Giải pháp phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp tỉnh Kiên giang trong giai đoạn hiện nay
Việc củng cố và phát triển kinh tế tập thể (KTTT), nhất là các hợp tác xã (HTX) trong nông nghiệp là xu thế phát triển tất yếu trong giai đoạn hiện nay, góp phần phát triển kinh tế - Xã hội của đất nước trong quá trình xây dựng công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) và xây dựng nông thôn mới. Bài viết đánh giá thực trạng các mặt tồn tại của mô hình HTX trong thời gian qua là: Một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chưa quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT; Công tác quản lý Nhà nước đối với HTX còn nhiều hạn chế, chồng chéo, chưa cụ thể, rõ ràng; Năng lực nội tại của HTX còn yếu, phát triển không ổn định. Số lượng HTX yếu kém và không hoạt động còn chiếm tỷ lệ khá cao; Tài sản và vốn quỹ của HTX còn ít; KTTT phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Bài viết cũng đã tìm ra những nguyên nhân của các mặt còn tồn tại đó, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình HTX nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp tỉnh Kiên giang trong giai đoạn hiện nay
1Giải pháp phát triển . . . GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC XÃ TRONG NÔNG NGHIỆP TỈNH KIÊN GIANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Nguyễn Kế Tuấn*, Đào Thanh Cần** TÓM TẮT Việc củng cố và phát triển kinh tế tập thể (KTTT), nhất là các hợp tác xã (HTX) trong nông nghiệp là xu thế phát triển tất yếu trong giai đoạn hiện nay, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong quá trình xây dựng công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) và xây dựng nông thôn mới. Bài viết đánh giá thực trạng các mặt tồn tại của mô hình HTX trong thời gian qua là: Một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chưa quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT; Công tác quản lý Nhà nước đối với HTX còn nhiều hạn chế, chồng chéo, chưa cụ thể, rõ ràng; Năng lực nội tại của HTX còn yếu, phát triển không ổn định. Số lượng HTX yếu kém và không hoạt động còn chiếm tỷ lệ khá cao; Tài sản và vốn quỹ của HTX còn ít; KTTT phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Bài viết cũng đã tìm ra những nguyên nhân của các mặt còn tồn tại đó, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình HTX nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới. Từ khóa : Hợp tác xã, nông nghiệp, Kiên Giang, kinh tế tập thể. SOLUTIONS TO DEVELOP COOPERATIVE ECONOMICS IN AGRICULTURE IN KIEN GIANG PROVINCE IN THE PRESENT TIME ABSTRAC The consolidation and development of collective economics, especially cooperatives in agricultural sector is an indispensable developmental trend in this present time. It partly contributes to the nation’s social – economic development in the process of industrialization and modernization and to building new rural areas. This paper evaluates the real existences of cooperative models in the past years: some governmental and local authorities have not grasped thoroughly the viewpoints, campaigns and policies of the Communist Party and government in the development and growth of collective economics; the governmental management is limited, overlapped and unstable; immanent quality of cooperatives are still low; and the development is unstable. The number of weak and unworkable cooperatives comprise for a high percentage. Real estate and capital is low. Collective economics is not compatible with the potential. The paper also finds