồi cứu,

mô tả, theo dõi dọc trong 6 tháng. Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel Office 2010

và R. Kết quả cho thấy bệnh nhân tại đây sử dụng đồng thời cả 2 loại EPO alpha và EPO beta. Tỷ

lệ sử dụng EPO beta chiếm 23%, EPO alpha là 77%. Dạng bào chế đông khô (EPO alpha) được sử

dụng nhiều nhất. Bắt đầu từ T3, Hb trung bình đạt đích điều trị. Không có bất thường trên huyết áp,

số lượng bạch cầu, tiểu cầu, điện giải đồ.

pdf 11 trang dienloan 8040
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Thận Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Thận Hà Nội

Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Thận Hà Nội
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
65 
Original Article 
Evaluation of the Usage of Erythropoietin in Patients with 
End-Stage Chronic Kidney Disease Dialysis Cycle in Hanoi 
Nephrology Hospital 
Do Thi Hoa1,*, Nguyen Thi Tuyet Trinh1, Nguyen Thi Lien Huong2, Phan Tung Linh1 
1Hanoi Nephrology Hospital, 70 Nguyen Chi Thanh, Dong Da, Hanoi, VietNam 
2Hanoi University of Pharmacy, 13-15 Le Thanh Tong, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam 
Received 05 February 2020 
Revised 18 February 2020; Accepted 20 March 2020 
Abstract: Treatment and control of anemia plays an important role in improving the quality and 
effectiveness of artificial kidney. The study was conducted on 61 patients who met the selection and 
were not included in the excluded criteria group. Collecting data from medical records using 
retrospective, descriptive, vertical follow-up method for 6 months. Data were processed using 
Microsoft Excel Office 2010 and R. The results showed that patients used both EPO alpha and EPO 
beta simultaneously. Rate of usage’s EPO beta accounted for 23%, alpha EPO was 77%. Lyophilized 
form (EPO alpha) is most commonly used. Starting from T3, Hb. averages treat. There were no 
abnormalities in blood pressure, white blood cell, platelets, and electrolytes. 
Keywords: Hanoi Kidney Hospital, EPO (erythropoietin), Hb, efficacy and safety.*
________ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: thacsyhoa@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4202 
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
 66 
Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên bệnh 
nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ 
 tại Bệnh viện Thận Hà Nội 
Đỗ Thị Hòa1,*, Nguyễn Thị Tuyết Trinh1, Nguyễn Thị Liên Hương2, Phan Tùng Lĩnh1 
1Bệnh viện Thận Hà Nội, 70 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 
2Trường Đại học Dược Hà Nội, 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 05 tháng 02 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 02 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 3 năm 2020 
Tóm tắt: Điều trị và kiểm soát thiếu máu đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, 
hiệu quả điều trị thận nhân tạo. Nghiên cứu tiến hành trên 61 bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựa 
chọn và tiêu chuẩn loại trừ. Tiến hành thu thập số liệu từ hồ sơ bệnh án theo phương pháp hồi cứu, 
mô tả, theo dõi dọc trong 6 tháng. Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel Office 2010 
và R. Kết quả cho thấy bệnh nhân tại đây sử dụng đồng thời cả 2 loại EPO alpha và EPO beta. Tỷ 
lệ sử dụng EPO beta chiếm 23%, EPO alpha là 77%. Dạng bào chế đông khô (EPO alpha) được sử 
dụng nhiều nhất. Bắt đầu từ T3, Hb trung bình đạt đích điều trị. Không có bất thường trên huyết áp, 
số lượng bạch cầu, tiểu cầu, điện giải đồ. 
Từ khóa: Bệnh viện Thận Hà Nội, EPO (thuốc tạo hồng cầu), chỉ số Hb, hiệu quả và tính an toàn. 
1. Đặt vấn đề 
Bệnh thận mạn (BTM) là một trong các bệnh 
mạn tính đang ngày càng trở nên phổ biến trên 
thế giới, thường để lại hậu quả nặng nề. Qua 
nhiều nghiên cứu ở Mỹ cho thấy tỷ lệ mắc BTM 
khoảng 10-13% số người trưởng thành [1]. Cùng 
với sự gia tăng của BTM, số người mắc BTM 
giai đoạn cuối (BTMGĐC) cũng tăng lên nhanh 
chóng. Năm 1991 tại Mỹ có 196.000 người mắc 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: thacsyhoa@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4202 
BTMGĐC, đến năm 2000 con số này là 382.000 
bệnh nhân, tỷ lệ mắc mới trong thời kỳ này từ 
53.000 đến 93.000 người mỗi năm [2]. 
