Giáo trình Quản lí và kiểm tra chất lượng thực phẩm (phần 1)
Vấn đề ăn uống hàng ngày là nhu cầu cấp bách và không thể thiếu được. Từ xưa
người ta đã biết rằng, vấn đề ăn uống có liên quan nhiều tới việc chữa bệnh và giữ gìn
sức khoẻ. Tuy nhiên nguồn thực phẩm mà con người dùng cũng tiềm ẩn rất nhiều nguy
cơ không đảm bảo tiêu chuẩn về chất lượng thực phẩm, về vệ sinh an toàn, nhất là trong
cơ chế thị trường như hiện nay. Để chạy theo lợi nhuận các nhà sản xuất đã vô tình hay
cố ý cho thêm các phụ gia ngoài luồng vào thực phẩm (như phẩm màu công nghiệp,
đường hoá học, .vv ) hoặc làm nhiễm độc cho thực phẩm do điều kiện vệ sinh kém.
Người tiêu dùng khi ăn phải các loại thực phẩm này, sau vài giờ sẽ xuất hiện các triệu
chứng của ngộ độc: nôn mửa, sốt hoặc những hội chứng thần kinh, tim mạch, .vv Qua
nghiên cứu cho thấy 70% trường hợp tiêu chảy có liên quan tới thực phẩm ô nhiễm. Các
nhân tố gây bệnh đường tiêu hoá như Salmonella typhi, Shigellaspp hiện nay vẫn tồn
tại. Nhiễm Listeria liên quan đến sẩy thai hoặc thai chết lưu .vv
Mối liên quan giữa thực phẩm nhiễm khuẩn và tiêu chảy cũng đã được xác định
rõ. Ví dụ thức ăn bổ xung bị ô nhiễm bởi vi khuẩn nhóm E.coli là nguyên nhân chính tiêu
chảy ở trẻ em. Việc phòng chống các bệnh do ăn uống gây ra là quan trọng vì các bệnh
này có thể gây ra tình trạng suy nhược.
Các bệnh do thực phẩm gây nên không chỉ là các bệnh ngộ độc cấp tính mà còn là
các bệnh mãn tính do tích luỹ các chất độc hại. Kim loại nặng có thể nhiễm vào thực
phẩm từ bao bì vật liệu chứa đựng, nước thải công nghiệp để tưới rau, nuôi trồng thuỷ
sản. Đặc biệt là các hợp chất có nhân thơm đa vòng, độc tố vi nấm như Aflatoxin trong
đậu, lạc mốc, gây ung thư. Nhiều nước đã có luật chống hàng giả, qui định sử dụng hoá
chất bảo vệ thực vật, nội tiết tố, kháng sinh và các chất hoá học nhân tạo khác.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Quản lí và kiểm tra chất lượng thực phẩm (phần 1)
1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Vệ sinh, an toàn thực phẩm và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Vấn đề ăn uống hàng ngày là nhu cầu cấp bách và không thể thiếu được. Từ xưa người ta đã biết rằng, vấn đề ăn uống có liên quan nhiều tới việc chữa bệnh và giữ gìn sức khoẻ. Tuy nhiên nguồn thực phẩm mà con người dùng cũng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ không đảm bảo tiêu chuẩn về chất lượng thực phẩm, về vệ sinh an toàn, nhất là trong cơ chế thị trường như hiện nay. Để chạy theo lợi nhuận các nhà sản xuất đã vô tình hay cố ý cho thêm các phụ gia ngoài luồng vào thực phẩm (như phẩm màu công nghiệp, đường hoá học, .vv) hoặc làm nhiễm độc cho thực phẩm do điều kiện vệ sinh kém. Người tiêu dùng khi ăn phải các loại thực phẩm này, sau vài giờ sẽ xuất hiện các triệu chứng của ngộ độc: nôn mửa, sốt hoặc những hội chứng thần kinh, tim mạch, .vv Qua nghiên cứu cho thấy 70% trường hợp tiêu chảy có liên quan tới thực phẩm ô nhiễm. Các nhân tố gây bệnh đường tiêu hoá như Salmonella typhi, Shigellaspp hiện nay vẫn tồn tại. Nhiễm Listeria liên quan đến sẩy thai hoặc thai chết lưu .vv Mối liên quan giữa thực phẩm nhiễm khuẩn và tiêu chảy cũng đã được xác định rõ. Ví dụ thức ăn bổ xung bị ô nhiễm bởi vi khuẩn nhóm E.coli là nguyên nhân chính tiêu chảy ở trẻ em. Việc phòng chống các bệnh do ăn uống gây ra là quan trọng vì các bệnh này có thể gây ra tình trạng suy nhược. Các bệnh do thực phẩm gây nên không chỉ là các bệnh ngộ độc cấp tính mà còn là các bệnh mãn tính do tích luỹ các chất độc hại. Kim loại nặng có thể nhiễm vào thực phẩm từ bao bì vật liệu chứa đựng, nước thải công nghiệp để tưới rau, nuôi trồng thuỷ sản. Đặc biệt là các hợp chất có nhân thơm đa vòng, độc tố vi nấm như Aflatoxin trong đậu, lạc mốc, gây ung thư. Nhiều nước đã có luật chống hàng giả, qui định sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật, nội tiết tố, kháng sinh và các chất hoá