Điều chế SMEDDS chứa cao diếp cá toàn phần và khảo sát tác động kháng viêm cấp tính của hệ

Từ lâu, DC đã được sử dụng rộng rãi như một loại rau

gia vị giúp kích thích tiêu hóa, tăng thêm mùi vị món ăn,

tạo cảm giác ngon miệng. Theo Đông y, DC có vị cay, tính

hơi lạnh, giúp thanh nhiệt giải độc cho cơ thể, lợi tiểu, sát

trùng. Chính vì vậy, trong các tài liệu y học cổ truyền cũng

đã lưu lại nhiều tác dụng quý từ DC. Tuy nhiên, không phải

ai cũng có thể ăn được loại rau này vì bản thân DC có vị hơi

tanh và đắng, đồng thời việc sử dụng dài ngày trong điều

trị các bệnh mạn tính theo các đơn thuốc bằng kinh nghiệm

dân gian với khoảng 20,0 g cao khô mỗi ngày quả thật khó

khăn [1]. Hơn nữa, flavonoid có tính thân nước sẽ khó qua

được màng phospholipid kép, nên hấp thu kém khi dùng

qua đường uống. Quercitrin trong cao DC kém ổn định, dễ

bị phân hủy bởi pH và các tác nhân tại đường tiêu hóa nên

làm giảm khả năng điều trị của thuốc dạng quy ước chứa

cao DC [2].

Với sự phát triển của công nghệ dược phẩm, một số

hệ thống phân phối thuốc mới đã ra đời, trong đó có hệ

SMEDDS. Thành phần chính của hệ SMEDDS là các tá

dược lipid, các chất diện hoạt và đồng diện hoạt. Khi phân

tán vào nước, dưới tác động của nhu động dạ dày có thể tạo

ra hệ vi nhũ tương D/N có kích thước tiểu phân nhỏ dưới

250 nm, diện tích bề mặt lớn nên tăng khả năng hòa tan và

thấm qua màng của hoạt chất [3, 4]. Từ đó, hệ SMEDDSDC

đã được điều chế nhằm mục đích giúp cải thiện tính kém

bền của quercitrin - một flavonoid chính trong dược liệu DC

và khảo sát tác động kháng viêm cấp tính của hệ.

pdf 5 trang dienloan 5300
Bạn đang xem tài liệu "Điều chế SMEDDS chứa cao diếp cá toàn phần và khảo sát tác động kháng viêm cấp tính của hệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều chế SMEDDS chứa cao diếp cá toàn phần và khảo sát tác động kháng viêm cấp tính của hệ