Thận nhân tạo (TNT) là một trong 3 phương 
pháp điều trị thay thế thận chủ yếu đối với bệnh 
nhân BTM. Điều trị và kiểm soát thiếu máu đóng 
vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất 
lượng, hiệu quả điều trị TNT. Bệnh nhân 
BTMGĐC sử dụng thuốc tạo hồng cầu thường 
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
67 
xuyên và kéo dài do đó việc theo dõi đánh giá 
hiệu quả sử dụng thuốc là cần thiết. 
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều nghiên 
cứu đánh giá về hiệu quả điều trị của thuốc tạo 
hồng cầu trên bệnh nhân BTMGĐC lọc máu chu 
kỳ [3]. Tại Việt Nam vấn đề này đã được công 
bố trong một số nghiên cứu [4, 5]. Bệnh viện 
Thận Hà Nội đã triển khai đưa thuốc tạo hồng 
cầu để điều trị thiếu máu cho bệnh nhân ngay từ 
khi bắt đầu triển khai kỹ thuật TNT, cho đến nay 
chưa có công bố nào đánh giá sử dụng thuốc tạo 
hồng cầu. Từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu này với hai mục tiêu: 1. Khảo sát 
thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên bệnh 
nhân BTMGĐC lọc máu chu kỳ. 2. Đánh giá 
hiệu quả và tính an toàn của thuốc tạo hồng cầu 
sử dụng trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu. 
2. Đối tượng và phương pháp 
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu được 
tiến hành trên các bệnh nhân BTMGĐC, bắt đầu 
được chỉ định điều trị TNT chu kỳ tại Bệnh viện 
Thận Hà Nội thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn và 
loại trừ sau: 
Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả bệnh nhân 
BTMGĐC bắt đầu được chỉ định điều trị TNT 
chu kỳ tại Bệnh viện Thận Hà Nội từ 01/7/2017 
đến 30/6/2018. Bệnh nhân được theo dõi điều trị 
liên tục trong 06 tháng kể từ khi bắt đầu lọc máu 
tại bệnh viện Thận. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không đủ 06 
tháng điều trị; có bệnh lý cấp tính ảnh hưởng đến 
nồng độ Hb, số lượng hồng cầu (ví dụ: bệnh lý 
về máu, xuất huyết tiêu hóa); suy thận mạn với 
các bệnh lý mắc kèm như: Ung thư, bệnh thuộc 
hệ tạo máu (bất sản tủy, rối loạn tạo máu), 
bệnh nhân đang có thai, trẻ em. 
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả, 
theo dõi dọc dựa trên thông tin thu thập từ bệnh án. 
Bệnh nhân được theo dõi liên tục trong 06 tháng. 
Cỡ mẫu nghiên cứu: 61 bệnh nhân thỏa mãn 
tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ. 
Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thu 
thập từ hồ sơ bệnh án của bệnh nhân, thu thập 
dọc 06 thời điểm từ T1 đến T6 tương ứng với 
mỗi tháng điều trị. 
Nội dung nghiên cứu: 
+ Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng 
cầu trên bệnh nhân BTMGĐC lọc máu chu kỳ. 
- Đặc điểm của nhóm bệnh nhân nghiên cứu: 
Tuổi, giới, nguyên nhân dẫn đến BTMGĐC, 
bệnh lý mắc kèm, đặc điểm cận lâm sàng thiếu 
máu khi nhập viện. 
- Đặc điểm EPO sử dụng trong thời gian 
nghiên cứu: Các loại EPO sử dụng, phân bố bệnh 
nhân tương ứng với các loại EPO sử dụng, thời 
điểm sử dụng, đường tiêm EPO, liều khởi đầu, 
liều duy trì, tỷ lệ sử dụng các mức liều, tần suất 
cho thuốc. 
+ Đánh giá hiệu quả điều trị và tính an toàn 
của thuốc tạo hồng cầu sử dụng trên nhóm bệnh 
nhân nghiên cứu. 
- Đánh giá hiệu quả điều trị thiếu máu: dựa 
trên các chỉ số huyết học: Hb, RBC; số trường 
hợp cần truyền máu; việc cải thiện triệu chứng 
lâm sàng; sự thay đổi nồng độ sắt huyết thanh, 
ferritin tại các thời điểm. 
- Đánh giá tính an toàn khi sử dụng thuốc tạo 
hồng cầu: Trên chỉ số huyết áp, số lượng bạch 
cầu, tiểu cầu, điện giải đồ, các ADR xuất hiện 
trong quá trình nghiên cứu. 
Phương pháp xử lý số liệu: Xử lý bằng 
Microsoft Excel Office 2010 và R. Kết quả được 
biểu diễn dưới dạng X ± SE (X: giá trị trung bình, 
SE: sai số chuẩn), tỷ lệ %. So sánh 2 giá trị trung 
bình bằng t - test. Sự khác biệt được coi là có ý 
nghĩa thống kê khi p < 0,05. 