học nhân tạo khác. Nhiều thực phẩm có chứa các độc tố tự nhiên như nấm độc Gyromita, chất Solanin trong khoai tây mọc mầm, Cyanogen glucosid có trong sắn, Mytilotoxin ở một số loại nhiễm thể và Tetradotoxin trong trứng cá nóc Ngày nay nhiều nước đã nhận rõ tầm quan trọng của việc cung cấp sản phẩm an toàn và có giá trị dinh dưỡng tốt. Các hệ thống giám sát nhằm bảo vệ người tiêu dùng và khuyến khích thương mại, bao gồm các luật để bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm và để phòng hàng giả đã được thiết lập; kết hợp với công tác kiểm tra và giám sát chất lượng thực phẩm một cách thường xuyên. 2 Kiến thức về ngộ độc thực phẩm, hướng dẫn thực hành vệ sinh để xây dựng các chiến lược hành động cụ thể. Vệ sinh an toàn thực phẩm có vị trí rất quan trọng đối với sức khoẻ con người. Tạo môi trường trong sạch, cung cấp các thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, hợp vệ sinh, an toàn là biện pháp tốt nhất bảo vệ người tiêu dùng. 2. Tính cấp bách của công tác vệ sinh an toàn thực phẩm và một số giải pháp Nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực, thực phẩm thuộc loại sản phẩm chiến lược, ngoài giá trị kinh tế, còn có ý nghĩa to lớn về chính trị, xã hội và đời sống. Sự ô nhiễm vi sinh hoặc các chất độc hại làm giảm chất lượng sản phẩm trong quá trình bảo quản, chế biến, phân phối lưu thông và thường gây thiệt hại rất lớn, có khi tới 30% tổng sản lượng thu hoạch. Theo nghị định 86 CP ngày 8/12/1995 phân công trách nhiệm quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá , trong đó giao việc quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cho Bộ Y tế. Năm 1999, Viện Dinh Dưỡng đã tìm thấy thuốc diệt cỏ trong mẫu cà chua gây chết người tại Khánh Hoà. Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt quá tiêu chuẩn cho phép ở nhiều mẫu rau xanh. Hiện tượng lạm dụng thuốc kháng sinh và chất kích thích tăng trọng đã làm giảm chất lượng thịt cá. Ngoài ra, tác hại của vấn đề ô nhiễm môi trường, nguồn nước, khí thải công nghiệp đã ảnh hưởng lớn tới chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài ra một số cơ sở sản xuất vì lợi nhuận đã lợi dụng phẩm màu độc hại, che giấu sự gian dối về thành phần, chất lượng một số sản phẩm như bánh kẹo, nước giải khát, thịt quay, lạp xường, Đáng chú ý là thực phẩm sản xuất quá tràn lan trong dịp lễ hội, thức ăn vỉa hè, không đăng ký chất lượng, nên ai dám bảo đảm độ an toàn của các mặt hàng này? Theo báo cáo ngộ độc thực phẩm ở 53/61 tỉnh thành phố cho biết: Năm 1999 nước ta đã xảy ra 295 vụ ngộ độc với 6.953 người, có 65 ca tử vong, chủ yếu là ngộ độc từ thực phẩm. Ngày 04/02/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 4/1999/ QĐTT thành lập cục quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm thuộc Bộ Y tế, đây là giải pháp tăng cường công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm. Chương trình môn học này, giúp cho học sinh hiểu rõ và nắm được phương pháp đánh giá chất lượng thực phẩm: về cảm quan, về phân tích hoá học và các giải pháp khác. 3 Chƣơng 1. CHẤT LƢỢNG THỰC PHẨM Chất lượng thực phẩm là vấn đề rất quan trọng, nó quyết định sự sống còn của một sản phẩm trên thị trường và lợi nhuận của một xí nghiệp. Chất lượng sản phẩm không đảm bảo hoặc không ổn định theo tiêu chuẩn chung, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, chắc chắn sẽ bị họ từ chối tiêu thụ. Chương này đề cập tới một số vấn đề chung về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, đi sâu nghiên cứu một số yếu tố chính cấu thành chất lượng thực phẩm. I. Định nghĩa thực phẩm Mọi sinh vật sống trên trái đất đều có nhu cầu về ăn uống. Mỗi nước và mỗi vùng trong nước đều có cách ăn, uống và chế biến khác nhau. Thực phẩm lại chia ra thực phẩm thông thường liên quan đến bữa ăn hàng ngày của đa số dân số. Do đó, ta có thể định nghĩa: “Thực phẩm là loại sản phẩm dùng để ăn uống, có thể ở thể rắn, lỏng, nhằm