Điều chế SMEDDS chứa cao diếp cá toàn phần và khảo sát tác động kháng viêm cấp tính của hệ
2560(12) 12.2018
Khoa học Y - Dược
Đặt vấn đề
Từ lâu, DC đã được sử dụng rộng rãi như một loại rau 
gia vị giúp kích thích tiêu hóa, tăng thêm mùi vị món ăn, 
tạo cảm giác ngon miệng. Theo Đông y, DC có vị cay, tính 
hơi lạnh, giúp thanh nhiệt giải độc cho cơ thể, lợi tiểu, sát 
trùng. Chính vì vậy, trong các tài liệu y học cổ truyền cũng 
đã lưu lại nhiều tác dụng quý từ DC. Tuy nhiên, không phải 
ai cũng có thể ăn được loại rau này vì bản thân DC có vị hơi 
tanh và đắng, đồng thời việc sử dụng dài ngày trong điều 
trị các bệnh mạn tính theo các đơn thuốc bằng kinh nghiệm 
dân gian với khoảng 20,0 g cao khô mỗi ngày quả thật khó 
khăn [1]. Hơn nữa, flavonoid có tính thân nước sẽ khó qua 
được màng phospholipid kép, nên hấp thu kém khi dùng 
qua đường uống. Quercitrin trong cao DC kém ổn định, dễ 
bị phân hủy bởi pH và các tác nhân tại đường tiêu hóa nên 
làm giảm khả năng điều trị của thuốc dạng quy ước chứa 
cao DC [2]. 
Với sự phát triển của công nghệ dược phẩm, một số 
hệ thống phân phối thuốc mới đã ra đời, trong đó có hệ 
SMEDDS. Thành phần chính của hệ SMEDDS là các tá 
dược lipid, các chất diện hoạt và đồng diện hoạt. Khi phân 
tán vào nước, dưới tác động của nhu động dạ dày có thể tạo 
ra hệ vi nhũ tương D/N có kích thước tiểu phân nhỏ dưới 
250 nm, diện tích bề mặt lớn nên tăng khả năng hòa tan và 
thấm qua màng của hoạt chất [3, 4]. Từ đó, hệ SMEDDS-
DC đã được điều chế nhằm mục đích giúp cải thiện tính kém 
bền của quercitrin - một flavonoid chính trong dược liệu DC 
và khảo sát tác động kháng viêm cấp tính của hệ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Nguyên liệu
Các nguyên liệu sử dụng trong nghiên cứu gồm: cao DC 
của Công ty Cổ phần sản xuất và thương mại Hồng Bàng 
đạt tiêu chuẩn cơ sở; quercitrin của Viện Công nghệ hóa 
học TP Hồ Chí Minh; Plurol®Oleique CC 497, PeceolTM, 
Labrafil®1944 CS, Capryol 90, Labrasol®, Gelucire®50/13, 
Gelucire®44/14 của Gattefossé (Pháp); tween 80 của Merck 
(Đức); dầu mè của Meizan (Việt Nam); PEG 400 của 
HIMEDIA (Ấn Độ) và glycerol của Sigma-Aldrich (Mỹ). 
Các dung môi acid hydrocloric, acid formic, methanol, 
acetonitril được cung cấp bởi Merck (Đức).
Carrageenan 1% (Sigma-Aldrich, Mỹ) pha trong dung 
dịch nước muối sinh lý, dung dịch chống thấm Ornano 
imbidente (Ugo Basile, Ý) pha 1 ml với 250 mg NaCl trong 
500 ml nước cất, thuốc đối chứng diclofenac hàm lượng 50 
mg (viên nén bao phim Voltaren, Novartis, số lô KA833, 
hạn sử dụng 01/08/2019). 
Chuột nhắt trắng đực, chủng Swiss albino, 6-7 tuần tuổi, 
khoảng 25,0 g, cung cấp bởi Viện Vaccin và sinh phẩm Nha 
Trang. Sử dụng chuột khỏe mạnh, không có biểu hiện bất 
thường, được nuôi ổn định trong môi trường thí nghiệm 5 
ngày. Chuột được nuôi trong lồng kích thước 25x35x15 cm, 
Điều chế SMEDDS chứa cao diếp cá toàn phần 
và khảo sát tác động kháng viêm cấp tính của hệ
Ngô Tiến Thịnh, Vũ Anh, Trần Lê Tuyết Châu*
