Giá trị xét nghiệm procalcitonin trong theo dõi đáp ứng điều trị kháng sinh trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và choáng nhiễm khuẩn
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu về tình hình
NKH - CNK từ tháng 03 năm 2014 đến tháng 10
năm 2014 đã thu thập được 150 trường hợp bệnh
NKH - CNK vào viện điều trị. Trong đó tại Khoa
Hồi sức bệnh viện Kiên Giang là 77 trường hợp
và Khoa Bệnh Nhiệt đới bệnh viện Chợ Rẫy là 73
trường hợp. Qua phân tích số liệu, chúng tôi ghi
nhận một số kết quả về tình hình NKH - CNK tại
hai nơi nói trên, từ đó chúng tôi đưa ra bàn luận
một số vấn đề sau:
Theo tuổi
Độ tuổi trung bình của bệnh nhân NKH -
CNK trong nghiên cứu này là 56,43 18,87 tuổi,
tuổi thấp nhất là 16 và cao nhất là 94. Kết quả này
tương tự tuổi trung bình của Nguyễn Nghiêm
Tuấn(17) nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy năm
2007 là 55 ± 21 tuổi (n = 86). Kết quả của chúng tôi
thấp hơn so với nghiên cứu đa trung tâm của
Bectina M. Rau(2), có tuổi trung bình là 63 ± 16
tuổi, tuổi nhỏ nhất 19, lớn nhất 95 vào năm 2007
(n = 82), có lẽ vì nghiên cứu này tiến hành ở châu
Âu là nơi có điều kiện tốt hơn. Như vậy, các
nghiên cứu ghi nhận tuổi trung bình của bệnh
nhân NKH - CNK là những bệnh nhân ở nhóm
cao tuổi.
Biểu đồ 1: Phân bố theo nhóm tuổi của bệnh nhân
NKH – CNK
Phân tích về sự phân bố tuổi theo từng nhóm
tuổi, chúng tôi nhận thấy ở độ tuổi ≥ 60 tuổi
chiếm tỷ lệ cao nhất 45,3%, kế đến là nhóm tuổi từ
41 đến 60 tuổi chiếm 29,3% và tỷ lệ này thấp nhất
ở nhóm tuổi 15 đến 40 chiếm 25,3% (biểu đồ 3.1).
Đặc điểm theo nhóm tuổi thì tỷ lệ bệnh NKH -
CNK xảy ra tăng theo tuổi và rơi nhiều vào độ
tuổi nghỉ hưu (≥ 60 tuổi). Điều này tương đối phù
hợp với sinh lý của người bình thường là khi
người càng lớn tuổi các cơ quan trong cơ thể sẽ bị
lão hóa và sức đề kháng giảm nên dễ mắc các
bệnh nói chung, trong đó có NKH - CNK.
Theo giới
Trong nghiên cứu của chúng tôi nam gồm 74
người chiếm tỷ lệ 49,3% và nữ gồm 76 người
chiếm tỷ lệ 50,7%. Tỷ lệ nam/nữ là 0,97/1 và sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Khi tham
khảo một số nghiên cứu trong và ngoài nước
nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh NKH-CNK của nam cao
hơn nữ. Trong nghiên cứu của Nguyễn Nghiêm
Tuấn thực hiện trên 86 bệnh nhân bị NKH tại
Khoa Hồi sức bệnh viện Chợ Rẫy ghi nhận tỷ lệ
giới tính nam/nữ là 1,15/1(17), nghiên cứu của
Canan và Hulya, trong 33 bệnh nhân NKH tại
khoa ICU bệnh viện Trường Đại học Pamukale
Thổ Nhĩ Kỳ thì tỷ lệ giới tính nam/nữ là 1,06/1(5).