3. Kết quả 
+ Thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên 
bệnh nhân BTMGĐC lọc máu chu kỳ tại Bệnh 
viện Thận Hà Nội. 
Lựa chọn 61 bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn 
được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình của 
nhóm bệnh nhân là 47,7 ± 13,9 tuổi. Phân bố giới 
tính nam: nữ là 41:20, viêm cầu thận mạn và tăng 
huyết áp là 2 nguyên nhân chiếm tỷ lệ lớn nhất 
gây BTM (37,7% và 18%), bệnh mắc kèm phổ 
biến là đái tháo đường (31,1%) và tăng huyết áp 
(18,8%). 
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
68 
- Đặc điểm cận lâm sàng thiếu máu khi 
nhập viện. 
Hình 1. Đặc điểm cận lâm sàng thiếu máu khi 
nhập viện. 
Nhận xét: Số bệnh nhân khi bắt đầu nhập 
viện có Hb< 90g/L chiếm tỷ lệ lớn nhất (54,1%). 
Tiếp đến là bệnh nhân có Hb từ 90-100g/L chiếm 
32,8%. Không ghi nhận được trường hợp nào 
bệnh nhân có Hb> 130g/L khi bắt đầu nhập viện. 
- Đăc điểm EPO sử dụng. 
Hình 2. Tỷ lệ sử dụng EPO qua các thời điểm. 
Nhận xét: Dạng bào chế đông khô (hemax) 
được sử dụng nhiều nhất. Tỷ lệ sử dụng biệt dược 
gốc (eprex) ổn định trong thời gian nghiên cứu. 
100% thuốc được dùng đường tiêm tĩnh mạch. 
Đa số bệnh nhân được chỉ định dùng EPO ngay 
trong tháng đầu tiên lọc máu. Có 3 bệnh nhân 
không được chỉ định dùng EPO tại T1 trong đó 
có 2 bệnh nhân có Hb<90g/L (1 bệnh nhân mới 
và 1 bệnh nhân đã lọc máu) và 1 bệnh nhân có 
Hb>100g/L. 
- Liều duy trì hàng tháng. 
Hình 3. Phân bố bệnh nhân tương ứng với các mức liều dùng . 
Nhận xét: Mức liều phổ biến ở các tháng từ 
T1-T6 là 18000UI – 22000UI. Tỷ lệ sử dụng 
mức liều <12000UI/tháng là thấp nhất. Ở T1, 
mức liều 12000UI-16000UI chiếm tỷ lệ lớn nhất 
(54,1%) sau đó giảm dần qua các tháng. Mức 
liều ≥24000UI chiếm tỷ lệ nhỏ nhất ở T1 (4,9%), 
0.0%
10.0%
20.0%
30.0%
40.0%
50.0%
60.0%
70.0%
T1 T2 T3 T4 T5 T6
%
Thời điểm (tháng)
<12000
12000-16000
18000-22000
≥24000
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
69 
từ T2-T6, tỷ lệ % mức liều này tăng lên, dao 
động trong khoảng 16,4% (T3)-21,3%(T5). Tần 
suất cho thuốc phổ biến là 8-9 lần/tháng. 
+ Hiệu quả và an toàn của thuốc tạo hồng cầu 
trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu. 
+ Đánh giá hiệu quả điều trị thiếu máu thông 
qua các chỉ số huyết học. 
- Thay đổi Hb qua 6 tháng. 
Hình 4. Thay đổi Hb qua 6 tháng điều trị. 
Nhận xét: Từ T1-T6, Hb trung bình của bệnh 
nhân có xu hướng tăng, Hb trung bình đạt đích 
101g/L bắt đầu từ thời điểm T3. Cụ thể, từ T1-
T6 nồng độ Hb trung bình tăng lên rõ rệt, tại T1 
Hb trung bình là 93,4g/L, tại T6 Hb trung bình 
của bệnh nhân là 105g/L. Tuy nhiên, tại các thời 
điểm nồng độ Hb<100g/L vẫn còn nhiều. Sự 
khác biệt giữa Hb trung bình ở các tháng so với 
Hb tại T0 là có ý nghĩa thống kê (P<0,05). 
- Tỷ lệ bệnh nhân có Hb đạt đích điều trị tại 
các thời điểm. 
Hình 5. % Hb đạt đích tại các thời điểm nghiên cứu. 
Hb trung bình 
Thời điểm (tháng) 
Thời điểm (tháng) 
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
70 
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có Hb đạt đích 
điều trị cao nhất tại T2 đạt 38.3%. Tỷ lệ bệnh 
nhân có Hb dưới đích điều trị cao nhất ở T1 
(68,9%) sau đó giảm dần và thấp nhất tại T4, T5 
(38,3%). Tỷ lệ bệnh nhân có Hb> 115g/L thấp 
nhất ở T1 (3,5%) sau đó tăng dần, cao nhất tại 
T5 (28,4%). 
