Hiện trạng kim loại nặng trong trầm tích tại khu sinh quyển Cần giờ, thành phố Hồ Chí Minh

Trong nhiều năm trở lại đây do sử dụng nhiều các loại thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, phát triển công nghiệp, vận chuyển hàng hải cũng nh- việc đô thị hóa tăng nhanh đ7 gây ô nhiễm nhiều nguồn n-ớc do phế thải không qua xử lý đổ ra sông, theo sông ra biển gây ô nhiễm nhiều vùng rộng lớn. Ngoài việc gây ô nhiễm môi tr-ờng, nguồn n-ớc, quá trình lắng đọng, tích tụ phế thải trong đó có nhiều kim loại nặng trong lớp trầm tích có thể gây ra quá trình tích tụ sinh học thông qua chuỗi sinh thái tự nhiên đối với nhiều loại động vật đáy, trong đó có tôm, cua, cá, trai, ốc. là những nguồn thực phẩm quan trọng cho cộng đồng. Khu sinh quyển Cần Giờ, tp Hồ Chí Minh nằm ở l-u vực 2 sông lớn là sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Đây là nơi hội tụ của nhiều hoạt động công nông nghiệp, giao thông, đô thị từ th-ợng nguồn đến cửa biển nên chắc chắn cũng không tránh khỏi tác động đó. Cùng với những nghiên cứu sinh thái học nhóm động vật đáy trong đó có tuyến trùng [2-5] thì nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm kim loại nặng trong lớp bùn đáy đến hệ sinh vật đáy cũng b-ớc đầu đ-ợc tiến hành. Qua kết quả nghiên cứu, có thể đánh giá ảnh h-ởng của kim loại nặng đến quá trình tích tụ sinh học của sinh vật đáy trong cùng hệ sinh thái

pdf 6 trang dienloan 6700
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng kim loại nặng trong trầm tích tại khu sinh quyển Cần giờ, thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng kim loại nặng trong trầm tích tại khu sinh quyển Cần giờ, thành phố Hồ Chí Minh

Hiện trạng kim loại nặng trong trầm tích tại khu sinh quyển Cần giờ, thành phố Hồ Chí Minh
 81
33(3): 81-86 Tạp chí Sinh học 9-2011 
HIệN TRạNG KIM LOạI NặNG TRONG TRầM TíCH 
TạI KHU SINH QUYểN CầN Giờ, THàNH PHố Hồ CHí MINH 
PHạM KIM PHƯƠNG 
Trung tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm, tp Hồ Chí Minh 
NGUYễN ĐìNH Tứ , NGUYễN Vũ THANH 
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật 
Trong nhiều năm trở lại đây do sử dụng 
nhiều các loại thuốc bảo vệ thực vật trong nông 
nghiệp, phát triển công nghiệp, vận chuyển hàng 
hải cũng nh− việc đô thị hóa tăng nhanh đ7 gây 
ô nhiễm nhiều nguồn n−ớc do phế thải không 
qua xử lý đổ ra sông, theo sông ra biển gây ô 
nhiễm nhiều vùng rộng lớn. Ngoài việc gây ô 
nhiễm môi tr−ờng, nguồn n−ớc, quá trình lắng 
đọng, tích tụ phế thải trong đó có nhiều kim loại 
nặng trong lớp trầm tích có thể gây ra quá trình 
tích tụ sinh học thông qua chuỗi sinh thái tự 
nhiên đối với nhiều loại động vật đáy, trong đó 
có tôm, cua, cá, trai, ốc... là những nguồn thực 
phẩm quan trọng cho cộng đồng. 