mục đích dinh dưỡng, đảm bảo sự sống của con người”. Trong thực tế, thực phẩm có thể là thịt, trứng sữa, rau cỏ, thức uống có cồn, nước quả, .v.v.. Trên thế giới, nguyên liệu dùng làm thực phẩm cơ bản tương tự giống nhau ở các nước, chỉ khác nhau ở phương pháp chế biến, thị hiếu sử dụng. II. Chất lƣợng thực phẩm Chất lượng là một thuộc tính cơ bản của sản phẩm. Chất lượng được tạo nên từ nhiều yếu tố: nguyên liệu, sơ chế, kỹ thuật chế biến, bảo quản, .vv trong đó quá trình sản xuất là quan trọng nhất. Để quá trình sản xuất đạt chất lượng cao thì các bước công nghệ phải hợp lý, tiên tiến và thiết bị để thực hiện công nghệ trên phải tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật về chất lượng cho từng công đoạn sản xuất. Chất lượng của thực phẩm thể hiện trước tiên qua giá trị sử dụng của nó. Mặc dù yếu tố này rất quan trọng, nhưng không có nghĩa thực phẩm có giá trị hàng hoá cao là có chất lượng cao. Thực tế, khi thuộc tính bên trong của sản phẩm đã thay đổi nhưng giá trị sử dụng vẫn không đổi. Trên cơ sở phân tích trên, ta có định nghĩa sau: Chất lượng thực phẩm (sản phẩm nói chung) là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, nhằm thoả mãn nhu cầu của người sử dụng trong điều kiện khoa học, kỹ thuật, kinh tế, xã hội nhất định. Chất lượng sản phẩm phải gồm những tính chất đặc trưng của sản phẩm - đó là những tính chất quyết định, chủ yếu của sản phẩm, làm cho sản phẩm thoả mãn những 4 nhu cầu nhất định, phù hợp với công dụng của nó. Khi đánh giá chất lượng sản phẩm, không thể chỉ căn cứ vào một vài chỉ tiêu định lượng: về hoá sinh, vệ sinh, .v.v.. Chất lượng phụ thuộc điều kiện công nghệ, hoàn cảnh kinh tế và xã hội. Ví dụ hàng hoá dùng trong nước, do trình độ kinh tế, kỹ thuật còn thấp, chưa yêu cầu cao, mà chỉ cần đạt được theo tiêu chuẩn Việt Nam. Hàng hoá xuất khẩu sang các nước có trình độ kỹ thuật cao cần phải đạt được theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO). Có nhiều sản phẩm hải sản tiêu thụ trong nước không có vấn đề gì nhưng khi xuất khẩu lại đòi hỏi một số chất có trong sản phẩm phải có hàm lượng thấp (cloramphenicol). Giá trị sử dụng phụ thuộc vào kết cấu nội tại của sản phẩm, thay đổi khi kết cấu thay đổi. Ngược lại, chất lượng sản phẩm lại phụ thuộc vào nhu cầu xã hội. III. Các yếu tố cấu thành chất lƣợng thực phẩm Để tạo ra sản phẩm thì trước hết phải đi từ khâu nguyên liệu. Từ nguyên liệu chế biến thành bán sản phẩm rồi thành phẩm. Thành phẩm sẽ đưa vào khâu phân phối sử dụng. Tuỳ theo mục đích sử dụng mà thực phẩm có chất lượng khác nhau, do tính chất công nghệ khác nhau, do đó chỉ tiêu chất lượng cũng khác nhau. Các yếu tố cấu thành chất lượng được thể hiện trên tất cả các khâu. Do đó chất lượng thực phẩm là tập hợp những yếu tố khác nhau hợp thành. 1. Chất lượng dinh dưỡng Khi nói về thực phẩm, người ta nghĩ ngay đến chất lượng dinh dưỡng, chất lượng cần cho sự tồn tại và phát triển của con người. Đó là năng lượng tiềm tàng dưới dạng các hợp chất hoá học chứa trong thực phẩm. Năng lượng đó được thể hiện dưới dạng số lượng có thể đo được (lượng calo). Thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, nghĩa là có khả năng sản sinh ra một lượng calo lớn. Ngược lại thực phẩm có chất lượng thấp, sản sinh ra một lượng calo nhỏ. Chính vì thế, việc lựa chọn khẩu phần ăn cho từng đối tượng khác nhau cũng thể hiện qua chỉ số này. Thức ăn cho vận động viên thể thao, cho người bệnh, người lớn hoặc trẻ em sẽ có lượng calo khác nhau. Về phương diện chất lượng, là sự cân bằng về thành phần dinh dưỡng theo từng đối tượng tiêu thụ (hàm lượng các chất vi lượng, .v.v). Thực tế, thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao, không phải bao giờ cũng được đánh giá tốt mà còn phụ thuộc vào mục đích sử dụng và phong tục tập quán. ăn uống nhằm cung cấp đầy đủ, cân đối và hợp lý các chất cần thiết cho cơ thể con người; duy trì sự sống, sức khoẻ và khả