Sự khác biệt của các nghiên cứu trên cũng không
có ý nghĩa thống kê.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị xét nghiệm procalcitonin trong theo dõi đáp ứng điều trị kháng sinh trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và choáng nhiễm khuẩn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 493 GIÁ TRỊ XÉT NGHIỆM PROCALCITONIN TRONG THEO DÕI ĐÁP ỨNG ĐIỀU TRỊ KHÁNG SINH TRÊN BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT VÀ CHOÁNG NHIỄM KHUẨN Lê Xuân Trường*, Lâm Thùy Như*, Đỗ Thị Thanh Thủy*, Trần Thị Hương Lý** TÓM TẮT Mở đầu: Nhiễm khuẩn huyết là một bệnh cảnh lâm sàng nặng, chủ yếu do các loại vi khuẩn gây nên, đây là nguyên nhân gây bệnh và tử vong hàng đầu tại khoa hồi sức cấp cứu. Chẩn đoán xác định chủ yếu dựa vào cấy máu, nhưng cấy máu thường chậm và tỷ lệ dương tính thấp. Thêm vào đó là việc xuất hiện các chủng vi khuẩn kháng thuốc ngày càng gia tăng. Sự xuất hiện một chỉ điểm sinh học mới là procalcitonin (PCT) giúp các nhà lâm sàng phân biệt được chính xác nhiễm trùng do vi khuẩn hay do virus, từ đó có sự lựa chọn kháng sinh phù hợp là một lựa chọn tất yếu. PCT là một xét nghiệm đơn giản, dễ thực hiện, thời gian trả kết quả nhanh hơn so với cấy máu, rất phù hợp cho các nhà lâm sàng lựa chọn cho việc chẩn đoán và theo dõi điều trị kháng sinh. Mục tiêu: Xác định ngưỡng nồng độ PCT trong chẩn đoán NKH - CNK so với nhiễm khuẩn cục bộ (NKCB), tính tỷ lệ % của từng nhóm bệnh theo ngưỡng được xác định. Khảo sát động học của PCT kết hợp với dữ kiện lâm sàng để đánh giá việc sử dụng kháng sinh trong theo dõi điều trị. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang và tiến cứu. Nghiên cứu được thực hiện trên 204 bệnh nhân nhập viện trong 24 giờ đầu, trước khi sử dụng kháng sinh tại Khoa Hồi sức bệnh viện Kiên Giang và Khoa Bệnh Nhiệt đới bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ 03/2014 đến 10/2014. Kết quả : Xác định được điểm cắt PCT là 2,75 ng/mL cho phép phân biệt giữa NKH - CNK với NKCB với độ nhạy 78,67% và độ đặc hiệu 79,63%, diện tích dưới đường cong ROC là 0,848 (p < 0,001). Về xét nghiệm động học PCT, Ở nhóm NKH - CNK đáp ứng với điều trị kháng sinh, nồng độ PCT giảm hầu hết trên các mẫu nghiên cứu ở 24 giờ đầu sau khi sử dụng kháng sinh (88%), và sau 48 giờ thì nồng độ PCT giảm 100% trong khi đó ở nhóm NKH - CNK không đáp ứng với điều trị kháng sinh, nồng độ PCT thay đổi theo tiến triển bệnh. Kết luận: Xác định được ngưỡng nồng độ của xét nghiệm PCT trong chẩn đoán NKH - CNK so với NKCB. Nêu lên được tầm quan trọng của xét nghiệm PCT trong việc đánh giá bệnh nhân NKH - CNK có đáp ứng và không đáp ứng với điều trị kháng sinh. Từ khóa: Procalcitonin, nhiễm khuẩn huyết và choáng nhiễm khuẩn. ABSTRACT THE VALUE OF PROCALCITONIN IN FOLLOW-UP OF ANTIBIOTICS TREATMENT IN SEPSIS AND SEPTIC-SHOCK PATIENTS Le Xuan Truong, Lam Thuy Nhu, Do Thi Thanh Thuy, Tran Thi Huong Ly * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 493 - 502 Background: Sepsis is a severe disease status, mainly causing by bacteria lead to causes of death in the intensive care department. The diagnosis is based on blood culture. However the results were late and low positive rate. In addition, the emergence of drug-resistant strains of bacteria was increased. The appearance of a new biological marker is procalcitonin (PCT) to help the doctor distinguish the infections caused by bacteria or viruses; from appropriate antibiotics choosing is a very necessary. PCT is a simple test, easy to perform, time consuming * Bộ môn Hoá Sinh, Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM ** Bệnh Viện Đa Khoa Kiên Giang Tác giả liên lạc: TS. BS. Lê Xuân Trường ĐT: 01269872057 Email: lxtruong57@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 494 than the blood culture which is suitable for the diagnosis and follow-up of antibiotic treatment. Objective: The purpose of this study is to determine the threshold of PCT level in septic-shock diagnosis compared to sepsis, calculation the percentage of each patients group according to the defined threshold. Survey of PCT kinetics combined with clinical data evaluated the antibiotics using in folow-up treatment. Materials and Methods: Cross-sectional and prospective