Khu sinh quyển Cần Giờ, tp Hồ Chí Minh 
nằm ở l−u vực 2 sông lớn là sông Đồng Nai và 
sông Sài Gòn. Đây là nơi hội tụ của nhiều hoạt 
động công nông nghiệp, giao thông, đô thị từ 
th−ợng nguồn đến cửa biển nên chắc chắn cũng 
không tránh khỏi tác động đó. Cùng với những 
nghiên cứu sinh thái học nhóm động vật đáy 
trong đó có tuyến trùng [2-5] thì nghiên cứu về 
tình trạng ô nhiễm kim loại nặng trong lớp bùn 
đáy đến hệ sinh vật đáy cũng b−ớc đầu đ−ợc tiến 
hành. Qua kết quả nghiên cứu, có thể đánh giá 
ảnh h−ởng của kim loại nặng đến quá trình 
tích tụ sinh học của sinh vật đáy trong cùng hệ 
sinh thái. 
I. PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU 
1. Thu mẫu tại hiện tr−ờng 
Mẫu trầm tích đ−ợc thu làm 2 đợt là mùa 
m−a (11/2005) và mùa khô (4/2006). Trong tổng 
số 20 địa điểm đ−ợc chia thành 5 vùng khác nhau 
là vùng chuyển tiếp (CG1, CG2, CG3, CG4), 
vùng nuôi trồng thủy sản (CG5, CG6, CG7, 
CG8), vùng n−ớc thải công nghiệp (CG17, CG18, 
CG19 và CG20), vùng lõi 1 (CG9, CG10, CG11, 
CG12) và vùng lõi 2 (CG13. CG14, CG15 và 
CG16). Vị trí, toạ độ, thời gian và sơ đồ thu mẫu 
đ−ợc trình bày trong bảng 1 và hình 1. 
Lấy các mẫu trầm tích bằng ống piton nhựa 
tiêu chuẩn, đ−ờng kính 40 mm với lớp bùn đáy 
từ bề mặt tới độ sâu khoảng 20 cm. Mẫu đ−ợc 
đựng trong các túi nilon sạch và bảo quản lạnh 
(4oC) bằng thùng đá và chuyển ngay về Trung 
tâm Phân tích thí nghiệm tp Hồ Chí Minh trong 
ngày phục vụ cho các phân tích. 
2. Phân tích kim loại nặng 
Tất cả các kim loại nặng trong bùn đáy, bao 
gồm Cr, Zn, Cu, Cd, Pb (trừ Hg, As), dầu mỡ và 
thuốc trừ sâu gốc clo hữu cơ đ−ợc định l−ợng 
trên máy phân tích quang phổ phát xạ plasma. 
Ph−ơng pháp xử lý mẫu đ−ợc áp dụng là AOAC 
990.08. 
Mẫu lấy về đ−ợc phơi khô trong không khí, 
sau đó mẫu đ−ợc gi7 và rây với kích th−ớc lỗ 
0,25 cm sau đó sẽ tuỳ theo đối t−ợng phân tích 
sẽ có cách xử lý khác nhau. 
Phân tích định tính các kim loại nặng, dầu 
mỡ và thuốc trừ sâu gốc clo: Sau khi mẫu đất 
mùn đ−ợc xử lý bằng hỗn hợp HCL và HNO3 
trong 1 giờ trên bếp điện, để nguội sấy khô và 
xử lý thêm một lần nữa với axít HNO3, sau đó 
mẫu đ−ợc lọc, chuyển về dạng dung dịch, sau 
đó mẫu đ−ợc đo trên thiết bị phân tích quang 
phổ phát xạ plasma (Inductively coupled plasma 
atomic emmission spectrometric - ICP). 
Ph−ơng pháp Varian AA-72 cho Hg, 
AOAC-990.08 cho As. Mẫu sau khi đ7 đ−ợc xử 
lý sẽ đo trên máy hấp thụ nguyên tử không ngọn 
lửa cùng với bộ Hydrua đối với Hg và đo As 
trên AAS với bộ Hydrua của As. 