- Thay đổi hồng cầu qua 6 tháng điều tri. 
Hình 6. Thay đổi số lượng hồng cầu qua 6 tháng điều trị 
Nhận xét: RBC trung bình của nhóm bệnh 
nhân nghiên cứu có xu hướng tăng lên, Thấp nhất 
ở T1 là 3,27G/L, các tháng T4, T5, T6 mức RBC 
xấp xỉ nhau (3,61-3,63 G/L). Đa số bệnh nhân có 
RBC dưới 3,5G/L. Mức RBC trung bình của nữ 
là 3,8-5,0G/L và của nam là 4,2-6,0G/L. Như 
vậy mức RBC của nhóm bệnh nhân nghiên cứu 
thấp hơn ngưỡng RBC bình thường. 
+ Hiệu quả EPO thể hiện trên số trường hợp 
cần truyền máu. 
Bảng 1. Số bệnh nhân được chỉ định truyền máu trong thời gian nghiên cứu 
Thời điểm T1 T2 T3 T4 T5 T6 
∑ 5 4 2 0 1 2 
Nhận xét: Trong thời gian nghiên cứu, hầu 
hết các bệnh nhân không có chỉ định truyền máu. 
Từ T1- T4, số lượng bệnh nhân cần truyền máu 
giảm từ 5 bệnh nhân đến không có bệnh nhân nào 
cần truyền máu. Tại T5 có 1 bệnh nhân cần truyền 
máu và T6 có 2 bệnh nhân cần truyền máu. 
+ Số bệnh nhân có nồng độ Hb > 130g/L (nếu 
có) tại các thời điểm nghiên cứu. 
Theo VUNA 2013, không được để nồng độ 
Hb > 130 g/L. Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo 
sát số bệnh nhân có mức Hb>130g/L. 
Bảng 2. Số bệnh nhân có nồng độ Hb > 130 g/l tại các thời điểm nghiên cứu 
 Hb 
 (g/l) 
Số bệnh nhân 
T1 T2 T3 T4 T5 T6 
> 130 0 1 
1 2 0 1 
RBC trung bình 
Thời điểm (tháng) 
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
71 
Nhận xét: Nhận thấy, trong 6 tháng nghiên 
cứu, có tất cả 4 bệnh nhân có Hb trung bình tại 
các thời điểm >130g/L, Tại T1 và T5, không có 
bệnh nhân nào có Hb>130g/L. Trong 2 bệnh 
nhân tại T4 có 1 bệnh nhân tiếp tục có 
Hb>130g/L tại T6. 
+ Tốc độ tăng Hb. 
Theo VUNA 2013, mục tiêu điều trị bằng 
thuốc kích thích sinh hồng cầu ban đầu là tốc độ 
tăng Hb 10 - 20 g/L mỗi 4 tuần, không được để 
nồng độ Hb tăng trên 20 g/L trong 4 tuần. Do đó, 
nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát tỷ lệ bệnh 
nhân có tốc độ Hb vượt quá 20g/l. 
Bảng 3. Chênh lệch Hb giữa hai thời điểm liền kề 
∆Hb (g/L)* T2-T1 T3-T2 T4-T3 T5-T4 T6-T5 
∆Hb > 20 6 2 2 1 0 
∆Hb ≤ 20 52 58 58 59 57 
∑ 58 60 60 60 57 
*∆Hb = Hb thời điểm sau – Hb thời điểm trước 
Nhận xét: Trong 6 tháng nghiên cứu, hầu hết 
bệnh nhân có tốc độ thay đổi Hb trong khoảng 
cho phép (<20g/L). Tuy nhiên, ở các tháng vẫn 
có các bệnh nhân có tốc độ thay đổi Hb >20g/L. 
Số bệnh nhân có ∆Hb > 20 giảm dần qua các 
tháng. Tại T2, có 6 bệnh nhân có ∆Hb >20g/L, 
T3 và T4 có 2 bệnh nhân, T5 có 1 bệnh nhân và 
đến T6 không có bệnh nhân nào có ∆Hb > 20g/L. 
+ Đánh giá sự thay đổi nồng độ sắt huyết 
thanh, ferritin tại các thời điểm. 
- Thay đổi nồng độ sắt huyết thanh qua 6 tháng. 
Hình 7. Thay đổi sắt huyết thanh tại các thời điểm nghiên cứu. 