Khoa Dược, Trường Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài 3/8/2018; ngày chuyển phản biện 6/8/2018; ngày nhận phản biện 11/9/2018; ngày chấp nhận đăng 14/9/2018
Tóm tắt:
Hệ thống chuyển giao thuốc dạng vi tự nhũ (self-microemulsifying drug delivery system, SMEDDS) thường gọi là hệ 
vi tự nhũ chứa cao diếp cá (DC) toàn phần (SMEDDS-DC) được điều chế nhằm cải thiện độ ổn định của quercitrin 
- một thành phần có hoạt tính trong cao DC, đồng thời hoạt tính kháng viêm cấp của hệ SMEDDS-DC đã được 
đánh giá trên mô hình gây viêm bằng carrageenan. Thành phần của SMEDDS-DC gồm cao DC toàn phần (20%, 
kl/kl), dầu mè (20%, kl/kl), tween 80 (52%, kl/kl), glycerol (8%, kl/kl). Hệ có kích thước tiểu phân trung bình 
khoảng 184,9±1,72 nm (PdI 0,343±0,004) và thế zêta trung bình khoảng -32,77±1,21 mV. Tác động kháng viêm cấp 
của hệ trên mô hình gây viêm bằng carrageenan cho thấy hệ SMEDDS-DC thể hiện tác động điều trị viêm cấp tính 
ở liều 430 mg/kg và 860 mg/kg từ 1 giờ sau khi cho chuột uống thuốc.
Từ khóa: diếp cá, quercitrin, SMEDDS, tác động kháng viêm cấp tính.
Chỉ số phân loại: 3.4
*Tác giả liên hệ: Email: tuyetchau@gmail.com
2660(12) 12.2018
Khoa học Y - Dược
cung cấp thức ăn và nước uống đầy đủ.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp định lượng quercitrin trong cao DC bằng 
HPLC: độ tan của quercitrin trong các tá dược được xác 
định bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). 
Hệ thống HPLC Hewlett Packard 1050, cột Lichrosorb RP18 
(150x4,60 mm; 5 μm), detector PDA, bước sóng phát hiện ở 
254 nm, tốc độ dòng 1 ml/phút, thể tích tiêm mẫu 20 µl, pha 
động gồm acetonitril : acid formic 0,1% theo chương trình 
(bảng 1).
Bảng 1. Chương trình dung môi pha động theo gradient nồng độ.
Thời gian (phút) Acid formic 0,1% (%) Acetonitrile (%)
0 85,3 14,7
5 85,3 14,7
15 70 30
22 70 30
25 0 100
30 0 100
Khảo sát khả năng phân tán của cao DC trong các tá 
dược bằng phương pháp cảm quan và độ tan của quercitrin/
DC trong các tá dược bằng phương pháp HPLC: khả năng 
phân tán của cao DC toàn phần được khảo sát trong các tá 
dược Plurol® Oleique CC 497, PeceolTM, Labrafil®1944 CS, 
Capryol 90, Labrasol®, PEG400, glycerol, tweeen 80.
Tiến hành khảo sát khả năng phân tán: cân chính xác 
khoảng một lượng tá dược lỏng nêu trên. Thêm vào tá dược 
từng lượng xác định cao DC, khuấy đều bằng máy khuấy từ 
với tốc độ 500 vòng/phút ở nhiệt độ phòng đến quá bão hòa. 
Quan sát và đánh giá cảm quan mẫu thu được để sơ bộ lựa 
chọn tá dược cho phương pháp định lượng. Yêu cầu: cao 
DC toàn phần phân tán đều trong các tá dược khảo sát để 
tạo hệ có thể chất mịn. 
Dựa trên kết quả khảo sát bằng phương pháp cảm quan, 
lựa chọn các tá dược có khả năng phân tán tốt cao DC, tiến 
hành xác định độ tan của quercitrin trong các tá dược được 
lựa chọn bằng phương pháp HPLC.
Tiến hành khảo sát độ tan: cân chính xác khoảng một 
lượng tá dược lỏng. Thêm vào tá dược từng lượng xác định 