analysis. Two hundred and four patients were performed in this study during the first 24 hours of hospitalization, before antibiotic used at Kien Giang and Cho Ray hospital from March to October 2014. Result: Identification cut-off point of PCT was 2.75 ng/mL which was discriminate between septic-shock and septicemia with 78.67% sensitivity and 79.63% specificity, and area under the ROC curve was 0.848 (p<0.001). In kinetic of PCT, in septic-shock group response to antibiotic treatment, the concentration of PCT was decreased after using antibiotic (88%) in the first 24 hours and decreased 100% after 48 hours, while in septic-shock group unresponse to antibiotic treatment, PCT concentrations were changed following by disease progression. Conclusion: Determination of threshold concentrations of PCT in septic-shock diagnosis compare to sepsis. This study was found high impact of PCT in the evaluation of patients’ septic-shock response and unresponse to antibiotic therapy. Key words: Procalcitonin, sepsis and septic-shock. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm khuẩn huyết là một bệnh cảnh lâm sàng nặng, chủ yếu do các loại vi khuẩn gây nên. Đây là vấn đề y học được thế giới quan tâm vì nhiễm khuẩn và nhất là nhiễm khuẩn huyết, choáng nhiễm khuẩn là nguyên nhân gây bệnh và tử vong hàng đầu tại khoa hồi sức cấp cứu(21). Theo Brun-Buisson và cộng sự, có khoảng 30 – 50% bệnh nhân tử vong do nhiễm khuẩn huyết ở khoa Hồi sức Cấp cứu không do phẫu thuật. Thống kê nhiều nghiên cứu cho thấy tần suất mắc bệnh nhiễm khuẩn huyết không ngừng gia tăng trong những thập niên qua(3). Theo Angus và cộng sự, tỷ lệ mắc bệnh tại Hoa Kỳ năm 1989 là 17,5/100.000 bệnh nhân (BN) nhập viện. Trung bình mỗi trường hợp điều trị nhiễm khuẩn huyết tốn khoảng 22.100 USD và tốn nhiều hơn nữa nếu là trẻ em hay bệnh nhân phải trải qua phẪu thuật. Tổng chi phí điều trị hằng năm ở Hoa Kỳ cho nhiễm khuẩn huyết là 16,7 tỷ USD(1). Theo thống kê công bố năm 2002 của Watson và cộng sự, tại Hoa Kỳ có 42.000 trường hợp (TH) mắc nhiễm khuẩn huyết mỗi năm với tỷ lệ tử vong là 10,3% tương đương 4.300 TH. Nhiễm khuẩn huyết gây tỷ lệ tử vong cao, triệu chứng lâm sàng đa dạng, đôi khi không điển hình. Chẩn đoán xác định chủ yếu chỉ dựa vào cấy máu, nhưng cấy máu thường chậm và tỷ lệ dương tính thấp, thêm vào đó là việc xuất hiện các chủng vi khuẩn kháng thuốc đối với một số kháng sinh trong nhiễm khuẩn bệnh viện nói chung và nhiễm khuẩn huyết, choáng nhiễm khuẩn nói riêng ngày một gia tăng. Một trong những hậu quả của việc gia tăng kháng thuốc này là do việc sử dụng kháng sinh không phù hợp của các bác sĩ điều trị ở tuyến dưới(10). PCT được sản xuất bởi tế bào C của tuyến giáp và là một tiền chất của calcitonin, bình thường PCT không tìm thấy hoặc tìm thấy rất thấp ở người khỏe mạnh, tăng nhẹ khi có nhiễm khuẩn cục bộ(18). Sự xuất hiện một chỉ điểm sinh học mới là procalcitonin (PCT) giúp các nhà lâm sàng phân biệt được chính xác nhiễm trùng do vi khuẩn hay do virus, từ đó có sự lựa chọn kháng sinh phù hợp là một lựa chọn tất yếu. PCT là một xét nghiệm đơn giản, dễ thực hiện, thời gian trả kết quả nhanh hơn so với cấy máu, rất phù hợp cho các nhà lâm sàng lựa chọn cho việc chẩn đoán và theo dõi điều trị. Hiện nay, PCT đã được các nhà nghiên cứu trên thế giới xác định rõ giá trị của nó trong chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết, choáng nhiễm khuẩn(4). Ở Việt Nam nghiên cứu còn hạn chế, cỡ mẫu chỉ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 495 vài chục bệnh nhân, số lần làm xét nghiệm để theo dõi động học còn ít. Để giải quyết các vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giá trị xét nghiệm PCT trong theo dõi đáp ứng điều trị kháng sinh trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết, choáng nhiễm khuẩn”. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân nhập viện trong 24 giờ đầu trước khi sử dụng kháng sinh để điều trị được chọn làm nghiên cứu tại Khoa Hồi sức bệnh viện Kiên Giang và Khoa Bệnh Nhiệt đới bệnh viện Chợ Rẫy. Tiêu chuẩn chọn mẫu - Tuổi ≥ 15. - Nhóm khảo sát động học (NKH - CNK): kết quả cấy máu dương tính. - Nhóm so sánh (nhóm NKCB): có bệnh cảnh nhiễm khuẩn giống NKH nhưng kết quả cấy máu âm tính, cấy dịch tiết khác như nước tiểu, đàm, mủ vết thương dương tính. - Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ - Bệnh nhân HIV/AIDS. - Suy tim nặng. - Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. Cỡ mẫu Theo công thức: Trong đó: N: cỡ mẫu tối thiểu α: xác suất sai lầm z: trị số phân phối chuẩn p: tỷ lệ mà chúng ta ước tính d: sai số cho phép Để xác định độ nhạy (ước tính là p = 96%) với sai số tuyệt đối d = 4%. Dựa vào công thức trên ta tính được: 92 bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết. Để xác định độ đặc hiệu (ước tính là p = 92%) với sai số tuyệt đối d=8%. Dựa vào công thức trên ta tính được: 45 bệnh nhân không bị nhiễm khuẩn huyết. Do đó cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho nghiên cứu để tính độ nhạy, độ đặc hiệu khoảng 137 bệnh nhân. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã chọn được 204 bệnh nhân, gồm 2 nhóm: nhóm NKH - CNK 150 người, nhóm NKCB 54 người. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu được thiết kế theo nghiên cứu mô tả cắt ngang và tiến cứu Phương pháp nghiên cứu Nhóm NKH - CNK Chọn từ những bệnh nhân NKH - CNK có kết quả cấy máu dương tính, tiến hành làm động học các xét nghiệm PCT, CRP, bạch cầu máu, diễn tiến lâm sàng để theo dõi có đáp ứng với kháng sinh trong điều trị hay không; số lượng mẫu 150 trường hợp. Trong nhóm này, chúng tôi sẽ theo dõi nồng độ PCT thay đổi từng ngày: lúc mới nhập viện chưa sử dụng kháng sinh, 1 ngày, 2 ngày và 6 ngày sau khi điều trị kháng sinh. Nhóm NKCB Là những người được chẩn đoán nhiễm khuẩn nhưng không phải NKH, số lượng mẫu 54 trường hợp. Trong nhóm này, chúng tôi sẽ xác định tỷ lệ % nồng độ PCT nằm ở từng ngưỡng so với nhóm NKH - CNK. Kỹ thuật xét nghiệm Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều được khám lâm sàng, làm các xét ghiệm cần thiết và được phỏng vấn khai thác kỹ các yếu tố liên quan đến bệnh theo mẫu bệnh án đã được chuẩn bị trước. Các kết quả được ghi vào phiếu bệnh án nghiên cứu. Một số kỹ thuật xét nghiệm Xét nghiệm PCT: áp dụng phương pháp miễn dịch phát quang (Immumoluminometric Assay - Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 496 ILMA) trên máy Lumat LB 9507, thuốc thử hãng BRAHMS-PCT của Đức sản xuất. Định lượng CRP trên máy Hitachi 917 của hãng Hitachi, Nhật Bản. Thuốc thử Randox (full- range CRP assay). Xét nghiệm bạch cầu máu: thực hiện trên máy huyết học tự động Excell 2280, sản xuất từ Nhật. Cấy máu bằng hệ thống máy tự động Bactec- 9050. Số liệu được xử lý trên phần mềm SPSS 18.0. Nghiên cứu được thông qua và chấp thuận của Phòng nghiên cứu khoa học Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, bệnh viện Kiên Giang, bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng trước khi tham gia nghiên cứu được chúng tôi giải thích rõ mục đích và cách tiến hành nghiên cứu. Sự tham gia của đối tượng là hoàn toàn tự nguyện. Các thông tin đối tượng nghiên cứu cung cấp được bảo mật. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm chung của nhóm NKH – CNK Chúng tôi tiến hành nghiên cứu về tình hình NKH - CNK từ tháng 03 năm 2014 đến tháng 10 năm 2014 đã thu thập được 150 trường hợp bệnh NKH - CNK vào viện điều trị. Trong đó tại Khoa Hồi sức bệnh viện Kiên Giang là 77 trường hợp và Khoa Bệnh Nhiệt đới bệnh viện Chợ Rẫy là 73 trường hợp. Qua phân tích số liệu, chúng tôi ghi nhận một số kết quả về tình hình NKH - CNK tại hai nơi nói trên, từ đó chúng tôi đưa ra bàn luận một số vấn đề sau: Theo tuổi Độ tuổi trung bình của bệnh nhân NKH - CNK trong nghiên cứu này là 56,43 18,87 tuổi, tuổi thấp nhất là 16 và cao nhất là 94. Kết quả này tương tự tuổi trung bình của Nguyễn Nghiêm Tuấn(17) nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy năm 2007 là 55 ± 21 tuổi (n = 86). Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu đa trung tâm của Bectina M. Rau(2), có tuổi trung bình là 63 ± 16 tuổi, tuổi nhỏ nhất 19, lớn nhất 95 vào năm 2007 (n = 82), có lẽ vì nghiên cứu này tiến hành ở châu Âu là nơi có điều kiện tốt hơn. Như vậy, các nghiên cứu ghi nhận tuổi trung bình của bệnh nhân NKH - CNK là những bệnh nhân ở nhóm cao tuổi. Biểu đồ 1: Phân bố theo nhóm tuổi của bệnh nhân NKH – CNK Phân tích về sự phân bố tuổi theo từng nhóm tuổi, chúng tôi nhận thấy ở độ tuổi ≥ 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 45,3%, kế đến là nhóm tuổi từ 41 đến 60 tuổi chiếm 29,3% và tỷ lệ này thấp nhất ở nhóm tuổi 15 đến 40 chiếm 25,3% (biểu đồ 3.1). Đặc điểm theo nhóm tuổi thì tỷ lệ bệnh NKH - CNK xảy ra tăng theo tuổi và rơi nhiều vào độ tuổi nghỉ hưu (≥ 60 tuổi). Điều này tương đối phù hợp với sinh lý của người bình thường là khi người càng lớn tuổi các cơ quan trong cơ thể sẽ bị lão hóa và sức đề kháng giảm nên dễ mắc các bệnh nói chung, trong đó có NKH - CNK. Theo giới Trong nghiên cứu của chúng tôi nam gồm 74 người chiếm tỷ lệ 49,3% và nữ gồm 76 người chiếm tỷ lệ 50,7%. Tỷ lệ nam/nữ là 0,97/1 và sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Khi tham khảo một số nghiên cứu trong và ngoài nước nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh NKH-CNK của nam cao hơn nữ. Trong nghiên cứu của Nguyễn Nghiêm Tuấn thực hiện trên 86 bệnh nhân bị NKH tại Khoa Hồi sức bệnh viện Chợ Rẫy ghi nhận tỷ lệ giới tính nam/nữ là 1,15/1(17), nghiên cứu của Canan và Hulya, trong 33 bệnh nhân NKH tại khoa ICU bệnh viện Trường Đại học Pamukale Thổ Nhĩ Kỳ thì tỷ lệ giới tính nam/nữ là 1,06/1(5). Sự khác biệt của các nghiên cứu trên cũng không có ý nghĩa thống kê. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 497 Đường nhiễm khuẩn Biểu đồ 2: Đường nhiễm khuẩn của nhóm bệnh nhân NKH - CNK Đường vào của vi khuẩn được xem là nơi khởi phát nguồn bệnh nên khi biết được đường vào sẽ giúp bác sĩ dự đoán được loại vi khuẩn gây bệnh. Vi khuẩn Gram âm thường có đường vào từ đường tiêu hóa, viêm đáy chậu, viêm niệu đạo - bàng quang, viêm đường mật. Vi khuẩn Gram dương thường có nguồn gốc từ da, mô mềm, đường hô hấp, hoặc các ổ áp xe. Vi khuẩn yếm khí thường nằm ở miệng, đường tiêu hóa, âm đạo và trên da. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 34 ca có đường vào là đường hô hấp, chiếm 22,7%; tương tự là đường da - mô mềm cũng có 34 trường hợp, chiếm 22,7%. Thấp hơn là đường tiêu hóa 15,3% (23 ca); đường vào từ viêm màng não mũ chiếm 5,3% (8 ca); các đường khác như đường niệu, sinh dục, gan mật, tụy, tai mũi họng, răng hàm mặtchiếm 24% (36 ca) và một số trường hợp không rõ nguyên nhân chiếm tỷ lệ 10% (15 ca). Khi tham khảo các nghiên cứu khác, chúng tôi cũng ghi nhận phần lớn trường hợp vi khuẩn xâm nhập từ đường hô hấ ... đáp ứng với điều trị kháng sinh có thời gian từ lúc bệnh khởi phát đến khi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 499 nhập viện trung bình 5,5 ngày, sử dụng kháng sinh tiêm trước đó là 56% và có bệnh cảnh nền là 32%, phải chăng đây là những yếu tố thuận lợi cho việc điều trị trên bệnh nhân NKH - CNK. So sánh sự thay đổi động học của xét nghiệm PCT với CRP và bạch cầu máu, nghiên cứu cho thấy ở xét nghiệm CRP trên các bệnh nhân NKH nặng khi có đáp ứng với điều trị kháng sinh trong ngày đầu thì PCT giảm nhiều và nhanh (38/95 trường hợp = 40%) trong khi đó CRP còn tăng lên cao hơn trên một số bệnh nhân (22/95 trường hợp = 23%), không song hành với sự thay đổi của PCT. Như vậy CRP giảm chậm và kéo dài hơn PCT trên một số bệnh nhân có đáp ứng với điều trị kháng sinh. Riêng xét nghiệm bạch cầu máu, thay đổi ngược chiều với PCT và CRP trên một số bệnh nhân NKH nặng. Theo nghiên cứu của một số tác giả: Koksal N(12): nghiên cứu 67 trẻ sơ sinh ở 4 nhóm (nhiễm khuẩn cao, nhiễm khuẩn, có khả năng nhiễm khuẩn và không nhiễm khuẩn), so sánh nồng độ và theo dõi động học của PCT so với CRP. Kết quả cho thấy PCT giảm nhanh hơn CRP khi có đáp ứng điều trị (p < 0,01 của PCT so với p < 0,05 của CRP) cũng như giá trị chẩn đoán trong NKH và không NKH giữa các nhóm. Nguyễn Nghiêm Tuấn(17): giá trị của PCT (ng/mL), CRP (mg/L) và bạch cầu máu (mm3) giữa các nhóm bệnh tại lúc nhập viện và sau 72 giờ: so sánh giữa thời điểm ngày đầu và ngày thứ 3 sau khi nhập khoa, PCT giảm trên toàn bộ dân số nghiên cứu của các nhóm bệnh, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), còn nồng độ CRP và bạch cầu máu giữa các nhóm không có thay đổi đáng kể giữa 2 thời điểm, và sự khác biệt giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Lê Xuân Trường 2009(14): kết quả trên cho thấy nồng độ PCT giảm nhanh và nhiều gấp 6 lần ở giữa 2 lần xét nghiệm 1 và 2 khi cơ thể bắt đầu có đáp ứng với