năng làm việc. Các chất dinh dưỡng đóng vai trò 5 quan trọng trong quá trình điều chỉnh trao đổi chất. Một người có trọng lượng khoảng 70Kg anbumin, 7 10Kg chất béo, 2,5 3Kg chất khoáng và 0,5 0,8Kg hyđrat cácbon. Ngoài các chất cơ bản trên, cơ thể con người còn cần tới Vitamin, các men, ... Các hoạt động sống của sinh vật trên thế giới đặc trưng và chung nhất là quá trình trao đổi chất. Nhờ có trao đổi chất mà sinh vật chủ động thích nghi với môi trường. Trong quá trình trao đổi chất của cơ thể, thức ăn đóng vai trò quan trọng. Về bản chất đó là các hợp chất hữu cơ và vô cơ khác nhau có trong thành phần của thực phẩm: protein, gluxit, lipit, Natri, canxi, phốtpho, vitamin, ... 2. Chất lượng vệ sinh Chất lượng vệ sinh thực phẩm, thực chất là tính an toàn của thực phẩm đối với con người. Tính chất này tuyệt đối có tính nguyên tắc. Thực phẩm không được chứa bất kỳ độc tố nào ở hàm lượng nguy hiểm cho người tiêu thụ. Danh mục các loại độc tố cho trong các tiêu chuẩn (TCVN, ISO). a/ Trúng độc thức ăn do vi trùng. + Các vi trùng: trúng độc thức ăn là những bệnh có triệu chứng ngộ độc, phát triển rất nhanh và trong thời gian ngắn. Bệnh do một số vi trùng salmonella như: - Salmonella enteritidis (Bacille Gartner). - Salmonilla tiphimurium (Bacille d Aertrycke). - Salmonilla Cholérae suis. Ngoài ra còn do một số trực trùng đường ruột như: trực trùng Para-coli, proténs morgani và shigella crayze-sonna. Các vi trùng salmonella paratyphi có tính gây bệnh yếu, do đó chỉ gây bệnh khi có nhiều vi trùng vào thức ăn. Salmonella paratyphi ưa ruột, do đó từ hệ tuần hoàn, chúng chui qua thành ruột và gây viêm ruột. Khi vi trùng chết thì nội độc tố được thoát ly. Vi trùng sẽ bị tiêu diệt khi đun tới nhiệt độ cần thiết. Chứng trúng độc thường do thực phẩm động vật gây nên (68 - 88%). Khi vi trùng phát triển, thực phẩm có mùi chua. Phần lớn các trường hợp trúng độc là do đem giết thịt những con vật đã mang vi trùng salmonilla từ khi chúng còn sống. ở nhiệt độ 600Csau 1 giờ hoặc 700C sau 5 phút vi trùng sẽ chết. b/ Trúng độc về kim loại và á kim. Các kim loại (chì, thiếc, kẽm, đồng, cadmium) và á kim độc có thể vào thực phẩm bằng nhiều cách. 6 - Chúng có thể là những thành phần thiên nhiên của môi trường bên ngoài vào các tổ chức của động thực vật. Số lượng kim loại thiên nhiên này ở trong tổ chức không nhiều, không gây độc. Nhưng nếu từ nguồn khác xâm nhập, lượng kim loại sẽ tăng thêm. Vì vậy nghiên cứu trúng độc vì kim loại, cần lưu ý lượng kim loại thiên nhiên có sẵn trong thực phẩm. - Hộp, chai đựng thức ăn có kim loại độc. - Khi tẩy trùng thực vật bằng thuốc sát trùng có kim loại độc, các chất này còn bị nhiễm trên mặt thực phẩm thực vật. - Trong quá trình chế biến thực phẩm. Ví dụ làm chua thực phẩm bằng axit hữu cơ có lẫn chì. + Trúng độc chì: chì có tính chất tích chứa trong cơ thể và dần dần xuất hiện tác dụng đầu độc (mỗi ngày ăn phải 10mg chì, thì sau khoảng thời gian ngắn đã có hiện tượng trúng độc). Lượng chì giới hạn trong một ngày khoảng 0,2 0,5mg. ở thành phố chì xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn 0,22mg, nước uống 0,20mg, từ không khí 0, 08mg. Tổng số trong một ngày đạt 0,5mg. Bảng 1.1. Lượng chì trong thực phẩm (Monia Williams) (mg/1Kg thực phẩm) Thực phẩm Lượng chì Thực phẩm Lượng chì Hoa quả tươi 0,2 0,9 Gạo 0,4 Đậu hộp 0,8 Bánh mì trắng 0,2 Sữa chocolat 1,2 Cua 0,3 Thịt miếng 2,0 2,4 Chè 1,9 10,2 Gia vị 0,2 4,0 Cà phê 0,4 Nguồn chì xâm nhập vào thực phẩm do: - Men sành: người ta thường tăng lượng ôxit chì trong men để cho dễ chảy. Khi lượng ôxit chì trong men quá nhiều sẽ không kết hợp với axit silicique. Phần còn lại dễ hoà tan trong nước chua và vào thực phẩm. Những đồ sành tốt về phương diện chì vẫn cho thoát 1,7 48mg chì vào lít axit axêtic. Đồ sành còn cho thoát chì cả sau khi tôi bằng axit axêtic tới 14 lần (Reisler). - Đồ sắt tráng men: trong đồ sắt tráng men chất lượng thấp, có