cao DC, khuấy đều bằng máy khuấy từ với tốc độ 500 vòng/
phút ở nhiệt độ 30±2oC đến quá bão hòa. Tiếp tục khuấy đều 
trong 4 giờ, ly tâm dịch với tốc độ 10.000 vòng/phút trong 15 
phút, tiến hành định lượng quercitrin trong lớp dịch phía trên 
bằng phương pháp HPLC.
Điều chế hệ SMEDDS-DC: dựa vào kết quả khảo sát 
độ tan của quercitrin bằng phương pháp HPLC, lựa chọn 
các tá dược thích hợp để xây dựng công thức giá mang 
SMEDDS thông qua giản đồ ba pha. Sau đó, tiến hành tải 
20% cao DC toàn phần vào các công thức giá mang được 
lựa chọn (SMEDDS-DC). Các công thức SMEDDS-DC sẽ 
được đánh giá các chỉ tiêu: cảm quan, kích thước tiểu phân 
và thế zêta. 
Yêu cầu: SMEDDS-DC tạo thành phải đồng nhất, không 
tách lớp và không lắng cặn. Kích thước trung bình tiểu phân 
phải nằm trong khoảng 50-200 nm, PdI<0,4.
Quy trình điều chế SMEDDS-DC (quy mô phòng thí 
nghiệm 100 g/mẫu): cân 52,0 g tween 80 và 8 g glycerol 
Preparation of SMEDDS 
containing Houttuynia cordata 
(Thunb.) extract 
and examination of the acute
anti-inflammatory effects 
Tien Thinh Ngo, Anh Vu, Le Tuyet Chau Tran*
Faculty of Pharmacy, Universiry of Medicine and Pharmacy, 
Ho Chi Minh CityReceived 3 August 2018; accepted 14 September 2018
Abstract: 
SMEDDS containing Houttuynia cordata (Thunb.) 
extract (SMEDDS-HCE) was prepared to improve 
the stability of quercitrin and examine the acute anti-
inflammatory effects by the carrageenan model on mice. 
The chosen SMEDDS-HCE formulation contained 
Houttuynia cordata (Thunb.) extract (20%, w/w), tween 
80 (52%, w/w), glycerol (8%, w/w), and sesame oil 
(20%, w/w). The SMEDDS-HCE was dark brown and 
homogenous. The average particle size was 184.9±1.72 
nm, PdI was 0.343±0.004, and the average zeta 
potential value was -32.77±1.21 mV. The results on the 
examination of the acute anti-inflammatory properties 
of SMEDDS-HCE using the carrageenan model showed 
that SMEDDS-DC exhibited acute anti-inflammatory 
effects at doses of 430 mg/kg or 860 mg/kg after 1 hour 
of the administration of SMEDDS-HCE.
Keywords: acute anti-inflammatory properties, 
Houttuynia cordata (Thunb.), quercitrin, SMEDDS.
Classification number: 3.4
2760(12) 12.2018
Khoa học Y - Dược
khuấy trộn tạo hỗn hợp đồng nhất bằng máy khuấy từ với tốc 
độ 300 vòng/phút ở 40±2oC trong 5 phút. Sau đó, phân tán từ 
từ 20,0 g cao DC vào hỗn hợp trên bằng máy khuấy từ với tốc 
độ 300 vòng/phút ở 40±2oC trong 10 phút. Phối hợp từ từ pha 
dầu vào pha thân nước bằng máy khuấy từ với tốc độ 500 
vòng/phút ở 40±2oC trong 10 phút để tạo hệ SMEDDS-DC. 
Để nguội đến nhiệt độ phòng, đóng chai, dán nhãn.
Khảo sát tác động kháng viêm cấp tính của hệ SMEDDS-
DC: gây phù chân chuột bằng carrageenan theo Winter và 
cộng sự (1962). Carrageenan là polysaccharid cấu tạo từ các 
polymer của ß-(1,3)-D-galactose và ß-(1,4)-3,6-hydro-D-
galactose. Do là hợp chất cao phân tử nên khi vào trong cơ 
thể, carrageenan trở thành kháng nguyên thông qua cơ chế 