điều trị kháng sinh. Trong khi đó CRP chỉ giảm có 2 lần giữa 2 lần xét nghiệm, riêng bạch cầu máu không thay đổi nhiều như xét nghiệm PCT. Nhóm không đáp ứng với điều trị kháng sinh Tại nhóm không đáp ứng với điều trị kháng sinh, nồng độ PCT cũng giảm dần qua các lần định lượng. Tuy nhiên tất cả các sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê, chứng tỏ rằng ở nhóm bệnh nhân không đáp ứng với điều trị kháng sinh thì nồng độ PCT giảm không rõ rệt như ở nhóm đáp ứng. Nồng độ PCT ở các lần định lượng thứ 1, 2 và 3 tương ứng như sau: 21,02 ng/mL; 19,61 ng/mL; 3,19 ng/mL. Nhưng đến lần thứ 4 thì nồng độ PCT là 4,12 ng/mL, tăng cao hơn ở lần thứ 3, khả năng là do NKH trở nặng hoặc bệnh nhân rơi vào tình trạng CNK. Số lượng bệnh nhân qua từng thời điểm theo dõi cũng giảm đi rất đáng kể, nguyên nhân chủ yếu là do bệnh có tiên lượng tử vong cao nên gia đình xin về, một phần do bệnh trở nặng phải chuyển lên tuyến trên. Ghi nhận thực tế lâm sàng cho thấy ở nhóm không đáp ứng với điều trị kháng sinh có 27/55 trường hợp (chiếm 49%) nồng độ PCT ở lần xét nghiệm thứ 2 tăng cao hơn lần xét nghiệm thứ 1, lần xét nghiệm thứ 3 tăng cao hơn lần xét nghiệm thứ 2 là 14/27 trường hợp (chiếm 52%), lần xét nghiệm thứ 4 tăng cao hơn lần xét nghiệm thứ 3 là 8/14 trường hợp (chiếm 57%). Mặc khác, ở nhóm bệnh này bệnh nhân vào viện hơi muộn kể từ lúc bệnh khởi phát (trung bình 8,5 ngày), có điều trị kháng sinh chích trước khi nhập viện (83%) và mắc một số bệnh mạn tính cao như đái tháo đường, gout, viêm đa khớp (75%). Phải chăng đó là những yếu tố xấu làm cho việc trị liệu không có kết quả, bệnh nhân dễ tử vong. Theo nghiên cứu của Lê Xuân Trường (14): từ các kết quả trên cho thấy khi nồng độ PCT thay đổi, có thể tiên lượng bệnh đáp ứng hay không đáp ứng với điều trị kháng sinh. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 500 Bàn luận về kháng sinh điều trị và kháng sinh đồ Nhóm đáp ứng với điều trị kháng sinh Chúng tôi ghi nhận thời gian hồi phục có khác nhau trên từng bệnh nhân, phụ thuộc vào các yếu tố sau: loại vi khuẩn, đường vào của vi khuẩn, loại kháng sinh được điều trị, thời điểm được điều trị sớm hay muộn, tuổi tác và thể trạng của bệnh nhân, bệnh lý kèm theo Trong các yếu tố trên, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến vấn đề kháng sinh điều trị và kháng sinh đồ. Gần như tất cả các trường hợp bệnh lý nhiễm trùng khi vào bệnh viện thì bác sĩ lâm sàng đều sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm ngay từ đầu, sau đó theo dõi biểu hiện đáp ứng trên lâm sàng và kết quả kháng sinh đồ mà điều chỉnh kháng sinh cho từng trường hợp. Phân tích kết quả cấy máu và kháng sinh đồ của chúng tôi cho thấy ở 95/150 trường hợp đáp ứng với điều trị kháng sinh có 76 trường hợp (chiếm 80%) nhạy với kháng sinh đồ dựa vào kinh nghiệm của bác sĩ điều trị, 19 trường hợp (chiếm 20%) không nhạy với kháng sinh đồ. Ở nhóm không nhạy này, sau khi bác sĩ đổi kháng sinh dựa trên kháng sinh đồ thì bệnh nhân tiến triển tốt. Theo một số nghiên cứu như: ở tác giả Koivula I. chứng minh được ở nhóm bệnh nhân đáp ứng với điều trị thì PCT giảm nhanh và sớm hơn CRP. Nồng độ PCT trở về bình thường sau 4 ngày điều trị(11). Lê Xuân Trường(14): khảo sát 41 trường hợp NKH có đáp ứng với điều trị kháng sinh, kết quả cho thấy trung vị của PCT thay đổi như sau: 7,13 ng/mL → 1,23 ng/mL → 0,35 ng/mL (p < 0,001). Riêng xét nghiệm CRP và bạch cầu máu cũng giảm nhưng CRP giảm chậm hơn, còn bạch cầu máu trong những trường hợp NKH nặng thì giảm < 4.000 /mm3 (chiếm 13% các trường hợp NKH). Nhóm không đáp ứng với điều trị kháng sinh Trái ngược với động học của nhóm bệnh nhân NKH - CNK đáp ứng với điều trị, nhóm bệnh nhân NKH - CNK không đáp ứng với điều trị dẫn đến tử vong sau một thời gian điều trị có nồng độ PCT thay đổi theo diễn tiến lâm sàng. Khi bệnh trở nặng thì nồng độ PCT lại gia tăng mặc dầu trước đó nồng độ có giảm khi trên lâm sàng tiến triển tốt. Phân tích kết quả cấy máu cho thấy: 13 trường hợp (chiếm 23%) nhạy với kháng sinh đồ sau 6 ngày điều trị, 14 trường hợp (chiếm 25%) không nhạy với kháng sinh đồ sau 6 ngày điều trị; 28 trường hợp (chiếm 52%) có thời gian điều trị ≤ 3 ngày thì xin chuyển viện hoặc xin về nhà do bệnh nặng khi chưa có kết quả