out the reasons for these existences. From these, some solutions are suggested to perfect cooperative models in agriculture in Kien Giang in the future. Key words: Cooperatives. Agriculture, Kien Giang, collective economics Kinh tế - Kỹ thuật * GS.TS. Trường Đại học Nha Trang ** GV. Trường Đại học Nha Trang 2Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Kiên Giang là một tỉnh sản xuất nông nghiệp có sản lượng lúa lớn nhất trong các tỉnh khu vực ĐBSCL có điều kiện để phát triển kinh tế tập thể (KTTT) trong nông nghiệp, nông thôn. Cũng như các địa phương khác trong cả nước, các HTX trong nông nghiệp có sự chuyển biến tích cực, số lượng có tăng lên đáng kể, chất lượng hoạt động nâng lên. Tuy nhiên, không ít các HTX gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần phải được giải quyết thấu đáo, triệt để như quy mô HTX còn nhỏ, cơ sở vật chất còn thiếu, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, lợi ích kinh tế - xã hội của thành viên và người lao động còn thấp. Do đó cần có những giải pháp phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp Tỉnh Kiên Giang nhằm khắc phục những tồn tại của KTTT và phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. - Phương pháp mô tả: Sử dụng phương pháp mô tả nhằm đánh giá thực trạng của các HTX trong nông nghiệp ở địa bàn nghiên cứu. - Phương pháp nhân quả: Sử dụng phương pháp nhân quả nhằm tìm nguyên nhân đã hình thành thực trạng của HTX trong nông nghiệp ở địa bàn nghiên cứu. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân. Đồng thời, định hướng và đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả phát triển KTTT. - Điều tra, khảo sát thực tế: Sử dụng phương pháp điều tra khảo sát thực tế nhằm điều tra các HTX trong nông nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. + Mục tiêu, nội dung: Thu thập số liệu phản ánh kết quả hoạt động của HTX trong nông nghiệp, các nhân tố ảnh hưởng và các vấn đề khác có liên quan. + Đối tượng: Các HTX trong nông nghiệp. + Điều tra phỏng vấn, khảo sát thực tế: Sử dụng bảng câu hỏi điều tra phỏng vấn, khảo sát thực tế các HTX trong nông nghiệp đại diện cho các vùng sinh thái của tỉnh Kiên Giang như: Tây sông Hậu (Tân Hiệp, Giồng Riềng, Châu Thành, Gò Quao), Tứ giác Long Xuyên (Hòn Đất, Kiên Lương), U Minh Thượng (An Biên, U Minh Thượng), Biển đảo (Kiên Hải, Phú Quốc). - Phương pháp xử lý kết quả điều tra: Số liệu thu thập được sử dụng các phương pháp xử lý như thống kê, so sánh, đối chiếu và phân tích các yếu tố nhằm tìm ra nguyên nhân và đề ra giải pháp. - Phương pháp phân tích thống kê: Sử dụng phương pháp phân tích thống kê nhằm tổng hợp số liệu, dữ liệu đã điều tra, khảo sát; phân tích hệ thống số liệu dữ liệu thu thập được. - Phương pháp chuyên gia: Sử dụng phương pháp chuyên gia tham vấn ý kiến các chuyên gia và cán bộ quản lý HTX lấy ý kiến làm cơ sở định hướng và đề xuất giải pháp phát triển HTX. 3. THỰC TRẠNG MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP HIỆN NAY. 3Giải pháp phát triển . . . Bảng 3.1. Phân loại HTX trong nông nghiệp theo lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Đơn vị tính: HTX Stt Huyện, TX, TP SốHTX Đã đăng ký kinh doanh Trồng trọt Chăn nuôi Thủy sản Ngành nghề nông thôn 1 Rạch Giá 8 8 6 - 2 2 2 Giang Thành 3 3 3 1 - 1 3 Kiên Lương 8 8 2 - 6 - 4 Hòn Đất 5 5 5 1 1 1 5 Tân Hiệp 59 59 58 16 10 6 6 Châu Thành 11 11 10 1 1 2 7 Giồng Riềng 66 66 66 3 2 5 8 Gò Quao 16 16 13 1 1 5 9 An Biên 7 7 7 1 - - 10 An Minh 1 1 - - 1 - 11 U Minh Thượng 2 2 2 1 - - 12 Phú Quốc 3 3 3 1 3 2 13 Kiên