miễn dịch kháng nguyên - kháng thể. Mức độ viêm tối đa ở 
trong thời gian 3-5 giờ. Mẫu có tác dụng kháng viêm sẽ làm 
giảm mức độ phù chân chuột. Carrageenan gây viêm cấp 
theo 2 pha: pha 1 giải phóng histamin và serotonin; pha 2 
giải phóng bradykinin, protease, prostaglandin và lysosom. 
Thực hiện: tính toán liều thử nghiệm trên chuột đối với 
hệ phân tán, dự kiến dùng trên người là 2 g/ngày và 4 g/
ngày, tương đương 2.000 và 4.000 mg/57,5 kg/ngày (vì 
người lớn có trọng lượng khoảng 55-60 kg, tính trung bình 
khoảng 57,5 kg) = 34,8 và 69,6 mg/kg/ngày. Quy đổi sang 
liều trên chuột nhắt = liều ở người x 12,3, tương đương 
khoảng 430 và 860 mg/kg.
Chuẩn bị dung dịch chống thấm: sử dụng nước cất, cho 
muối KCl và dung dịch chống thấm vào nước cất (theo tỷ lệ 
0,3-0,4 g KCl cho 0,7 lít nước cất). 
Đo thể tích chân chuột bình thường (V
-3h
) trên máy 
Plethysmometer: nhúng chân phải của chuột vào dung dịch 
chống thấm đến khuỷu chân, nhấn giữ bàn đạp để cố định, 
ghi nhận thể tích. 
Chuẩn bị dung dịch gây viêm: ngâm carrageenan 1% 
trong nước muối sinh lý NaCl 0,9% trước 2 giờ cho trương 
nở hoàn toàn. 
Chuột được gây viêm bằng cách tiêm dưới da vào gan 
bàn chân phải sau 0,025 ml dung dịch carrageenan 1%. Tiến 
hành đo thể tích chân chuột sau khi tiêm 3 giờ (V
0h
). Độ 
chênh lệch giữa 2 lần đo trước và sau khi gây viêm được 
xem là độ phù và tính theo công thức: 
 DV
t
 (%) = [(V
t
 - V
-3h
)/ V
-3h
] x 100 (1)
Trong đó, DV
t
 là độ phù bàn chân chuột, tính theo %; V
t
là thể tích chân chuột tại thời điểm sau khi gây viêm, bắt đầu 
điều trị (ml); V
-3h
 là thể tích chân chuột tại thời điểm trước 
khi gây viêm (ml).
Những chuột độ phù sau khi gây viêm 3 giờ (DV
0h
) từ 
50% trở lên được chia thành 4 lô theo độ phù, mỗi lô 10 
chuột đực, đảm bảo không có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê giữa các lô: 
Lô chứng bệnh: uống nước cất.
Lô đối chứng: uống diclofenac (viên nén bao phim 
Voltaren 50 mg) liều 10 mg/kg. 
Lô thử 1: uống hệ SMEDDS-DC liều 430 mg/kg.
Lô thử 2: uống hệ SMEDDS-DC liều 860 mg/kg. 
Chuột được cho uống nước cất, diclofenac hoặc mẫu thử 
1 lần ngay sau khi phân lô với thể tích 10 ml/kg. Đo thể tích 
chân chuột sau khi cho uống 1, 3, 5, 18 và 24 giờ, tính mức 
độ phù bàn chân chuột ở các thời điểm theo công thức (1). 
Xử lý kết quả và phân tích thống kê: kết quả được trình 
bày ở dạng giá trị trung bình ± SEM (standard error of mean 
- sai số chuẩn của số trung bình). Sự khác biệt giữa các lô 
được phân tích bằng phép kiểm Kruskal-Wallis và Mann-
Whitney với phần mềm SPSS 22.0. Sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê khi p<0,05. 
Kết quả và bàn luận
Xây dựng và thẩm định quy trình định lượng quercitrin 
trong cao DC toàn phần bằng phương pháp HPLC
Quy trình định lượng quercitrin trong cao DC toàn phần 
bằng phương pháp HPLC đạt yêu cầu về thẩm định tính 
tương thích hệ thống (RSD<2%), độ đặc hiệu (t
R
 của đỉnh 
quercitrin trong mẫu cao DC là 14,979 phút, tương đương 
với t