lượng lớn muối chì có thể hoà tan trong axit. Khi nấu rau quả trong các dụng cụ đó, lượng chì thoát ra có thể tới 2 8mg/dm2. Trong các đồ sắt tráng men chất lượng cao, chất lượng chì trong men rất ít và ở dạng không hoà tan. 7 - Dụng cụ bằng kim loại: những khay bọc chì của máy làm axit thực phẩm hoặc phẩm nhuộm thực phẩm, những dụng cụ làm nước uống bão hoà axit cacbonic đều có thể thoát chì vào thực phẩm. Lá lót các hòm đựng chè, cũng như giấy chì để gói chè giữ cho chè khô cũng có thể có chì. - Chất diệt côn trùng thường là hợp chất chì và arsenic, bán lại trên thực phẩm. + Trúng độc Arsenic. Liều lượng độc chết của anhydrrit arsénieux (AS2O3) là 0, 06g. Liều lượng độc chết trong trường hợp trúng độc cấp là 0,15g. Arsenic phần lớn tập trung ở gan. Những chất nhuộm thức ăn nhân tạo thường chế với arsenic. Arsenic là thành phần của nhiều thuốc trừ sâu, nên có thể sót lại trên rau, quả. Theo tiêu chuẩn lượng arsenic tối đa sót lại trên táo là 1,4mg/Kg. Lượng arsenic không được quá 0,01% trên lá thiếc và 0,015% trong nhôm làm dụng cụ. + Thiếc: thiếc thường thấy trong các tổ chức của động thực vật dưới hình thức thành phần thiên nhiên. Lượng thiếc tìm thấy dưới da 6 9,5mg/Kg. Dụng cụ mạ thiếc hoặc bằng sắt tây trắng, nên thiếc thường có trong thức ăn. Đặc tính của thiếc còn chưa rõ, nên theo tiêu chuẩn cho phép có l ... ô hàng theo quy định và đối chiếu với hồ sơ lô hàng kèm theo. Kiểm tra tình trạng bao bì trong lô hàng. Kiểm tra tình trạng lô hàng bảo quản trong kho. Khi phát hiện lô hàng không đồng nhất, cần phân chia lô hàng làm nhiều phần, mỗi phần có tính chất gần giống nhau. Loại bỏ những sản phẩm hỏng và ghi chú trong biên bản lấy mẫu. Vị trí lấy mẫu ngẫu nhiên như phần trên đã trình bày. (Hình 3.1) trình bày sơ đồ lấy mẫu hàng với hai trường hợp: sản phẩm được bao gói và sản phẩm không bao gói. Dụng cụ lấy mẫu có hình dáng, cấu tạo phụ thuộc vào loại sản phẩm, cho phép lấy được mẫu ở vị trí và độ dày bất kỳ. Đối với sản phẩm dạng lỏng hay khí, dụng các dụng cụ như ống, dây bằng nhựa hoặc thuỷ tinh. Dụng cụ lấy mẫu từ bao, túi hàng dùng xiên, muỗng, .vv dụng cụ lấy mẫu phải sạch, khô, không bị nhiễm bẩn. 36 Lấy mẫu từ dây chuyền sản xuất, là hệ thống liên tục, cho phép kiểm tra quy trình sản xuất có ổn định hay không. Mẫu trong một lô, thường là mẫu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm trong kho. Mẫu cho phép xác định và đánh giá chất lượng của sản phẩm, thường là đánh giá theo tỷ lệ khuyết tật. Lấy mẫu sản phẩm có bao gói, các bao gói được lấy độc lập đối với dự kiến của người lấy. Việc bảo quản, vận chuyển mẫu tới phòng thí nghiệm cần phải hết sức cẩn thận. Mẫu thí nghiệm được đựng trong các dụng cụ sạch, trơ, tránh nhiễm bẩn, tránh làm hư hỏng mẫu khi vận chuyển. Dụng cụ chứa mẫu phải niêm phong. Mẫu lưu phải được bảo quản trong điều kiện khô ráo, sạch sẽ, thoáng mát ở điều kiện nhiệt độ và độ ẩm không khí phù hợp với từng loại sản phẩm. 3. Kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên + Lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản. áp dụng khi lấy mẫu trong kho, trong một tập hợp, lấy ra một lượng mẫu bất kỳ ở những vị trí bất kỳ. Cách lấy mẫu này sẽ đại điện cho lô hàng và cho ta kết quả có thể tin cậy được. Tuy nhiên trong một lô hàng có hàng vạn sản phẩm, việc lấy mẫu trở nên rất phức tạp, rất vất vả và đôi khi khó thực hiện. + Lấy mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Trong sản xuất theo dây chuyền, sản phẩm đi ra liên tục. Mẫu được lấy theo chu kỳ trong thời gian sản xuất. Thường người ta lấy các sản phẩm ra cách đều nhau một giá trị k nào đó – gọi là khoảng lấy mẫu. Khoảng lấy mẫu phụ thuộc vào độ lớn của cỡ lô (N) và độ lớn của cỡ mẫu (n). Khoảng lấy mẫu xác định theo: N k n Ví dụ trong một ca sản xuất nước khoáng đóng được 8.000 chai liên tục. Để kiểm tra chất lượng sản phẩm của ca đó, cần lấy 100 chai làm mẫu. Ta có k = 8000/100 = 