 82 
Hình 1. Sơ đồ các điểm thu mẫu tại rừng ngập mặn Cần Giờ 
Bảng 1 
Địa điểm và thời gian thu mẫu trong mùa m−a và mùa khô 
Ngày thu mẫu 
Ký hiệu Địa điểm thu mẫu Tọa độ 
11/2005 4/2006 
CG1 Bình Khánh 69o45'38'' B - 117o99'21'' Đ 07/11 12/04 
CG2 Tắc Tây Đen 70o19'49'' B - 117o45'03'' Đ 07/11 12/04 
CG3 Cửa Tắc Rạch Lá 69o49'89'' B - 117o33'41'' Đ 07/11 12/04 
CG4 Cầu Rạch Lá 69o90'96'' B - 117o25'10'' Đ 07/11 12/04 
CG5 Sông Soài Rạp 69o51'92'' B - 116o94'68'' Đ 07/11 12/04 
CG6 Cửa Lạch 69o45'67'' B - 116o66'40'' Đ 07/11 12/04 
CG7 Cầu Vàm Sát 69o31'75'' B - 116o52'50'' Đ 07/11 12/04 
CG8 Tiểu khu 8 69o43'86'' B - 116o56'18'' Đ 07/11 12/04 
CG9 Không tên 69o93'93'' B - 116o93'24'' Đ 06/11 11/04 
CG10 Không tên 70o08'62'' B - 116o40'97'' Đ 06/11 11/04 
CG11 Không tên 69o95'96'' B - 116o19'91'' Đ 06/11 11/04 
CG12 Không tên 70o16'98'' B - 116o17'40'' Đ 06/11 11/04 
CG13 Tắc Cá Đao 70o75'16'' B - 116o78'34'' Đ 07/11 11/04 
CG14 Tiểu khu 13 70o97'41'' B - 116o39'37'' Đ 07/11 11/04 
CG15 Tắc Ăn chè 70o79'68'' B - 116o11'68'' Đ 07/11 11/04 
CG16 Tắc Cống Cá Ngâu 70o97'64'' B - 115o98'53'' Đ 07/11 11/04 
CG17 Tắc Cổ Cò 71o95'64'' B - 117o36'33'' Đ 06/11 11/04 
CG18 Trạm Kiểm lâm Gô Gia 72o12'77'' B - 117o13'11'' Đ 06/11 11/04 
CG19 Cái Quảng Lớn 71o95'91'' B - 116o75'47'' Đ 06/11 11/04 
CG20 Vàm Tắc Hông 71o96'40'' B - 116o41'45'' Đ 06/11 11/04 
 83
Đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng 
trên cơ sở tham khảo một số tiêu chuẩn cho 
phép đối với kim loại nặng trong môi tr−ờng đáy 
nh− bảng 2. 
Bảng 2 
Hàm l−ợng cho phép của một số kim loại nặng của một số n−ớc 
(nguồn: Phạm Kim Ph−ơng và Đinh Công Tuấn, 2006) 
Hàm l−ợng kim loại nặng (mg/kg) 
Tên n−ớc/vùng 
Cd Cu Pb Zn 
Cục bảo vệ Môi tr−ờng Mỹ 
+ Không ô nhiễm - < 25 <40 < 90 
+ Ô nhiễm nhẹ - 25-50 40-60 90-200 
+ Ô nhiễm nặng 6 > 50 > 60 >200 
Bộ Môi tr−ờng Ontario (Canada) 1 25 50 100 
Nền bùn đáy Biển (Qúebec, Canada) 0,6 48 20 175 
Nền đáy tự nhiên (sông Thị Tính,Việt Nam) 23 ± 3 25 ± 2 46 ± 15 
Các n−ớc châu Âu (pH soil = 6-7) 1 - 3 50 -140a 50 - 300 150 - 300a 
Pháp (pH soil > 6) 2 100 100 300 
Cộng hòa Liên bang Đức 1 - 1,5b 60 100 150 - 200b 
Thụy Sỹ 0,8 50 50 200 
Hy Lạp 1 - 3 50 - 140 50 - 300 150 - 300 
Ghi chú: (a). Hàm l−ợng có thể tăng lên 50% khi độ pH > 7; (b). Với điều kiện các chất hữu cơ 
có trong đất < 5 %, giá trị này áp dụng cho kim loại Cd và Zn trong 1 đến 200 mg/kg. 