R
 của đỉnh quercitrin trong mẫu chuẩn là 15,008 phút ở 
bước sóng 254 nm). Phương pháp cũng đạt yêu cầu về tính 
tuyến tính (r2=0,9999) trong khoảng nồng độ trung bình từ 
20 đến 200 μg/ml, độ lặp lại (RSD=1,28%) và độ đúng (tỷ 
lệ hồi phục trung bình là 99,83%, RSD=0,380%). Sắc ký đồ 
định lượng quercitrin bằng phương pháp HPLC được thể 
hiện trên hình 1.
Hình 1. Sắc ký đồ định lượng quercitrin bằng phương pháp 
HPLC.
2860(12) 12.2018
Khoa học Y - Dược
Khảo sát khả năng phân tán của cao DC và độ tan của 
quercitrin trong các tá dược
Thí nghiệm được tiến hành ở hai điều kiện nhiệt độ 
là 30±2oC và 40±2oC. Độ tan của quercitrin trong các tá 
dược ở nhiệt độ 30±2oC và 40±2oC khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (p>0,05). Theo phương pháp cảm quan, cao 
DC phân tán tốt trong dầu mè nhưng lại không tìm được 
quercitrin bằng phương pháp HPLC. Vì quercitrin là một 
glycosid của quercetin có cấu trúc khung cơ bản là favonol 
(=favon 3-ol), trong phân tử có nhiều nhóm -OH tự do làm 
cho quercitrin có tính phân cực cao. Tuy nhiên, trong nguyên 
liệu ta sử dụng là cao DC toàn phần nên thành phần gồm 
nhiều nhóm chất trong đó có những chất thân dầu, những 
chất này này sẽ hòa tan/phân tán tốt vào các lipid. Bằng 
phương pháp định lượng, quercitrin/cao DC tan tốt trong 
tween 80 và glycerol. Vì vậy, lựa chọn hệ dầu mè - tween 
80 - glycerol để tiến hành xây dựng giản đồ ba pha cho công 
thức giá mang SMEDDS.
Xây dựng giản đồ pha 
Giản đồ pha: dầu mè là pha dầu, tween 80 là chất diện 
hoạt và glycerol là chất đồng diện hoạt. Đánh giá các điểm 
của giản đồ ba pha dựa theo các tiêu chuẩn:
Cảm quan: giá mang phải đồng nhất, không tách lớp, 
trong hay trong mờ.
Khả năng nhũ hóa: tại các điểm của giản đồ pha, tiến 
hành pha loãng 100 lần trong nước ở 37±2oC với tốc độ 
khuấy 70-100 vòng/phút. Nhũ tương hình thành nhanh, 
trong suốt hoặc trong mờ ánh xanh (<2 phút). 
Các công thức được theo dõi trong vòng 24 giờ về cảm 
quan và khả năng tự nhũ hóa. Kết quả xây dựng giản đồ 
pha được trình bày ở hình 2 với phần được tô màu đen hình 
thành từ tỷ lệ thành phần của các công thức đạt yêu cầu về 
cảm quan và khả năng nhũ hóa.
Từ giản đồ ba pha đã xây dựng, thiết lập được các công 
thức giá mang SMEDDS nằm trong vùng tạo vi nhũ tương 
(vùng màu đen trong hình 2), sau đó tiến hành đo kích thước 
và phân bố kích cỡ tiểu phân, thế zêta của các công thức giá 
mang. Các công thức đạt yêu cầu khi có kích thước tiểu phân 
trung bình nhỏ hơn 200 nm, kiểu phân bố kích thước tiểu 
phân 1 đỉnh và PdI<0,4. Với các yêu cầu đề ra, chúng tôi đã 
lựa chọn được 4 công thức giá mang phù hợp để tiến hành 
điều chế SMEDDS-DC.
Điều chế SMEDDS-DC
Cao DC toàn phần được tải vào 1 g hệ vi tự nhũ với tỷ 
lệ 20% hình thành hệ SMEDDS-DC, đánh giá khả năng tải 
của các hệ giá mang. Tiếp theo, SMEDDS-DC được đánh 
giá các chỉ tiêu: cảm quan, kích thước và phân bố kích cỡ 
tiểu phân, thế zêta và khả năng nhũ hóa sau khi bào chế và 