80. Điều này có nghĩa là cứ cách 80 chai trong dây chuyền liên tục, ta lấy 01 chai mẫu. Chai đầu tiên lấy trong khoảng 00 đến 80. Ví dụ: chai thứ 20 là mẫu đầu tiên, mẫu thứ hai là 20 + 80 = 100 trong dây chuyền. Mẫu thứ ba là 100 + 80 = 180, mẫu thứ tư là 180 + 80 = 260, vv Phương pháp này cũng dùng cho việc lấy mẫu sản phẩm trong kho. + Lấy mẫu nhiều mức. 37 Dùng phương pháp này khi sản phẩm bảo quản trong kho xếp trên các giá, trong thùng, trong hộp. Kỹ thuật lấy mẫu lúc này là phân chia lô hàng trong kho thành nhiều mức. - Mức thứ nhất: các giá. - Mức thứ hai: các thùng. - Mức thứ ba: các hộp. Nguyên tắc lấy mẫu như sau: Lấy ngẫu nhiên một số đơn vị ở mức thứ nhất. Trong số này, ta chọn ngẫu nhiên một số đơn vị ở mức hai. Cuối cùng chọn một số đơn vị ở mức ba từ các đơn vị ở mức hai đã chọn được. Lấy mẫu như vậy gọi là lấy mẫu theo mức giảm dần. Việc lấy mẫu nhiều mức tuy dơn giản nhưng kém chính xác hơn so với lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản. Sau khi lấy được các mẫu đại điện, với các chỉ tiêu nguy hiểm như độc tố (trừ vi sinh) ta cần trộn đều các mẫu tạo nên một hỗn hợp, lấy một phần đi phân tích. Đối với các chỉ tiêu khác, ta cần phân tích 100% số mẫu lấy được, từ đó đánh giá lô hàng. IV. Đánh giá kiểm tra chấp nhận Trong trường hợp đánh giá chất lượng một lô; hoặc một tập hợp, bắt đầu từ những thông tin đã cho của mẫu. Ta cho khoảng tin cậy, tìm giá trị thực của thông số nghiên cứu: phần trăm hư hỏng, giá trị trung bình, độ phân tán. Trường hợp kiểm tra được chấp nhận, thông tin được từ mẫu so với giá trị chuẩn. Ta sẽ phải có quyết định chấp nhận hoặc từ chối (kiểm tra nguyên liệu, kiểm tra các công việc trung gian, tự kiểm tra cuối cùng ở nhà máy, kiểm tra bởi khách hàng). Khi biết qui luật biến động của việc lấy mẫu; những đánh giá có thể xung quanh giá trị thực, ta có thể nhận xét: - Trường hợp đánh giá chất lượng thông tin bằng cách cho một khoảng gọi là độ tin cậy (1 - ), tìm giá trị thật của thông số đánh giá. - Trường hợp một kiểm tra chấp nhận, hiệu quả của kế hoạch bằng cách kết hợp nguy cơ để đi tới quyết định đi tới nguy cơ (thu được từ đường cong hiệu quả) khi từ chối. - Trong các kiểm tra này trên mẫu, không được quên 4 điều tiên quyết sau (phải ghi vào trong hợp đồng trong trường hợp một kiểm tra chấp nhận): Bảo đảm rằng các lô có độ đồng nhất cao (không có yếu tố không đồng nhất). Những lô của hai nơi cung cấp được chấp nhận riêng. 38 Cho những xác định chính xác: Trường hợp một kiểm tra vẽ đo đặc (những điều kiện và độ chính xác của phép đo...). Trường hợp một kiểm tra về thuộc tính đặc tính xấu với những phương pháp xác định... Cho phương pháp chính xác để xác định: Ngẫu nhiên và độc lập (tỉ lệ thăm dò < 10%...) Luôn cho: Giả sử tin cậy, nguy cơ chọn (trường hợp đánh giá); giả sử đường cong hiệu quả (trường hợp kiểm tra chấp nhận). Bảng 3.3. Những trường hợp chính của kiểm tra thực tế Kiểu kiểm tra Đánh giá: giá trị chưa biết để đánh giá mức độ lô Chấp nhận: Xác nhận những yêu cầu riêng lý thuyết ở mức của lô Kiểm tra bằng đo : Trung bình của lô = m0 hàm lượng trung bình = 0 Xác nhận độ đồng nhất : Độ lệch tiêu chuẩn của lô m0 hàm lượng tối thiểu m0 hàm lượng cực đại < 0 đủ độ đồng nhất Kiểm tra thuộc tính : Phần trăm sản phẩm trong lô P % < NQA Mức chất lượng chấp nhận Một cách chung, người ta có khuynh hướng tăng kích thước n của mẫu với hiệu quả N của lô: những quyết định chấp nhận được bắt đầu từ một mẫu của lô có kích thước lớn phải chắc chắn hơn (hậu quả là tài chính lớn). Cần phải nhận thức rằng sự chính xác của thông tin phụ thuộc vào kích thước n của mẫu và không phụ thuộc vào tỉ số n /N. Ngoài ra, tăng độ chính xác thì trước tiên là độ nhậy cảm đối với mẫu, hiệu quả yếu (đường cong hiệu quả). Tuy nhiên đối với lô lớn cần độ chính xác vừa đủ, tỉ số thăm dò và chi phí tương đối của kiểm tra sẽ thấp. 1. Đánh giá trung bình của lô hoặc khoảng của lô Miền