Hải 1 1 - - 1 - Toàn tỉnh 190 190 175 26 28 24 Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp. Toàn tỉnh có 143 HTX tham gia hoạt động 1 lĩnh vực sản xuất , 35 HTX tham gia 2 lĩnh vực, 9 HTX tham gia 3 lĩnh vực, 3 HTX tham gia 4 lĩnh vực. Kết quả có 175 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, 26 HTX hoạt động trong lĩnh vực chăn nuôi, 28 HTX trong lĩnh vực thủy sản, 24 HTX trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn. Bảng 3.2. Phân loại HTX trong nông nghiệp theo nội dung hợp tác. Đơn vị tính: HTX Stt Huyện, TX, TP Số HTX Bơm tưới Giống nông nghiệp Vật tư nông nghiệp Khoa học kỹ thuật Tiêu thụ sản phẩm Làm đất, sau thu hoạch Tín dụng nội bộ Ngành nghề nông thôn 1 Rạch Giá 8 5 5 6 4 3 4 5 1 2 Giang Thành 3 2 1 2 2 - - 1 - 3 Kiên Lương 8 2 7 8 7 7 1 4 - 4 Hòn Đất 5 5 3 4 5 - 2 3 - 5 Tân Hiệp 59 54 25 45 37 8 48 30 3 6 Châu Thành 11 10 5 5 6 2 5 5 2 7 Giồng Riềng 66 64 58 50 55 2 9 25 - 8 Gò Quao 16 13 10 10 9 3 8 2 1 9 An Biên 7 7 4 5 4 - 7 - - 4Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Stt Huyện, TX, TP Số HTX Bơm tưới Giống nông nghiệp Vật tư nông nghiệp Khoa học kỹ thuật Tiêu thụ sản phẩm Làm đất, sau thu hoạch Tín dụng nội bộ Ngành nghề nông thôn 10 An Minh 1 - 1 - 1 1 - - - 11 U Minh Thượng 2 2 2 2 2 - - 1 - 12 Phú Quốc 3 1 3 3 3 2 1 - - 13 Kiên Hải 1 - 1 1 1 1 - 1 - Toàn tỉnh 190 165 125 141 136 29 85 77 7 Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp. Toàn tỉnh có 165 HTX thực hiện hợp tác bơm tưới, 125 HTX hợp tác kinh doanh giống nông nghiệp, 141 HTX hợp tác làm dịch vụ vật tư nông nghiệp, 136 HTX hợp tác ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, 29 HTX hợp tác tiêu thụ sản phẩm trong nông nghiệp, 85 HTX tham gia hợp tác làm đất và sau thu hoạch, 77 HTX góp vốn làm tín dụng nội bộ, 7 HTX thực hiện hợp tác ngành nghề nông thôn. Bảng 3.3. Tình hình vốn sản xuất kinh, doanh của HTX trong nông nghiệp Đơn vị tính: HTX Stt Huyện, TX, TP SốHTX Tổng vốn (tr. đồng) Vốn bq/ HTX (tr. đồng) Tổng vốn góp của thành viên (tr. đồng) Vốn góp bq/ thành viên (tr. đồng) 1 Rạch Giá 8 294,20 36,78 283,20 0,41 2 Giang Thành 3 115,50 38,50 115,50 2,22 3 Kiên Lương 8 7.202,41 900,30 6.266,00 18,82 4 Hòn Đất 5 1.224,46 244,83 1.224,46 6,62 5 Tân Hiệp 59 4.298,22 72,85 2.567,88 0,16 6 Châu Thành 11 810,90 73,72 810,90 0,56 7 Giồng Riềng 66 4.521,48 68,51 4.521,48 1,29 8 Gò Quao 16 1.035,97 64,75 1.035,97 1.93 9 An Biên 7 147,70 21,10 147,70 0,33 10 An Minh 1 1.722,00 1.722,00 1.722,00 90,63 11 U Minh Thượng 2 49,53 24,77 49,53 0,64 12 Phú Quốc 3 50.905,00 16.968,33 50.905,00 737,75 13 Kiên Hải 1 500,00 500,00 500,00 26,32 Toàn tỉnh 190 72.827,37 383,30 70.149,62 3,02 Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp. Tổng vốn sản xuất, doanh của các HTX trong toàn tỉnh là 72.827,37 triệu đồng, bình 5Giải pháp phát triển . . . quân 383,30 triệu đồng/HTX, tình hình góp vốn sản xuất, kinh doanh của các HTX chênh lệch nhau đáng kể, những HTX làm kinh doanh dịch vụ và thủy sản có mức đóng góp cao như tại huyện Phú Quốc 16.968,33 triệu đồng/HTX, An Minh 1.722,00 triệu đồng/HTX, Kiên Lương 900,30 triệu đồng/HTX và mức đóng góp của hộ thành viên tham gia cũng khá cao từ 90 đến gần 900 triệu đồng/hộ thành viên. Các HTX hợp tác thực hiện các dịch vụ cho hộ thành viên có mức đóng góp thấp hơn, từ 20 đến 500 triệu đồng/ HTX tùy vào số lượng thành viên tham gia, mức đóng góp vốn của thành viên từ từ 400.000 đồng đến 2 triệu đồng/hộ thành viên. Như vậy, các hộ thành viên tham gia góp vốn thấp trong HTX nông