sau 24 giờ bảo quản ở điều kiện 30±2 oC, độ ẩm 75±5%. 
Kết quả cho thấy, trong 4 công thức SMEDDS-DC có 
3 công thức gồm MTG4 (30% dầu mè - 60% tween 80 
- 10% glycerol), MTG5 (25% dầu mè - 65% tween 80 
- 10% glycerol), MTG6 (25% dầu mè - 60% tween 80 - 
15% glycerol) đạt yêu cầu về cảm quan là hệ đồng nhất, 
phân tán đều, thể chất mịn, không lắng cặn. Các công thức 
SMEDDS-DC được lựa chọn sẽ pha loãng 100 lần với nước 
cất ở 37±2oC với tốc độ khuấy 70-100 vòng/phút. Đánh giá 
khả năng nhũ hóa dựa vào thời gian nhũ hóa và cảm quan 
của hệ vi nhũ tương tạo thành, kết quả được trình bày trong 
bảng 2.
Hệ vi nhũ tương tạo thành sau khi nhũ hóa thì công thức 
MTG6 bị đục mờ, các tiểu phân bị kết tụ làm hệ không ổn 
định. Công thức MTG4, MTG5 sau khi nhũ hóa tạo các vi 
nhũ tương trong mờ, màu vàng nhạt và có hiện tượng tán xạ 
ánh sáng xảy ra. Vì vậy, lựa chọn 2 công thức MTG4 (30% 
dầu mè - 60% tween 80 - 10% glycerol) và MTG5 (25% 
dầu mè - 65% tween 80 - 10% glycerol) để đo kích thước 
tiểu phân và thế zêta. Kết quả được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2. Kết quả khảo sát thời gian tự nhũ hóa, kích thước tiểu 
phân trung bình và thế zêta một số công thức (n = 3).
Kích thước trung bình tiểu phân của công thức MTG4 
nằm ngoài khoảng 20-200 nm. Công thức MTG5 đạt yêu 
cầu về kích thước tiểu phân, PdI và thế zêta. Do đó, công 
thức MTG5 (25% dầu mè - 65% tween 80 - 10% glycerol) 
được lựa chọn. 
Công
thức
Thời gian 
tự nhũ hóa 
(giây)
Vi nhũ 
tương hình 
thành
Nhận xét
Kích thước 
trung bình tiểu 
phân (nm)
PdI
Thế zêta
(mV)
MTG4 84,7±2,1 Trong mờ Đạt 211,33±5,34 0,220±0,036 -28,70±1,07
MTG5 53,3±2,1 Trong mờ Đạt 184,92±1,72 0,343±0,004 -32,57±0,45
MTG6 77,7±2,5 Đục mờ Không đạt
Hình 2. Giản đồ pha của hệ dầu mè - tween 80 - glycerol.
2960(12) 12.2018
Khoa học Y - Dược
Khảo sát tác động kháng viêm cấp tính của hệ 
SMEDDS-DC
Sự thay đổi độ phù bàn chân chuột theo thời gian giữa 
các lô chuột được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Sự thay đổi độ phù chân chuột theo thời gian giữa các lô.
**p<0,01 và ***p<0,001: so với lô chứng bệnh ở cùng thời điểm; #p<0,05 
và ##p<0,01: so với lô diclofenac ở cùng thời điểm; @p<0,05: so với lô 
SMEDDS-DC 430 mg/kg ở cùng thời điểm.
Lô đối chứng diclofenac liều 10 mg/kg làm giảm độ phù 
bàn chân chuột so với lô chứng bệnh. Sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê bắt đầu từ 1 giờ sau khi cho uống thuốc điều 
trị (p<0,01). 
So với lô chứng bệnh, SMEDDS-DC liều 430 mg/kg 
thể hiện tác dụng kháng viêm làm giảm độ phù bàn chân 
chuột ở tất cả thời điểm khảo sát; sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê sau khi cho uống mẫu thử 1 và 3 giờ (p<0,01). 
Ở lô cho uống SMEDDS-DC liều 860 mg/kg, độ phù thấp 
hơn lô chứng bệnh từ 10 đến 50%; sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê ở các thời điểm khảo sát (p<0,01), trừ 24 giờ sau 
khi uống mẫu thử.
Tác động kháng viêm cấp của liều 860 mg/kg thể hiện 