giới hạn bởi khoảng tin cậy có một khả năng (1- ) chứa giá trị thực của thông số nghiên cứu (m hoặc ). Điều này cho phép có một thứ tự của độ lớn hoặc giá trị 39 trung bình hoặc của khoảng (chỉ số độ đông nhất của lô đo trong phòng thí nghiệm). Trường hợp chỉ số phân tán, người ta thường sử dụng một khoảng tin cậy ở giới hạn trên. + Tính toán của người đánh giá. Tính toán bắt đầu từ một mẫu kích thước n những giá trị (chỉ có giá trị được tính với khoảng tin cậy đối với độ lệch). n x x n 2 2 21 1 1 x x x x n n n (Xác định trong trường hợp duy nhất bắt đầu từ n phép đo mẫuX) 1n cho máy tính. + Khoảng tin cậy. Bảng 3.4. Khoảng tin cậy Khoảng của độ tin cậy (1 - ) Độ tin cậy (1 - ) % mà trong khoảng độ tin cậy chứa những thông số chưa biết của lô Tính toán khoảng giới hạn Trung bình () Hai bên (nguy cơ 2 mỗi bên) 2 1n A x t n Một bên (giới hạn dưới) (nguy cơ bên trái) 2 1n B x t n Một bên (giới hạn trên) (nguy cơ bên phải) ' 1nB x t n A nx B A nx nx B’ 40 Độ lệch chuẩn () Hai bên (Nguy cơ 2 mỗi bên) 2 2 2 1 2 1 1 n A n B Một bên (giới hạn trên) (nguy cơ bên phải) '' 2 1 n n B Ghi chú: Những giá trị của T của Student và của 2 cho trong bảng phụ lục vào. Số bậc tự do = (n – 1) Trị số 2 ; ; 1 - ; hoặc 1 2 Có thể sử dụng bảng N02, N 0 3 của NF – X – 06 – 072. Thí dụ áp dụng: Nghiên cứu những giới hạn của khoảng tin cậy hai bên ở 95%. Đối với giá trị trung bình một lô. Ta lấy một mẫu có những đặc tính sau: 65,8; 0,8; 18nx n 2 1n x t n n=18 = 17 = 5% 1 97,5% 2 lc(m): 65,8 0,4 = 65 0,4 2. Đánh giá phần trăm của sản phẩm hỏng Đã có nhiều bảng được tính toán đối với nguy cơ đã cho: 5%, 1% ,2%... ở đây giới thiệu bảng 3.4. Bảng 3.5. Khoảng tin cậy theo %: nguy cơ 5% Kích thước mẫu Phần trăm được quan sát 1% 3% 5% 10% 15% 20% 10 0 – 45 1 – 50 3 – 56 A B B’’ Bảng tg97,5 = 2,11. 41 20 0 – 25 1 – 32 3 – 38 6 – 44 30 0 – 19 0 – 20 2 – 27 5 – 33 8 – 34 40 0 – 15 1 – 17 3 – 24 6 – 30 9 – 36 50 0 – 13 1 – 15 3 – 22 6 – 28 10 – 34 60 0 – 12 1 – 14 4 – 21 7 – 27 11 – 32 80 0 – 10 1 – 12 4 – 19 8 – 25 12 – 30 100 0 – 6 1 – 9 2 – 11 5 – 18 9 – 24 13 – 29 0 – 4 1 – 7 2 – 9 5 – 15 10 – 21 15 – 26 5000 – 0,25 500 Thí dụ: Một mẫu có kích thước 20, cho phần trăm quan sát 5% ( K = 1 hỏng trên 20), cho phép nói rằng có 95% dịp mà trong khoảng của nó 0 – 25% chiếm giá trị của phần trăm chưa biết sản phẩm hỏng trong lô. Người ta thấy rằng trong trường hợp một kiểm tra bởi thuộc tính, độ chính xác thông tin không lớn (người ta dùng nói chung những mẫu có kích thước 30 đến 50) và nó tăng rất nhanh ở phần đầu của mười (P < 5%) kích thước của mẫu trở nên quá cao nhanh chóng. 3. Sử dụng đường cong hiệu quả (ước lượng của nguy cơ ) Trong trường hợp kiểm tra chấp nhận bằng đo, đường cong hiệu quả được xác định nhờ nguy cơ một bên hoặc hai bên và số bậc tự do của . Người ta nhận giá trị trên đường cong phụ thuộc vào các thông số sau: Nguy cơ một bên và hai bên (noi chung 5% hoặc 1%) Kích thước mẫu để xác định = n – 1 Sự chênh lệch trung bình của lô so với giá trị chuẩn m0. - Giả sử một đơn vị độ lệch chuẩn với 0 m = 1% - thử hai bên, = 0,5% - thử một bên ưu điểm của đường cong này là để so sánh hiệu quả hiệu quả của phép thử phụ thuộc vào = n – 1 (đối với đã cho) và biên độ lệch. 42 - Giả sử một đơn vị độ lệch chuẩn / n với 0' n m Những nấc thang của đồ thị này cho phép đọc chính xác hơn. Trường hợp so sánh hiệu quả, có thể tìm bằng cách tính theo ' 1 Thí dụT: Sắc lệnh ngày 20 tháng 10 năm 1978 yêu cầu một phép thử Student một bên với giới hạn dưới (nguy cơ bằng 0,5%, ngắt bên trái) để kiểm tra trung bình một lô (bị bắt). Cho kích thước n = 30, hiệu quả của lô nằm giữa 100 và 500 (điều kiện rút ra độc lập, suất thăm dò < 10%), không thoả mãn đối với lô gồm giữa 100 và 300. thì được hệ thông hoá giá trị cao trong trường hợp này và nguy cơ giảm. Về mặt lý thuyết giá trị của Student t đối với phần (1 - ) = 0, 995 và = n -1 = 29 thì t = 2, 756. Điều kiện