kháng sinh đồ. Trong 28 trường hợp này, sau khi có kết quả cấy máu thì có 22 trường hợp không nhạy với kháng sinh đồ, 6 trường hợp nhạy với kháng sinh đồ. Như vậy ở nhóm NKH - CNK không đáp ứng với điều trị (n = 55), có 19 trường hợp (chiếm 35%) nhạy với kháng sinh đồ, 36 trường hợp (chiếm 65%) không nhạy với kháng sinh đồ. Giải thích cho trường hợp kháng sinh đồ phù hợp với điều trị theo kinh nghiệm ban đầu của các bác sĩ nhưng bệnh nhân vẫn không đáp ứng trên lâm sàng dẫn đến nặng thêm hoặc tử vong, phân tích số liệu cho thấy những trường hợp này thường rơi vào các tình huống lâm sàng như nhập viện muộn và bệnh ở giai đoạn nặng (trung bình nhập viện 8,5 ngày sau khi bệnh khởi phát), đã điều trị kháng sinh tiêm (83%) có biến chứng suy đa cơ quan như suy tế bào gan, suy thận, suy hô hấp (74%) hoặc có bệnh lý nền như gout, đái tháo đường, viêm đa khớp kèm theo (75%). Theo tác giả Lê Xuân Trường năm 2009 (14), trong 24 bệnh nhân NKH không đáp ứng với điều trị kháng sinh, nồng độ trung bình của PCT thay đổi từ 19,36 ng/mL → 22,74 ng/mL → 17,23 ng/mL → 52 ng/mL(20). Nhưng nồng độ PCT trên các bệnh nhân NKH không đáp ứng với điều trị kháng sinh trên nghiên cứu của Yukioka H giảm sau vài ba ngày điều trị nhưng không trở về trị số bình thường và sự khác biệt giữa các lần xét nghiệm trong các ngày không có ý nghĩa thống kê, thường bệnh nhân tử vong do suy đa cơ quan(22). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 501 Khảo sát sự tương quan giữa PCT với một số xét nghiệm khác Tương quan giữa nồng độ PCT với CRP Trong nghiên cứu này, để thấy rõ giá trị của PCT chúng tôi so sánh PCT với CRP và bạch cầu máu, là những xét nghiệm cơ bản được sử dụng từ lâu trên lâm sàng trong chẩn đoán nhiễm khuẩn nói chung và NKH - CNK nói riêng(6). CRP là một chất chỉ điểm sinh học được ứng dụng rộng rãi trên lâm sàng từ rất lâu để chẩn đoán nhiễm khuẩn, đặc biệt là bệnh nhân NKH. Theo nghiên cứu của Canan (5) và cộng sự, CRP là chất có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đương nhau khoảng 58%, thấp hơn độ nhạy và độ chuyên của PCT (độ nhạy 89% và độ đặc hiệu 94%)(16). Tuy nhiên, CRP vẫn được sử dụng trong chẩn đoán bệnh lý nhiễm trùng vì đây là phương pháp được ứng dụng nhiều ở các cơ sở y tế trong nước với chi phí tương đối thấp. Trong nghiên cứu, chúng tôi thấy có sự tương quan yếu giữa 2 xét nghiệm PCT và CRP trên bệnh nhân NKH - CNK (r = 0,102; p = 0,214). Khi bệnh nhân đáp ứng với kháng sinh thì PCT giảm ngay trong 24 giờ đầu (27,3%), trong khi CRP vẫn tiếp tục tăng cao 1 đến 2 ngày sau đó mới bắt đầu giảm (21,33%). Như vậy ở nhóm bệnh nhân đáp ứng với điều trị kháng sinh thì CRP giảm chậm và muộn hơn so với PCT. Nghiên cứu của Nguyễn Nghiêm Tuấn(17) cũng cho thấy nồng độ CRP thay đổi không đáng kể giữa 3 nhóm bệnh nhân (NKH, NKH nặng và CNK) ở cả 2 thời điểm (lúc mới nhập viện và sau 72 giờ nhập viện). Giá trị chẩn đoán và tiên lượng của CRP đều kém hơn PCT. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu ngoài nước như nghiên cứu của Heper Y.(9), Castelli(8). Tương quan giữa nồng độ PCT với BC Khi so sánh PCT với bạch cầu máu thì chúng tôi nhận thấy không có sự tương quan giữa 2 xét nghiệm này trên các bệnh nhân NKH - CNK (r = -0,031; p = 0,752). Có 9,3% các trường hợp bạch cầu máu giảm < 4.000 /mm3 và 14% trường hợp khi có đáp ứng với điều trị kháng sinh thì bạch cầu máu tăng cao trên mức bình thường. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Nghiêm Tuấn (17) và Castelli (8). Ngoài ra bạch cầu tăng có thể gặp trong HCĐƯVTT như bỏng, chấn thương chứ không đặc hiệu cho nhiễm khuẩn, vì vậy giá trị của bạch cầu không phản ảnh hết được tình trạng NKH - CNK. KẾT LUẬN Dựa vào kết quả nghiên cứu và bàn luận, chúng tôi rút ra một số kết luận: Xác định ngưỡng nồng độ của xét nghiệm PCT trong chẩn đoán NKH - CNK so với NKCB. Theo dõi động học của xét nghiệm PCT kết hợp với dữ kiện lâm sàng giúp bác sĩ yên tâm hơn trong việc đánh giá bệnh nhân NKH - CNK có đáp ứng và không đáp ứng với điều trị kháng sinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Angus DC, Lidicker J et al (2001), “Epidemiology of severe sepsis in the United States: analysis of incidence, outcome, and associated costs of care”, Crit Care Med, 29, pp.1303-1310. 