tốt hơn và kéo dài hơn so với liều 430 mg/kg; không khác 
biệt có ý nghĩa thống kê so với thuốc đối chứng diclofenac 
10 mg/kg từ trong khoảng thời gian 1 giờ đến 18 giờ sau khi 
cho chuột uống.
Bàn luận
Nhóm hoạt chất chính trong DC là flavonoid - một nhóm 
hoạt chất kém bền nên tuy có tác dụng trong thử nghiệm in 
vitro nhưng tác động kém trong in vivo. Đa phần dược liệu 
được sử dụng dưới dạng thuốc thang hoặc các dạng thuốc 
quy ước nên không phát huy được hiệu quả điều trị trong 
lâm sàng.
Từ đó, việc nghiên cứu ứng dụng hệ SMEDDS đã được 
tiến hành giúp tăng tính ổn định của quercitrin trong cao DC 
nói riêng và có thể được áp dụng cho các cao chiết dược liệu 
khác. Hệ SMEDDS-DC dự kiến được phát triển thành dạng 
bào chế viên nang mềm với liều sử dụng là 2-4 viên/ngày. 
Điều này giúp cho việc sử dụng thuốc có nguồn gốc tự nhiên 
dễ dàng hơn so với việc sử dụng dạng bào chế quy ước. Bên 
cạnh đó, hệ SMEDDS-DC được tạo ra từ các tá dược phổ 
biến trên thị trường nên việc phát triển sản phẩm có tính 
kinh tế cao cũng như việc sử dụng sản phẩm sẽ không là 
gánh nặng cho người bệnh. 
Ngoài ra, SMEDDS-DC thể hiện tác động điều trị viêm 
ở liều 430 và 860 mg/kg từ 1 giờ sau khi cho chuột uống. 
Tác động này của liều 860 mg/kg thể hiện tốt hơn và kéo 
dài hơn so với liều 430 mg/kg; khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê so với thuốc đối chứng diclofenac 10 mg/kg từ 
trong khoảng thời gian 1 giờ đến 18 giờ sau khi cho chuột 
uống. 
Kết luận
Hệ SMEDDS-DC đã được điều chế thành công bằng 
cách sử dụng các tá dược phổ thông bằng kỹ thuật cơ học. 
Kết quả khảo sát tác động kháng viêm cấp cho thấy, hoạt 
tính dược lý rất khả quan trong điều trị. Điều này cho thấy 
tiềm năng ứng dụng của hệ nhằm nâng cao giá trị của các 
loại thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Tất Lợi (2007), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, 
Nhà xuất bản Y học.
[2] B.F. De Simon, et al. (1995), “Flavonoid separation by capillary 
electrophoresis. Effect of temperature and pH”, Chromatographia. 
41(7-8), pp.389-392.
[3] B. Singh, et al. (2009), “Self-emulsifying drug delivery 
systems (SMEDDS): formulation development, characterization, and 
applications”, Crit. Rev. Ther. Drug Carrier Syst., 26(5), pp.427-521.
[4] S.G. Talele, et al. (2016), “Novel approaches for solidification 
of SMEDDS”, Int. J. Pharm. Biosci., 15, pp.90-101.
Lô thử nghiệm 
(n =10)
Độ phù trung bình ± SEM (%)
rV
0h
rV
1h
rV
3h
rV
5h
rV
18h
rV
24h
Chứng bệnh
91,32 95,60 67,43 57,05 60,85 44,89 
±4,53 ±6,51 ±5,59 ±6,78 ±9,05 ±3,49
Diclofenac 10 
mg/kg
90,46 48,62 32,03 24,12 25,33 22,76 
±6,09 ±4,90*** ±3,31*** ±3,37*** ±4,14** ±2,01**
SMEDDS-DC
430 mg/kg
89,69 49,48 41,03 42,03 49,69 37,33
±6,53 ±6,38** ±5,72** ±6,08# ±6,34## ±5,05#
SMEDDS-DC
860 mg/kg
90,47 45,07 36,51 25,92 30,51 34,28
±6,84 ±5,24*** ±3,50*** ±4,67** ±5,93**@ ±3,64#

File đính kèm:

  • pdfdieu_che_smedds_chua_cao_diep_ca_toan_phan_va_khao_sat_tac_d.pdf