rút ra. 1 2,756 30 n N Nx Q t Q n 0,503n Nx Q giá trị đã cho bị bắt Nếu một mẫu cho kết quả như dưới đây, đánh giá tư chối hay chấp nhận QN = m0 = 250g 30 245 3 n n x (xn = 245) < ( QN – 0,5 = 248,5) Chúng ta có thể quyết định đưa lô có nguy cơ xuống thấp 0,5%. Ta duy tri xác suất chấp nhận H0 ( = 250g). Người ta giả thiết răng giá trị thực của ở mức độ của lô là 248g. = 0,5% một bên 1 29 15 20% 248 250 0,67 3 n Hoặc = 0,5% một bên ' 29 30 248 250 3,65 20% 3 Nếu không muốn chấp nhận trong trường hợp này, lô không quá 10% trường hợp, ta xác diịnh kích thước của mẫu. 43 44 = 0,5% một bên = 0,67 n # 40 = 10% 4. Kế hoạch kiểm tra đơn giản Giả sử cần xác đinh bởi n và c (số sản phẩm hư hỏng cực đại tìm trên mẫu, để chấp nhận một lô); giả sử bằng hai cặp ( , p1 %) và (, p2 %). Thí dụ đường cong hiệu quả (kế hoạch đơn giản) Thí dụ: Kiểm tra phá huỷ đối với lô có kích thước N > 100 (bi bắt giữ). Người ta yêu cầu kế hoạch lấy mẫu đơn giản (n = 20, c = 1). Ta có thể tìm trên đường cong hiệu quả trong số những số liệu. Những điểm của đường cong hiệu quả (n = 20, % thay đổi, xác suất (x 1) Xác suất chấp nhận của lô 100% 94% (giả sử g =6%) 73,6% 34,2% 6,9% 0,8% Phần trăm sản phẩm hư hỏng trong lô ( )... 0% NQA = 2% 5% 10% 20% 30% V. Sơ đồ nhân quả 1. Nguyên nhân gây biến động chất lượng Thực tế cho thấy trên cùng một dây chuyền sản xuất và sơ đồ công nghệ như nhau. Nguyên nhân của hiện tượng trên là do có sự tác động của một số yếu tố chủ yếu, làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, trong đó phải kể đến: nguyên vật liệu chủ yếu, phương tiện và thiết bị sản xuất và phương pháp sản xuất. Sơ đồ nhân quả thể hiện trên sơ đồ: Nguyên vật liệu Phương pháp sản xuất Chất lượng sản phẩm Máy móc, thiết bị Phương pháp đo lường 45 Trong quá trình sản xuất, chất lượng nguyên vật liệu biến động, không được kiểm tra chặt chẽ dẫn đến chất lượng của nó không đồng đều. Máy móc thiết bị không được kiểm tra và điều chỉnh ở chế độ tốt nhất, do đó chất lượng hoạt động sẽ kém, ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Ngoài ra còn yếu tố phương pháp sản xuất không hiện đại và việc đo lường thiếu chính xác cũng là nguyên nhân quan trọng. 2. Cách xây dựng sơ đồ nhân quả Người ta rất khó có thể tìm ra được tất cả các nguyên nhân làm cho chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu, mà chỉ có thể nêu ra một số nguyên nhân chính và phụ. Trên cơ sở đó, ta có thể xây dựng được sơ đồ nhân quả một cách cần thiết. Ví dụ: Trong một xí nghiệp sản xuất đồ hộp, sau khi ghép mí, nhiều nắp hộp bị hở. Cần tìm nguyên nhân trong sản xuất để tìm cách khắc phục; Ta có sơ đồ sau: Môi trường Nhân lực Phương pháp Vết hở sau khi ghép hộp Thiết bị Vật liệu Từ các yếu tố chính, tìm các yếu tố tỉ mỉ hơn. Cách làm đó sẽ cho ta lần lượt tìm ra các nguyên nhân. Người ta gọi đó là phương pháp phân tán. Hình 3.8 thể hiện sơ đồ nhân quả khi tìm ra mọi nguyên nhân từ lớn đến nhỏ gây ra vết hở của nắp hộp ở ví dụ trên. 46 Chai Dỡ chai Người cọ rửa Người nạp Đậy nắp Khử trùng Đường nứt Tia Độ phẳng Độ bền Điều chỉnh Tốc độ Sự va chạm Trang bị áp suất Nước Nhiệt độ Bộ đảo chiều Trang bị Hiệu chỉnh thanh dẫn Số lượng Sản phẩm Nhiệt độ Vành dẫn hướng Trang bị Khoảng tự do Thiếu đệm Giống nhau Nắp Thủng Kim loại Độ phẳng Tai biến dạng T. yếu Xiết T. mạnh Trang bị Vị trí Áp suất Thùng Thiếu thanh bảo vệ Sụt áp Trang bị Nhiệt độ nước 47 Hình 3.5. Đồ thị nguyên nhân kết quả (mô hình phương pháp) CÂU HỎI ÔN TẬP CHƢƠNG 3 1 - Kiểm tra thống kê là gì? Đưa phiếu kiểm tra vào nhà máy (CSP) có tác dụng gì? 2 - Trình bày cách xây dựng biểu đồ phân bố của các số liệu thực nghiệm? 3 - Trình bày cách lấy mẫu và đánh giá kiểm tra chấp nhận? 4 - Trình bày một ví dụ cụ thể nào đó trong sản xuất? Người dò tìm Rò rỉ trên chai Vị trí của chai Trang bị Bảo dưỡng Sự lặp lại Điều chỉnh
File đính kèm:
- giao_trinh_quan_li_va_kiem_tra_chat_luong_thuc_pham_phan_1.pdf