nghiệp làm cho bộ máy quản lý HTX gặp không ít khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh của HTX. Bảng 3.4. Kết quả sản xuất, kinh doanh của HTX trong nông nghiệp. Đơn vị tính: HTX, % Stt Doanh thu Số HTX Tỷ lệ (%) 1 HTX có doanh thu dưới 50 triệu đồng/năm 0 0 2 HTX có doanh thu từ 51 - 100 triệu đồng/năm 13 19 3 HTX có doanh thu từ 101 - 200 triệu đồng/năm 19 27 4 HTX có doanh thu trên 201 triệu động/năm 38 54 Tổng cộng 70 100 Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp. Về kết quả sản xuất, kinh doanh của các HTX trong nông nghiệp: Theo số liệu điều tra và khảo sát thực tế có 19% HTX trong nông nghiệp có mức doanh thu hàng năm đạt từ 51 - 100 triệu đồng/năm, 27% HTX có mức doanh thu hàng năm đạt từ 101 - 200 triệu đồng/năm và 54% HTX có mức doanh thu hàng năm đạt trên 201 triệu đồng/năm. Tính đến cuối năm 2013 tổng doanh thu sản xuất, kinh doanh của các HTX trong nông nghiệp là 158,969 tỷ đồng, sau khi trừ chi phi các HTX thu được lợi nhuận là 70,680 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân đạt 372 triệu đồng/HTX, thu nhập bình quân của thành viên đạt 31,2 triệu đồng/người/năm. Số HTX làm ăn có lãi là 103 HTX (chiếm 54%), 87 HTX làm ăn hòa vốn hoặc thua lỗ (chiếm 46%) chưa phản ánh được sự kỳ vọng của tỉnh về phát triển KTTT. Bảng 3.5. Tổng hợp trình độ cán bộ quản lý HTX trong nông nghiệp năm 2013. Đơn vị tính: người Stt Chức danh Tổng số Đại học, cao đẳng Trung cấp Sơ cấp Chưa qua đào tạo 1 Ban chủ nhiệm/Ban giám đốc 399 13 46 179 161 2 Ban kiểm soát/Hội đồng quản trị 296 3 23 115 155 3 Kế toán 190 0 11 80 99 Toàn tỉnh 885 16 80 374 415 Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp. Như vây, nguồn nhân lực và đặc biệt là cán bộ quản lý HTX có chất lượng chưa cao, 6Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät số cán bộ quản lý có trình độ đại học, cao đẳng là 16 người (chiếm 1,81%), trung cấp là 80 người (chiếm 9,04%), sơ cấp là 374 người (chiếm 42,26%), còn lại 415 người (chiếm 46,89%) chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, chủ yếu có trình độ văn hóa là cấp I và II. Bảng 3.6. Nhóm tuổi của Chủ nhiệm (Giám đốc) HTX trong nông nghiệp. Đơn vị tính: HTX, % Stt Nhóm tuổi Số HTX Tỷ lệ (%) 1 Dưới 30 tuổi 3 4 2 Từ 31 - 40 tuổi 7 10 3 Từ 41 - 50 tuổi 19 27 4 Trên 51 tuổi 41 59 Tổng cộng 70 100 Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp. Qua bảng trên ta thấy, đa số cán bộ quản lý HTX trong nông nghiệp có độ tuổi nằm trong nhóm trên 51 tuổi, chiếm 59%. Bảng 3.7. Phân loại HTX trong nông nghiệp. Đơn vị tính: HTX, % Stt Nội dung Số HTX Tỷ lệ (%) 1 HTX loại khá, tốt 49 25,79 2 HTX loại rung bình 83 43,68 3 HTX yếu kém và không hoạt động 41 21,58 4 HTX không xét hoặc xếp loại 17 8,95 Tổng cộng 190 100,00 Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp. - HTX trong nông nghiệp xếp loại khá, tốt: Chiếm tỷ lệ thấp, có 49 HTX, chiếm 25,79%, điển hình nhất trong các HTX này là HTX nông nghiệp kinh 3A xã Tân Hiệp A huyện Tân Hiệp, HTX nông nghiệp Thạnh Tiến xã Thạnh Bình huyện Giồng Riềng, HTX dịch vụ nông nghiệp Tân Hòa xã Vĩnh Phước B huyện Gò Quao, HTX nông nghiệp Thạnh Hòa xã Mong Thọ A huyện Châu Thành, HTX nông nghiệp 41 xã Phi Thông thành phố Rạch Giá. - HTX trong nông nghiệp xếp loại trung bình: Chiếm đa số, có 83 HTX, chiếm 43,68%, là những HTX chủ yếu thực hiện hỗ trợ cho hộ thành viên một số khâu trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh như bơm tưới, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cung ứng một phần giống và vật tư nông