II. KếT QUả NGHIÊN CứU 
Kết quả phân tích định tính và định l−ợng 7 
kim loại nặng bao gồm: thủy ngân (Hg), crom 
(Cr), kẽm (Zn), đồng (Cu), arsenic (As), 
cardium (Cd), chì (Pb), dầu mỡ và thuốc trừ sâu 
gốc clo hữu cơ, đ−ợc trình bày ở bảng 3 và 4, 
cho thấy: 
Crom (Cr): Đ−ợc tìm thấy trong các mẫu 
bùn đáy tại 20 điểm lấy mẫu cho thấy nồng độ 
Cr mùa khô cao hơn mùa m−a, trong đó khác 
biệt thể hiện từ điểm 11 đến 20 với hàm l−ợng 
đều cao hơn khá rõ. Tuy nhiên, tại vị trí 20 thì 
hàm l−ợng của cả hai mùa đều đột ngột giảm 
xuống từ 46,9 mg/kg xuống còn 37,1 mg/kg 
(mùa m−a) và từ 72,2 mg/kg xuống còn 61,5 
mg/kg (mùa khô). Hàm l−ợng Cr có trong các 
mẫu bùn đáy từ 37,1 mg/kg đến 79,9 mg/kg, tập 
trung ở nhiều vị trí từ 11 đến 20, đây là các vùng 
lõi 1 và lõi 2 và khu vực sông Thị Vải. 
Chì (Pb): Trong tất cả 20 vị trí thu mẫu thì 
hàm l−ợng chì trong mùa khô luôn luôn cao hơn 
mùa m−a, mặc dù sự chênh lệch nồng độ Pb 
giữa 2 mùa là không rõ rệt. Tuy nhiên, từ điểm 
12 đến 20 thì hàm l−ợng Pb trong bùn đáy lại 
ng−ợc lại, mùa m−a cao hơn mùa khô. 
Kẽm (Zn): đ−ợc phát hiện trong tất cả 20 
điểm thu mẫu. Hàm l−ợng Zn trung bình là 72,9 
(dao động trong khoảng từ 53,4 mg/kg đến 85,9 
mg/kg) trong mùa m−a và 75,9 (56,6 mg/kg đến 
97,9 mg/kg) trong mùa khô. Sự khác biệt trong 
hai mùa là không cao, tuy nhiên, các điểm từ 1 
đến 10 (là các điểm thuộc sông Lòng Tàu, Nhà 
Bè Bình Khánh) có hàm l−ợng Zn trong mùa 
m−a cao hơn mùa khô. Ng−ợc lại, từ các điểm 
11 đến 20, là khu vực thuộc vùng lõi 2 và khu 
vực sông Thị Vải thì hàm l−ợng Zn trong mùa 
khô cao hơn mùa m−a. 
Arsenic (As): Tất cả 20 địa điểm nghiên cứu 
đều phát hiện có As trong bùn đáy. Hàm l−ợng 
trung bình 10,2 (7,7 mg/kg đến 13,1 mg/kg) 
trong mùa m−a và 9,5 (6,5 mg/kg đến 13,4 
mg/kg) trong mùa khô. Trong mùa m−a hàm 
l−ợng As từ điểm 1 đến 10 là thấp hơn mùa khô, 
ng−ợc lại, trừ điểm 11 đến 20 thì hàm l−ợng As 
trong mùa m−a hầu nh− cao hơn trong mùa khô. 
Cardium (Cd): Chỉ phát hiện trong mùa m−a 
trong tất cả 20 điểm thu mẫu với hàm l−ợng từ 
6,1 đến 7,7 mg/kg (trung bình 7,1 mg/kg), còn 
trong mùa khô thì không phát hiện thấy trong tất 
cả các điểm lấy mẫu. 