Nhận xét: Nồng độ sắt huyết thanh trung 
bình có xu hướng giảm, tuy nhiên cũng không 
biến động nhiều. Tại T1 nồng độ sắt huyết thanh 
trung bình là 40,2µmol/l và T6 nồng độ này là 31 
µmol/l. Giá trị sắt huyết thanh bình thường là từ 
6,6 µmol/l- 28 µmol/l. Như vậy, tuy nồng độ sắt 
huyết thanh trung bình có xu hướng giảm nhưng 
vẫn ở mức cao so với khoảng giá trị bình thường. 
- Thay đổi nồng độ ferritin qua 6 tháng 
nghiên cứu. 
Nhận xét: Nồng độ Ferritin trung bình khá ổn 
định và ít dao động trong khoảng thời gian 
nghiên cứu, dao động trong khoảng 201µg/L - 
280µg/L (nằm trong khoảng giá trị bình thường 
30 - 400 µg/L). 
- Hiệu quả EPO thể hiện trên lâm sàng. 
Bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng thiếu 
máu chiếm tỷ lệ cao nhất tại thời điểm T1 và 
giảm dần qua các tháng. 
Fe huyết thanh trung bình 
Thời điểm (tháng) 
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
72 
+ Các tác dụng không mong muốn khi sử 
dụng EPO: 
Huyết áp, số lượng bạch cầu, tiều cầu, điện 
giải đồ không có gì bất thường. Không ghi nhận 
biến cố bất lợi nào trong quá trình nghiên cứu. 
Hình 8. Thay đổi nồng độ Ferritin tại các thời điểm nghiên cứu. 
Bàn luận 
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành 
trên 61 bệnh nhân điều trị TNT chu kỳ. Thời gian 
theo dõi dọc trong 06 tháng kể từ khi bệnh nhân 
có chỉ định điều trị thận nhân tạo tại Bệnh viện 
Thận Hà Nội. 
Đặc điểm sử dụng EPO. 
Loại và biệt dược EPO sử dụng. 
Theo kết quả khảo sát về loại EPO được sử 
dụng, chúng tôi nhận thấy bệnh nhân được sử 
dụng hai loại erythropoietin là alpha và beta, 
trong đó tỷ lệ bệnh nhân được sử dụng EPO 
alpha cao hơn nhiều so với EPO beta. Kết quả 
này là do EPO alpha được rất nhiều hãng dược 
phẩm nghiên cứu phát triển sau khi thuốc gốc hết 
hạn bảo hộ bản quyền. 
Trong thời gian nghiên cứu, các loại thuốc 
được sử dụng bao gồm Hemax, Nanokin, Eprex 
và Recormon. Đặc điểm của các loại thuốc này 
đều là bơm tiêm/lọ đóng sẵn 2000 UI, nên liều 
EPO mỗi lần sử dụng cố định là 2000 UI (1 bơm) 
hoặc 4000UI (2 bơm). Trong 4 loại cũng chỉ ghi 
nhận biệt dược gốc duy nhất là Eprex. Tỷ lệ sử 
dụng biệt dược Eprex không có nhiều sự thay đổi 
ở các tháng từ T1 đến T6, dao động từ 21,3%-
26,0% (cao nhất tại T4). 
Về đường dùng: 
Trong nghiên cứu, 100% bệnh nhân được sử 
dụng EPO đường tiêm tĩnh mạch. Kết quả này 
giống với nghiên cứu của Nguyễn Thị Uyên tại 
Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn năm 2016 [6] và 
nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền tại Bệnh viện 
Đa khoa Thái Bình năm 2015 [4]. Tuy nhiên, 
nghiên cứu của Bùi Thị Tâm năm 2011 tại Bệnh 
viện Đa khoa Tỉnh Điện Biên thì cho thấy 100% sử 
dụng EPO đường tiêm dưới da [7]. Tháng 
3/2014, Cục quản lý Dược ra công văn số 
4764/QLD-ĐK, có những bổ sung liên quan đến 
đường dùng các chế phẩm Epoetin alpha. Theo 
công văn này, EPO alpha nên được sử dụng bằng 
đường tiêm tĩnh mạch trên bệnh nhân BTM đang 
được lọc máu chu kỳ [8]. 
Liều dùng và tần suất cho thuốc: 
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ tập trung 
khảo sát thực trạng sử dụng EPO trên những 
bệnh nhân lọc máu chu kỳ trong 06 tháng điều trị 
kể từ khi bắt đầu nhập viện. 