nghiệp. Đồng thời, quan tâm tìm đầu ra sản phẩm cho hộ thành viên. Các dịch vụ này thu theo mức chi và phân bổ theo diện tích sản xuất. - HTX trong nông nghiệp xếp loại yếu kém và không hoạt động: Còn chiếm khá cao, có 41 HTX, chiếm 21,58%, là những HTX thường chỉ làm 1 đến 2 khâu trong nội dung đăng ký hoạt động, chủ yếu là dịch vụ bơm tưới và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, các khâu khác trong hoạt động sản xuất thì hộ thành viên và hộ nông dân lân 7Giải pháp phát triển . . . cận không quan tâm. Bên cạnh đó, công tác quản lý HTX yếu kém, hộ thành viên không tin tưởng nhiều vào HTX. Vốn hoạt động của HTX đa số bị hộ thành viên chiếm dụng, HTX không có khả năng thành toán, nợ của HTX ngày càng gia tăng. - HTX trong nông nghiệp không xét hoặc chưa xếp loại: Áp dụng đối với 17 HTX mới thành lập trong năm 2013, chiếm 8,95%. Do mới thành lập, bước đầu đi vào hoạt động nên những HTX nay chưa đáp ứng được yêu cầu về cung cấp dịch vụ của hộ thành viên và hộ nông dân lân cận trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, thủy sản và ngành nghề nông thôn, chưa thích nghi môi trường cùng nhau hợp tác, kinh tế thị trường và còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý HTX. 4. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA MÔ HÌNH HTX HIỆN NAY. - Một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, Mặt trận và đoàn thể các cấp chưa quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân còn hoài nghi mô hình HTX “kiểu mới” trong nông nghiệp, còn thái độ e ngại, chưa thực sự tin tưởng hiệu quả của KTTT mang lại nên thiếu tích cực vận động thành lập và tham gia HTX, THT. - Công tác quản lý Nhà nước đối với HTX còn nhiều hạn chế, chồng chéo, chưa cụ thể, rõ ràng. Một số địa phương vẫn còn tình trạng buông lỏng quản lý Nhà nước đối với HTX, chưa hướng dẫn kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các hình thức hỗ trợ phát triển KTTT còn nhiều hạn chế và khó tiếp cận, cũng như nghiệp vụ chuyên môn quản lý chuyên ngành của từng lĩnh vực về KTTT để thực hiện. - Năng lực nội tại của HTX, THT còn yếu, phát triển không ổn định. Số lượng HTX yếu kém và không hoạt động còn chiếm tỷ lệ khá cao (21,58%). Đa số HTX hoạt động có lãi thấp hoặc không có lãi, lợi ích hợp tác mang lại cho thành viên chưa nhiều, phần lớn cán bộ quản lý HTX chưa được trả lương hoặc trả lương ở mức thấp, chưa đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế chó cán bộ HTX, người lao động trong HTX. - Tài sản và vốn quỹ của HTX, THT còn ít, đa số chưa có trụ sở, tài sản chung không nhiều, năng lực tài chính chưa đáp ứng, đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ năng lực hạn chế, chưa đưa ra được chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh cụ thể, không yên tâm làm việc lâu dài trong KTTT. Các HTX có quy mô hoạt động nhỏ lẻ, thị trường đầu ra sản phẩm không ổn định, chưa hợp tác, gắn bó với nhau, thiếu sự liên kết cả về kinh tế lẫn tinh thần hợp tác giữa HTX với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nhiều HTX tổ chức và hoạt động chưa tuân thủ đầy đủ theo quy định của pháp luật, công tác tài chính, kế toán còn lỏng lẻo, tính minh bạch chưa được đảm bảo, có nơi bị vi phạm. - KTTT phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của từng ngành, lĩnh vực, số lượng, chất lượng hoạt động và tăng trưởng kinh tế không đáng kể (chiếm 1,72% GDP của tỉnh). Giá trị sản xuất kinh doanh và đóng góp ngân sách của khu vực KTTT còn hạn chế , vị thế của KTTT còn thấp kém, có nơi chưa được xã hội thừa nhận. 5. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ 8Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät - Công tác quản lý Nhà nước đối với HTX còn buông lỏng, chức năng nhiệm vụ của các đơn vị liên quan chưa rõ ràng, tại một số nơi còn lúng túng, bị động, biện pháp tổ chức thực hiện chưa cụ thể, thiếu kiểm tra và tổ chức sơ tổng kết để uốn nắn kịp thời và rút kinh nghiệm trong thời gian tới. Các cấp, các ngành và địa phương hướng dẫn, vận động, tư vấn hỗ trợ phát triển KTTT chưa được tập trung tích cực, hiệu quả không cao, chưa chỉ đạo điểm, chưa xây dựng được mô hình HTX điểm, mô hình tốt, mô hình mới để phổ biến nhân ra diện rộng. - Vai trò tham mưu của các cấp chính quyền, các ngành chức năng còn hạn chế, việc phân công người phụ trách theo dõi KTTT của các sở, ngành, đoàn thể các cấp nhất là cấp cơ sở không cụ thể, chưa ngang tầm. Một số nơi còn ngán ngại hoặc xem nhẹ vai trò của kinh tế HTX trong nông nghiệp, khoán trắng cho ngành chuyên môn, chưa tạo điều kiện tốt cho lĩnh vực này phát triển. - Đội ngũ cán bộ quản lý HTX, THT hầu hết làm việc theo kinh nghiệm, chưa được đào tạo cơ bản, đa số cán bộ quản lý mới tham gia các khóa bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ ngắn ngày nên chưa xây dựng được phương án sản xuất, kinh doanh cụ thể. Năng lực nội tại của HTX, THT còn nhiều yếu kém về tài chính, đất đai, kỹ thuật, quy mô hoạt động, thiếu sự liên doanh liên kết với nhau và với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Một số HTX trong nông nghiệp hoạt động cầm chừng, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước nên ít quan tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, thời tiết, dịch bệnh diễn biến bất thường, giá đầu vào không ổn định dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao. - Công tác tuyên truyền Luật HTX, các chủ trương của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân chưa tập trung đúng mức, chưa đều khắp, chưa thể hiện sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc tuyên truyền đến tận cơ sở và người dân, nhất là đối tượng trực tiếp tham gia HTX, THT. - Trong tổ chức thực hiện chưa xác định nhiệm vụ phát triển KTTT là nhiệm vụ trong tâm, việc làm thường xuyên và lâu dài, mà chủ yếu tổ chức theo dạng phong trào, thiếu tính đồng bộ. - Nhận thức về mô hình HTX “kiểu mới” trong nông nghiệp của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tuy có nâng lên nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, tư tưởng hoài nghi đối với mô hình HTX “kiểu cũ” vẫn còn tồn tại, chưa phân biệt được mô hình HTX “kiểu mới” với mô hình HTX “kiểu cũ”, với tổ chức xã hội va doanh nghiệp, chưa thấy được hiệu quả và lợi ích của việc tham gia HTX nên chưa mạnh dạn tham gia hoặc khi tham gia cũng chưa có nhiều đóng góp trong xây dựng HTX phát triển. - Cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX trong nông nghiệp tuy được ban hành tương đối đầy đủ nhưng phần lớn tính khả thi không cao, việc cụ thể hóa còn chậm và thiếu tính đồng bộ. Trong tổ chức thực hiện, thiếu sự giúp đỡ và hướng dẫn thực hiện tới HTX, nguồn lực thực hiện có hạn. 6. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH HTX. 9Giải pháp phát triển . . . Thứ nhất, phát huy nội lực, thế mạnh của HTX và tập trung khắc phục những tồn tại, yếu kém mà HTX đang gặp phải Mở rộng các thành viên tham gia HTX theo Luật HTX năm 2012 quy định, căn cứ vào Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tưởng Chính phủ về “Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn” và Quyết định số 210/2013/QĐ-TTg của Chính phủ về “Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn” HTX chủ động phối hợp với các cấp, các ngành và chính địa phương vận động, kêu gọi các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước cùng tham gia thành viên HTX, liên doanh liên kết hoặc tham gia góp vốn, góp công sức để xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, phát huy những lợi thế sẵn có của HTX, nâng cao hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh. Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý HTX, thành viên tham gia HTX - Xuất phát từ tình hình hoạt động của HTX trong nông nghiệp trong điều kiện hiện nay, việc tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức quản lý cho cán bộ quản lý HTX là một yêu cầu cần thiết, là động lực nhằm thúc đẩy sự đổi mới và phát triển các hình thức hợp tác trong HTX, là nhân tố đảm bảo cho HTX thực hiện thành công phương án sản xuất, kinh doanh đề ra. Để khắc phục tình trạng yếu kém về trình độ, năng lực quản lý của HTX trong nông nghiệp, các cấp, các ngành có liên quan và chính quyền địa phương cần bố trí kinh phí được phân bổ hàng năm, giai đoạn và xây dựng kế hoạch để đào tạo cán bộ quản lý HTX thông qua các lớp chuyên môn, nghiệp vụ quản lý và điều hành HTX tại các trung tâm, trường và bố trí các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn ngày tại các địa phương trong tỉnh. Đồng thời, các HTX trong nông nghiệp phải xây dựng kế hoạch và lập danh sách cán bộ quản lý HTX, trong đó ưu tiên cho cán bộ trẻ tham gia các khóa học về quản lý HTX, về nông nghiệp, nông dân và nông thôn nhằm đảm bảo cho sự thành công và tạo động lực trong thúc đẩy cho phát triển HTX trong nông nghiệp. Mặt khác, đưa đội ngũ cán bộ quản lý HTX sớm theo học quản trị kinh doanh và kế toán tại các trung tâm dạy nghề trong tỉnh. Thứ ba, nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX Các HTX trong nông nghiệp cần phải tập trung quan tâm, xác định lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, sắp xếp nội dung hoạt động trong từng lĩnh vực theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, kinh doanh tổng hợp, trong đó chú ý phát triển các ngành nghề, lĩnh vực mới mang lại hiệu quả cao nhằm phát huy các tiềm năng, lợi thế của mình. Những nội dung hợp tác, dịch vụ mà HTX trong nông nghiệp lâu nay đã làm cần củng cố theo hướng hạ giá thành nâng cao chất lượng cung cấp, đồng thời mở rộng các nội dung hợp tác, loại hình dịch vụ mà thành viên HTX có nhu cầu. Việc HTX trong nông nghiệp lựa chọn mô hình kinh doanh tổng hợp hay chuyên ngành là tùy thuộc vào điều kiện ở từng vùng, năng lực của từng HTX và nhu cầu của thành viên HTX. Các hình thức sản xuất, kinh doanh tập trung hay phi tập trung hoặc kết hợp cần được quy hoạch lựa chọn phù hợp, ổn định. Dù lựa chọn hình thức nào, HTX trong nông nghiệp cần nắm bắt thông tin, nghiên cứu thị trường, 10 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät xác định mặt hàng, xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh, huy động vốn, chuẩn bị nguyên vật liệu đầu vào, quyết định phương án công nghệ, tổ chức và phân công lao động, quản lý sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm, tiếp nhận thông tin phản hồi và chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho chu kỳ sản xuất sau một cách đầy đủ. Thứ tư, thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung Kinh tế HTX trong nông nghiệp hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của kinh tế hộ gia đình. Kinh