 84 
Bảng 3 
Kết quả phân tích hàm l−ợng kim loại nặng trong mùa m−a (tháng 11/2005) 
Hàm l−ợng kim loại nặng (mg/kg) Địa 
điểm Hg Cr Zn Cu As Cd Pb 
Dầu mỡ 
(mg/kg) 
Thuốc trừ sâu 
gốc Clo (àg/kg) 
1 KPH 59,0 71,0 23,4 7,8 6,9 15,2 167,8 KPH 
2 0,033 55,7 75,1 23,9 9,2 7,6 16,5 1,6 KPH 
3 0,022 50,9 80,3 24,1 11,7 7,2 18,3 38,6 KPH 
4 KPH 49,0 74,2 24,2 10,2 7,3 18,2 68,6 KPH 
5 KPH 54,8 85,9 25,9 8,9 7,5 18,9 100,8 KPH 
6 KPH 49,1 80,6 24,4 12,2 7,7 19,2 67,3 KPH 
7 KPH 51,4 84,4 24,8 11,6 7,5 18,5 63,7 KPH 
8 KPH 55,4 81,8 23,6 11,0 7,4 18,5 59,6 KPH 
9 KPH 53,4 73,2 24,8 11,1 7,3 17,0 59,9 KPH 
10 KPH 49,6 75,9 23,5 9,9 7,2 17,5 62,5 KPH 
11 KPH 47,2 72,4 20,9 9,8 7,2 16,5 KXĐ KPH 
12 KPH 50,3 76,1 23,7 10,4 6,7 18,0 94,3 KPH 
13 KPH 46,8 64,7 21,9 13,1 7,1 20,0 KXĐ KPH 
14 KPH 46,4 66,8 24,5 9,4 6,9 15,9 185,1 9.6 
15 KPH 46,3 68,9 19,9 11,4 7,0 18,0 6,5 27.8 
16 KPH 43,7 60,9 18,1 9,1 6,2 16,3 15,7 26.8 
17 KPH 54,9 80,0 25,6 7,7 6,6 17,6 24,1 19.5 
18 KPH 47,5 70,3 21,6 10,9 7,1 17,4 57,2 
DDE: 44.02 
DDD: 21.78 
DDT: 33.02 
19 KPH 46,9 63,5 19,5 7,9 6,1 15,2 KXĐ 
20 KPH 37,1 53,4 17,1 11,0 6,5 16,3 KXĐ 
TB 0.028* 49,7 72,9 22,7 10,2 7,1 17,4 67,1 20,9* 
Ghi chú: KPH. không phát hiện; KXĐ. không xác định; *. chỉ tính trên số mẫu có; TB. Trung bình. 
Bảng 4 
Kết quả phân tích hàm l−ợng kim loại nặng trong mùa khô (tháng 4 năm 2006) 
Hàm l−ợng kim loại nặng (mg/kg) Địa 
điểm Hg Cr Zn Cu As Cd Pb 
Dầu mỡ 
mg/kg 
Thuốc trừ sâu 
gốc Clo (àg/kg) 
1 0,038 66,6 67,8 27,0 6,7 KPH 17,6 66,4 KPH 
2 0,035 59,5 67,7 24,9 7,3 KPH 19,6 49,6 KPH 
3 0,047 55,1 74,0 26,6 8,6 KPH 21,6 63,3 KPH 
4 0,056 55,5 71,0 26,7 7,7 KPH 21,0 118,7 KPH 
5 0,050 55,3 75,8 25,0 7,8 KPH 21,1 67,1 KPH 
6 0,047 55,1 75,0 24,4 7,2 KPH 20,7 68,6 KPH 
7 0,055 55,1 76,6 25,8 8,3 KPH 21,5 79,6 KPH 
8 0,047 51,5 68,0 23,8 7,7 KPH 19,9 67,9 KPH 
9 0,038 46,4 56,6 21,1 7,6 KPH 18,8 96,5 KPH 
10 0,033 51,2 63,4 21,9 6,5 KPH 19,1 115,8 KPH 
11 0,039 79,9 97,9 24,4 13,9 KPH 17,5 132,0 137,0 