Đối với nhóm bệnh nhân nghiên cứu có tỷ lệ 
Hb < 90g/L khá lớn (54,1%), tiếp đến là nhóm 
bệnh nhân có Hb từ 90 – 100 g/L (chiếm 32,8%) 
Ferritin trung bình 
Thời điểm (tháng) 
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
73 
theo các Guidelines cần phải bổ sung EPO để 
đưa Hb về mức khuyến cáo [9], do vậy tại T1 đối 
với một số bệnh nhân có mức Hb < 90g/L các 
bác sĩ thường sử dụng biệt dược gốc để nâng 
nồng độ Hb lên mức khuyến cáo. Sau khi ổn định 
thường cân nhắc lựa chọn chuyển sang hai loại 
thuốc tương tự sinh học còn lại để giảm chi phí 
điều trị. Điều này giải thích lý do các thời điểm 
T4, T5, T6 tỷ lệ sử dụng thuốc tương tự sinh học 
tăng dần. 
Mức liều được dùng phổ biến nhất trên nhóm 
bệnh nhân nghiên cứu là 12000-18000UI tương 
đương với 6-9 ống/tháng, mức liều phổ biến trên 
1 lần đưa thuốc là 2000UI/1 lần, mức liều quy 
đổi theo cân nặng trung bình của bệnh nhân phù 
hợp với khuyến cáo (50-100IU/kg). Kết quả của 
chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Triệu Thị 
Tuyết Vân thực hiện tại Khoa TNT Bệnh viện 
Bạch Mai năm 2009 với mức liều phổ biến là 
16000-20000UI/tháng [5] và nghiên cứu của 
Nguyên Thị Uyên tại Bệnh viện Xanh Pôn năm 
2016 với mức liều phổ biến là 16000-
18000UI/tháng [6]. Khảo sát tần suất sử dụng 
thuốc trong 6 tháng, chúng tôi cũng ghi nhận 
được tần suất sử dụng phổ biến là 8-9 lần sử dụng 
EPO/tháng. Đa số, bệnh nhân lọc máu 3 lần/tuần, 
số lần lọc trung bình của bệnh nhân là 11,6 
lần/tháng. 
Bổ sung sắt và các xét nghiệm thăm dò sắt: 
Đa số bệnh nhân được bổ sung đầy đủ sắt 
tĩnh mạch trong 06 tháng nghiên cứu. Kết quả 
nồng độ sắt huyết thanh và ferritin trung bình 
cũng cho thấy hai giá trị này luôn ở ngưỡng bình 
thường tại các thời điểm nghiên cứu. 
Trong thời gian nghiên cứu, bệnh nhân được 
làm các xét nghiệm về sắt vào thời điểm T1, T3, 
T5 tuy nhiên không phải tất cả bệnh nhân. 
Nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền tại bệnh viện 
Thái Bình cho thấy tất cả bệnh nhân đều được xét 
nghiệm chỉ số sắt huyết thanh hai tháng một lần 
nhưng không có xét nghiệm ferritin huyết thanh 
[4]. Theo khảo sát từ nghiên cứu của Bùi Thị 
Tâm tại Bệnh viện Đa khoa Điện Biên, xét 
nghiệm tình trạng sắt không được tiến hành tại 
đây [7]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Uyên cho 
thấy tại Đơn nguyên thận nhân tạo, Bệnh viện đa 
khoa Xanh Pôn cũng đã có xét nghiệm sắt, 
ferritin huyết thanh, song vẫn thiếu xét nghiệm 
độ bão hòa transferin [6]. Hiện tại xét nghiệm độ 
bão hòa transferin huyết thanh không nằm trong 
danh mục thanh toán của bảo hiểm y tế do vậy hầu 
hết các bệnh nhân chưa được làm xét nghiệm này. 
Hiệu quả và an toàn của EPO trong điều trị 
thiếu máu: 
Nồng độ Hb mục tiêu khi điều trị bằng EPO 
trên bệnh nhân lọc máu chu kì có sự khác nhau 
giữa các hướng dẫn điều trị. Theo KDIGO 2012 
và VUNA 2013 [9, 10] nhóm nghiên cứu đề xuất 
khoảng nồng độ Hb mục tiêu là từ 100-115 g/L. 
Hiệu quả của EPO trong điều trị. 
Về nồng độ huyết sắc tố. 
Nồng độ huyết sắc tố lưu hành trong máu là 
chỉ số quan trọng để đánh giá thiếu máu. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi. Hb trung bình của 
bệnh nhân có xu hướng tăng lên và nằm trong 
khoảng khuyến cáo điều trị (90-115g/L). Từ T1-
T6 nồng độ Hb trung bình tăng lên rõ rệt. T1 Hb 
trung bình là 93,4 g/L, T6 Hb trung bình của 
bệnh nhân là 105g/L. Tuy nhiên, tại các thời 
điểm nồng độ Hb<100g/L vẫn còn nhiều, đặc 
biệt là tại thời điểm T1, qua các tháng nhóm có 
Hb<100g/L có xu hướng giảm. Trong nghiên 
cứu của Bùi Thị Tâm cho thấy Hb trung bình của 
các bệnh nhân tại các thời điểm đều >100g/L, tỷ 
lệ bệnh nhân đạt mức 100-120g/L trên 50% [9]. 