tế hộ gia đình phát triển là điểm xuất phát, tạo động lực cho HTX phát triển, nâng cao đời sống của thành viên, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để thúc đẩy kinh tế HTX trong nông nghiệp của tỉnh phát triển, bản thân HTX cần phải xác định được 2 nội dung nhằm thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển: Kinh tế hộ gia đình là những đơn vị kinh doanh nhỏ độc lập được pháp luật thừa nhận và có quyền liên doanh, liên kết để nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh; kinh tế hộ gia đình phát triển sản xuất, kinh doanh đến một mức nào đó thi xuất phát nhu cầu liên kết, hợp tác với nhau để tạo nên sức mạnh, tăng khả năng cạnh tranh. Kinh tế hộ gia đình phát triển là điều kiện để các HTX “kiểu mới” trong nông nghiệp ra đời, tồn tại và phát triển. Thứ năm, giải pháp công tác tuyên truyền, khuyến khích phát triển HTX trong nông nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động triển khai công tác tuyên truyền, quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế HTX trong nông nghiệp, Luật HTX năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành đến các địa phương trong tỉnh và trên các phương tiện thông tin đại chúng như Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, huyện, Báo Kiên Giang, pa nô, áp phích để toàn thể cán bộ, đảng viên và nông dân, thành viên HTX nhận thức được tầm quan trọng của phát triển HTX trong nông nghiệp. Cung cấp đầy đủ và thường xuyên các thông tin liên quan đến phát triển KTTT, phong trào phát triển HTX trong nông nghiệp, những kinh nghiệm, mô hình, cách làm cách làm có hiệu quả và đặc biệt là lợi ích và trách nhiệm khi tham gia HTX, chính sách khuyến khích phát triển HTX trong nông nghiệp nhằm tạo chuyển biến biến mạnh mẻ trong nâng cao nhận thức, sự đồng bộ trong nâng cao trách nhiệm của các đơn vị trong việc củng cố và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế HTX trong nông nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Thị Kim Anh (2010), Quản trị chiến lược - dùng cho học viên cao học, Trường Đại học Nha Trang, Khánh Hòa. [2]. Nguyễn Công Bình (2007), Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp ở tỉnh Tiền Giang đến năm 2015, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chính Minh. [3]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Hệ thống hóa các văn bản về HTX – tập 1, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. [4]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), Hệ thống hóa các văn bản về HTX – tập 2, Nhà 11 Giải pháp phát triển . . . xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. [5]. Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang, Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2010; 2011; 2012; 2013, Báo cáo tổng kết, Kiên Giang. [6]. Dự án AID-Coop (2010), Sổ tay thành lập HTX; Sổ tay tổ chức và hoạt động HTX; Sổ tay chính sách hỗ trợ HTX, Hà Nội. [7]. Vũ Cao Đàm (2009), Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. [8]. Nguyễn Văn Giàu (2012), Sự phát triển của hợp tác xã và vai trò của HTX đối với an sinh xã hội, Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội. [9]. Tô Thiện Hiền (2004), Thực trạng và giải pháp phát triển HTX nông nghiệp ở An Giang, Báo cáo nghiên cứu khoa học, Trường Đại học An Giang, An Giang. [10]. Đào Duy Huân (2014), Phân tích và đánh giá kinh tể HTX tỉnh Đồng Nai và các khuyến nghị, Báo cáo nghiên cứu và trao đổi, Tạp chí Phát triển và Hội nhập.
File đính kèm:
- giai_phap_phat_trien_kinh_te_hop_tac_xa_trong_nong_nghiep_ti.pdf