12 0,049 79,6 92,1 26,7 12,8 KPH 16,8 126,3 16,0 
13 0,082 71,2 77,3 22,1 11,7 KPH 16,8 127,4 30,0 
14 0,049 74,6 84,2 21,9 12,5 KPH 16,0 79,7 9,6 
 85
15 0,029 73,1 81,8 21,1 11,7 KPH 15,4 71,8 27,8 
16 0,033 64,4 73,0 18,2 9,7 KPH 14,4 114,3 26,8 
17 0,043 76,7 83,0 23,3 9,6 KPH 14,5 148,9 19,5 
18 0,052 70,9 82,7 23,3 8,1 KPH 14,2 231,0 163,6 
19 0,041 72,2 83,0 20,9 11,9 KPH 16,4 101,7 22,0 
20 0,056 61,5 67,5 17,7 13,4 KPH 15,4 137,8 36,0 
TB 0,05 63,7 75,9 23,3 9,5 17,9 103,2 48,8 
Ghi chú: KPH. Không phát hiện; *. chỉ tính trên số mẫu có. 
Thủy ngân (Hg): Ng−ợc với Cd, Hg chỉ hiện 
diện tại 2 (điểm 2 và 3) trong 20 điểm lấy mẫu 
trong mùa m−a với hàm l−ợng rất thấp (0,033 và 
0,022 mg/kg), còn mùa khô Hg đ−ợc phát hiện 
trong tất cả các điểm lấy mẫu với hàm l−ợng từ 
0,029 đến 0,082 mg/kg (trung bình 0,05 mg/kg). 
Hàm l−ợng thuốc trừ sâu nhóm clo hữu cơ : 
chỉ phát hiện ở 5 địa điểm trong mùa m−a và 10 
địa điểm trong mùa khô trong tổng số 20 vị trí 
thu mẫu. Tuy nhiên, hàm l−ợng của thuốc trừ sâu 
tại các địa điểm thu mẫu dao động từ 9,6 - 44,02 
àg/kg (trung bình là 20,9 àg/kg) về mùa m−a và 
từ 9,6 đến 163,6 àg/kg (trung bình là 48,8 
àg/kg), điều này chứng tỏ trong mùa khô, các 
loại thuốc trừ sâu nhóm clo tích tụ laị trong lớp 
trầm tích và chỉ đ−ợc rửa trôi trong mùa m−a. 
Hàm l−ợng dầu: So với Tiêu chuẩn Việt 
Nam và một số Tiêu chuẩn các n−ớc ở bảng 2, 
hầu hết hàm l−ợng các kim loại nặng tại các 
điểm nghiên cứu trong khu d− trữ sinh quyển 
Cần Giờ đều nằm trong giới hạn cho phép. Mức 
độ nhiễm kim loại nặng trong khảo sát này cũng 
thấp hơn so với các nghiên cứu tr−ớc đây về 
hiện trạng kim loại nặng tại một số vùng ven 
biển Việt Nam [4]. 
III. KếT LUậN 
Hàm l−ợng các kim loại nặng trong lớp trầm 
tích (bùn đáy) ở Khu sinh quyển Cần Giờ về 
mùa khô cao hơn mùa m−a, ngoại trừ Cd không 
đ−ợc phát hiện vào mùa khô, nh−ng lại có mặt 
trong tất cả các mẫu trong mùa m−a. Các kim 
loại nặng nh− Cr, Pb, As, Cu và Zn đều phát 
hiện thấy trong tất cả các mẫu phân tích trong cả 
2 mùa. 