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Uyên tại Bệnh viện 
Đa khoa Xanh Pôn cho thấy mức Hb trung bình 
luôn <100g/L [6]. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi, bắt đầu từ T3 bệnh nhân đạt mức Hb trung 
bình là 100g/L. 
Bệnh nhân có Hb vượt ngưỡng chiếm 1 tỷ lệ 
rất nhỏ. Tại các tháng vẫn có rải rác 1 bệnh nhân 
có Hb> 130g/L (tại T2, T3, T4, T6) và các bệnh 
nhân này là khác nhau. Các thời điểm sau, bệnh 
nhân được giảm liều EPO và có mức Hb dưới 
130g/L. Trong 06 tháng nghiên cứu, hầu hết 
bệnh nhân có tốc độ thay đổi Hb trong khoảng 
cho phép (20g/L tại 
các tháng nghiên cứu nhiều hơn trong nghiên cứu 
của Nguyễn Thị Uyên [6]. Tuy nhiên các bệnh 
nhân đã được kiểm soát tốt ở các tháng tiếp theo. 
RBC: Hồng cầu là thành phần chiếm số 
lượng lớn trong tế bào máu, có chứa huyết sắc tố 
là chất giúp cho máu có màu đỏ. Với nhiệm vụ 
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
74 
vận chuyển oxy từ phổi lên các mô và vận 
chuyển CO2 từ các mô lên đào thải ở phổi, cho 
thấy hồng cầu đóng vai trò rất quan trọng đối với 
hoạt động của cơ thể. RBC trung bình của nhóm 
bệnh nhân nghiên cứu có xu hướng tăng qua các 
tháng. Thấp nhất ở T1 là 3,27 g/L và cao nhất ở 
T6 với RBC là 3,61 g/L. Đa số bệnh nhân có 
RBC dưới 3,5 g/L. Mức RBC trung bình của 
nhóm thấp hơn mức RBC trung bình trong nghiên 
cứu của Lâm Thành Vững (3,78-4,4 g/L) [11]. 
Ferritin và sắt huyết thanh: 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ sắt 
huyết thanh trung bình có xu hướng giảm, tuy 
nhiên cũng không biến động nhiều. Nồng độ sắt 
huyết thanh vẫn ở mức cao so với khoảng giá trị 
bình thường. Nồng độ Ferritin trung bình khá ổn 
định và ít dao động trong khoảng thời gian 
nghiên cứu và nằm trong khoảng giá trị bình 
thường. Kết quả này tương đồng với kết quả của 
Triệu Thị Tuyết Vân với khoảng Feeritin huyết 
thanh là từ 200-500µg/L [5]. 
Triệu chứng lâm sàng: 
Các triệu chứng lâm sàng thiếu máu biểu 
hiện trên da, niêm mạc; khả năng hoạt động gắng 
sức; các triệu chứng thần kinh. Tuy nhiên, triệu 
chứng lâm sàng chỉ góp phần đánh giá sơ bộ mức 
độ thiếu máu và tình trạng đáp ứng với điều trị 
thiếu máu trên lâm sàng. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ ghi 
nhận 2 triệu chứng lâm sàng trên da, niêm mạc 
và khả năng gắng sức của bệnh nhân. Nhận thấy 
triệu chứng da xanh, niêm mạc nhợt chiếm tỷ lệ 
cao ở các tháng. Tuy nhiên có xu hướng giảm 
dần. Số bệnh nhân có triệu chứng mệt khi gắng 
sức cũng ở mức cao, cao nhất ở T1 và giảm dần 
qua các tháng. Các triệu chứng lâm sàng thiếu 
máu giảm qua các tháng điều trị. 
Tính an toàn của EPO trong điều trị: 
Tác động của EPO lên huyết áp, số lượng 
bạch cầu, tiểu cầu, điện giải đồ. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy huyết áp 
tâm thu và huyết áp tâm trương trung bình của 
bệnh nhân không có sự gia tăng tại các thời điểm 
nghiên cứu. Đồng thời, tỷ lệ tăng huyết áp bệnh 
nhân tại các thời điểm nghiên cứu không cao và 
khá ổn định. Thực tế, các bệnh nhân lọc máu chu 
kỳ trong nghiên cứu đều được theo dõi huyết áp 
và sử dụng thuốc bệnh lý tim mạch. Như vậy, 
việc duy trì kiểm soát huyết áp song song sử 
dụng EPO điều trị thiếu máu ở khoa phát huy 
hiệu quả tốt. 
Tác động của EPO lên chỉ số bạch cầu, tiểu 
cầu, và điện giải đồ: Không có gì bất thường. 
Biến cố bất lợi khác trong thời gian nghiên cứu. 