2. Bettina M. Rau, M. I. F., MD (2007). “Evaluation of Proaclcitonin for Predicting Septic Multiorgan Failure and Overall Prognosis in Secondary Peritonitis”. ARCH SURG, 142, pp.134-42. 3. Brun-Buisson et al. (1995). “Intensive Care Med 2000”. 26 Suppl 1, pp. 64-74. 4. Brunkhorst FM, Wegscheider K, Forycki F (2000). “Procalcitonin for early diagnosis and differentiationof SIRS sepsis, severe sepsis, and septic shock”. Intensive Care Med. 26, pp.148-52. 5. Canan Balci, E. G (2003). “Usefulness of procalcitonin for diagnosis of sepsis in the intensive care unit”. Critical Care, 7, pp.85-90. 6. Diamantis P. Kofteridis, G. S., Alexander D. et al. (2009). “C- Reactive Protein and Serum Procalcitonin Levels as Markers of Bacterial Upper Respiratory Tract Infections”. American Journal of Infectious Diseases, 5(4), pp.292-7. 7. Epuca, P. P., A pilaca et al (2010). “Serum procalcitonin measurement as a marker of sepsis”. Endocrine, 26, pp.143- 5. 8. Castelli GP, et al (2004). “Procalcitonin and C-reactive protein during systemic inflammatory response syndrome, sepsis and organ dysfunction”. Critical Care, 8(10), pp.234-42. 9. Heper Y, et al (2006). “Evaluation of serum C-reactive protein, procalcitonin, tumor necrosis factor alpha, and interleukin - 10 levels as diagnostic and prognostic parameters in patients with community acquired sepsis, severe sepsis, and septic shock”. Eur J Clin Microbiol Infect Dis, 25(10), pp.481-91. 10. Hồ Đặng Trung Nghĩa, Nghiêm Thị Bảo Hạnh Linh, (1997). “Tổng kết về dịch tễ lâm sàng, cận lâm sàng và kinh nghiệm sử dụng kháng sinh trong điều trị bệnh nhân nhiễm trùng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 502 huyết”. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ, Trung Tâm Đào Tạo và Bồi Dưỡng Cán Bộ Y Tế TP.HCM. 11. Koivula L. and col. (2011). “Elevated procalcitonin predicts Gram-negative sepsis in haematological patients with febrile neutropenia”. Scand J Infect Dis, 43(6-70), pp.471-8. 12. Konrad Reinhart, Takala A., Kemppainen E (2002). ”Procalcitonin strip test in the early detection of severe acute pancreatitis”. Br J Surg, 88(2), pp.222-7. 13. Lê Xuân Trường (2009). “Giá trị chẩn đoán và tiên lượng của proaclcitonin huyết thanh trong nhiễm trùng huyết”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 13(1), Tr.189-94. 14. Lê Xuân Trường (2009). “Theo dõi kết quả điều trị nhiễm khuẩn huyết và choáng nhiễm khuẩn bằng động học của procalcitonin”. Tạp chí y học TP.HCM, 13(1), Tr.213-21. 15. Lê Xuân Trường, Lê Ngọc Hùng, Phan Thị Danh (2008). “Nhận xét sơ bộ về sự thay đổi nồng độ procalcitonin trong nhiễm khuẩn hô hấp và nhiễm khuẩn huyết”. Tạp chí y học TP. Hồ Chí Minh, 12(1), Tr.105-10. 16. Mirjam Christ-Crain MD, R. B. M et al (2004). “Effect of procalcitonin-guided treatment on antibiotic use and outcome in lower respiratory tract infections: cluster-randomised, single-blinded intervention trial”. The lancet, 363, pp.600-7. 17. Nguyễn Nghiêm Tuấn (2008). “Vai trò của procalcitonin trong chẩn đoán và điều trị nhiễm trùng huyết”. Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 18. Phạm Đình Lựu (2008). “ Sinh Lý Y Học tập 1”. Bộ môn Sinh Lý Học, Đại Học Y Dược TP. HCM. Nhà xuất bản Y Học Tp. HCM. 19. Trần Nguyễn Minh Thi (2009). “Khảo sát giá trị của xét nghiệm procalcitonin trong chẩn đoán nhiễm trùng huyết và choáng nhiễm trùng”. Khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ đa khoa, Khóa 2003-2009, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 20. Trần Văn Sĩ (2011). “Nghiên cứu nồng độ procalcitonin trong máu và mối liên quan với loại vi khuẩn gây bệnh, các thể lâm sàng của nhiễm khuẩn huyết”. Luận án chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược Cần Thơ. 21. World Health Organization. “The global burden of disease: 2004 update”. Available from: GBD_report_2004update_part2.pdf (accessed 17 January 2010). 22. Yukioka H., Yoshida G., Kurita S., Kato N (2012). ”Plasma procalcitonin in sepsis and organ failure”. Ann Acad Med Singapore, 30(5), pp.528-31. Ngày nhận bài báo: 30/10/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014 Ngày bài báo được đăng: 16/01/2015
File đính kèm:
- gia_tri_xet_nghiem_procalcitonin_trong_theo_doi_dap_ung_dieu.pdf