Trong mùa khô, hàm l−ợng một số kim loại 
nặng nh− Cr, As , dầu mỡ và thuốc trừ sâu gốc 
clo ở khu vực vùng lõi 2 (các điểm 13 đến 16) 
và khu vực sông Thị Vải (các điểm 17 đến 20) 
cao hơn các khu vực khác. 
Nhìn chung, về lý thuyết thì các chỉ tiêu kim 
loại nặng tại khu vực nghiên cứu đều nằm trong 
ng−ỡng cho phép. Tuy nhiên, đối với một số 
sinh vật đáy thì đây có thể là ng−ỡng không an 
toàn do quá trình tích tụ sinh học thông qua 
chuỗi thức ăn trong tự nhiên. 
TàI LIệU THAM KHảO 
1. AOAC offical method 986.15, 2000: 
Arsenic, Cadmium, Lead, Senelium and 
Zincin Human and Pet foods, 3pp. 
2. Gagarin V. G. and Nguyen V. T., 2006: 
Three new species of free-living nematodes, 
Nematoda.of the family Axonolaimidae 
from the Mekong river delta, Vietnam. 
Zoologicheskyi Journal, 85(6): 675-681. 
3. Lại Phú Hoàng, Nguyễn Vũ Thanh, Saint 
Paul, 2005: Một số kết quả nghiên cứu về 
Động vật đáy không x−ơng sống cỡ trung 
bình tại rừng ngập mặn Cần Giờ, thành phố 
Hồ Chí Minh: 169-172. Những vấn đề 
Nghiên cứu cơ bản trong Khoa học sự sống. 
Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 
4. Nguyễn Kiêm Sơn, Đặng Ngọc Thanh, 
2005: Hiện trạng kim loại nặng trong môi 
tr−ờng biển Việt Nam: 159-168. Tài nguyên 
Môi tr−ờng Biển - Hội Bảo vệ Thiên nhiên 
và Môi tr−ờng biển. Nxb. Khoa học và Kỹ 
thuật, Hà Nội. 
5. Nguyễn Vũ Thanh, 2005: Về đa dạng 
thành phần loài giun tròn ở sông Thị Vải, 
thành phố Hồ Chí Minh: 430-434. Báo cáo 
Khoa học, viện Sinh thái và Tài nguyên sinh 
vật. Hội thảo Quốc gia lần thứ nhất, Hà Nội. 
Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 
6. Roots O. et al., 2004: Level of PCDDs and 
PCDFs in soil in the vicinity of the landfill. 
Organohalogen compounds, 66: 1314- 1318. 
 86 
HEAVY METALS STATUS IN SEDIMENT AT CAN GIO MANGROVE 
HO CHI MINH CITY, VIETNAM 
PHAM KIM PHUONG, NGUYEN DINH TU, NGUYEN VU THANH 
SUMMARY 
The two field surveys have been organized by the Department of Nematology, Institute of Ecology and 
Biological resources in the Can Gio mangrove forest, Ho Chi Minh city in the period November 2005 (wet 
season) and April (dry season) 2006. Some heavy metals in Can Gio mangrove forest sediments such as Cr, 
Pb, As, Cu and Zn were found in all samples and in both seasons with their concentrations were often higher 
in dry season. In addition, in dry season some heavy metals such as Cr, As and Oil and Clo originated 
pestisides were occurred with highest concentrations in the core zone 2 and Thi Vai river area. Cd component 
was not detected in the dry season (April, 2006), but it was found in the rain season (November, 2005) with 
concentrations ranged from 6.1 to 7.7 mg/kg. Although the observed heavy metals concentrations are lower 
than the Vietnam Standard Criteria and indicated the sediments of Can Gio mangrove forest were not too 
much polluted, however the presence of these heavy metals in sediment of Can Gio Mangrove forest could 
cause the bio-accumilation for zoobenthos associated with webfood chains in their related ecological system. 
Ngày nhận bài: 19-4-2010 

File đính kèm:

  • pdfhien_trang_kim_loai_nang_trong_tram_tich_tai_khu_sinh_quyen.pdf