Không có biến cố nào được ghi nhận trong 6 
tháng nghiên cứu. Kết quả này tương tự với 
nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền [4] và Nguyễn 
Thị Uyên [6]. 
Kết luận 
Qua nghiên cứu 61 bệnh nhân BTM lọc máu 
chu kì sử dụng EPO tại Khoa Thận Nhân tạo - 
Bệnh viện Thận Hà Nội, sau 06 tháng điều trị 
thiếu máu bằng EPO, chúng tôi đưa ra kết luận: 
Bệnh nhân được sử dụng cả EPO alpha và EPO 
beta. Dạng EPO đông khô pha tiêm được được 
sử dụng nhiều nhất. Liều EPO trung bình mỗi 
tháng của BN phổ biến là 18000-22000UI/tháng 
với tần suất cho thuốc phổ biến là 8-9 lần. Các 
chỉ số huyết học của bệnh nhân: Hb, RBC trung 
bình tăng, đạt Hb mục tiêu tại T3. Giá trị nồng 
độ Ferritin, sắt huyết thanh nằm trong ngưỡng 
bình thường, số trường hợp cần truyền máu và 
triệu chứng lâm sàng thiếu máu giảm. Không 
có biến cố bất lợi ghi nhận trong quá trình 
nghiên cứu. 
Lời cam đoan 
Nghiên cứu này được thực hiện tại Bệnh viện 
Thận Hà Nội, đề cương nghiên cứu đã được 
thông qua Hội đồng Khoa học của Bệnh viện và 
tuân theo các nguyên tắc và qui định về đạo đức 
trong nghiên cứu sinh y. 
Tài liệu tham khảo 
[1] L.A. Szczech, W. Harmon, T.H. Hostetter et al, 
World Kidney Day 2009: Problem and Challenges 
in the Emering Epidemic of Kidney Disease, J Am 
Soc Nephrol 20 (2009) 453-455. 
https://doi.org/10.1681/ASN.2009010041. 
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74 
75 
[2] D.T. Gilbertson, J. Liu et al, Projecting the Number 
of Patient with End Stage Renal Disease in the 
United States to the Year 2015, J Am Soc Nephrol 
16 (2005) 3736-3741. 
https://doi.org/10.1681/ASN.2005010112. 
[3] A.E. Gaweda, G.R. Aronoff et al, Individualized 
anemia management reduces hemoglobin 
variability in hemodialysis patients, J Am Soc 
Nephrol 25(1) (2014) 159-66. 
https://doi.org/10.1681/ASN.2013010089. 
[4] Do Thi Thu Hien, Evaluation of the usage of 
erythropoietin in the treatment of anemia in 
patients with chronic renal failure on dialysis at 
Thai Binh Provincial General Hospital, Master of 
Pharmacy thesis, Hanoi University of Pharmacy, 
2015 (in Vietnamese). 
[5] Trieu Thi Tuyet Van, Evaluation of the usage of 
erythropoietin in the treatment of anemia in 
patients with chronic renal failure on dialysis at the 
artificial kidney department - Bach Mai Hospital, 
Master of Pharmacy thesis, Hanoi University of 
Pharmacy, 2009 (in Vietnamese). 
[6] Nguyen Thi Uyen, Investigating the effectiveness 
and safety of Erythropoietin use in dialysis patients 
at artificial kidney monotherapy Sanit Paul 
Hospital, Graduation thesis of Pharmacist, Hanoi 
University of Pharmacy, 2016 (in Vietnamese). 
[7] Bui Thi Tam, Evaluation the effectiveness of 
anemia treatment with Erythropoietin in patients 
with chronic renal failure receiving dialysis at Dien 
Bien Provincial General Hospital, Graduation 
thesis of Pharmacist Specialist 2, Hanoi University 
of Pharmacy, 2011 (in Vietnamese). 
[8] Drug Administration of Vietnam - Ministry of 
health, Official dispatch number 4764/QLD-ĐK, 
2014 (in Vietnamese). 
[9] The Vietnam Urology & Nephrology Association, 
Guidelines for treatment of anemia in chronic 
kidney disease, The Vietnam Urology & 
Nephrology Association, 2013 (in Vietnamese). 
[10] KDIGO, KDIGO 2012 Clinical practice guideline 
for the evaluation and management of chronic 
kidney disease, Kidney International Supplement, 
2013, pp.1-150. 
[11] Lam Thanh Vung, Study on the characteristics of 
anemia and the effectiveness of Erythropoietin β 
combination with intravenous iron in patients with 
chronic renal dialysis by dialysis, Thesis 
Specialized level 2 Medical and Pharmaceutical 
University, Hue University, 2013. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_thuc_trang_su_dung_thuoc_tao_hong_cau_tren_benh_nha.pdf