Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV / AIDS tại cộng đồng ở 5 huyện của Nghệ an, 2008 - 2012

Tính đến 31/12/2013, số người nhiễm HIV/AIDS được

phát hiện tại Nghệ An đã lên tới 7.294 người, trong đó 4.323

người biểu hiện AIDS và 2.571 người đã chết do AIDS. Hiện

tại, Nghệ An là tỉnh xếp thứ 6 của cả nước về số người nhiễm

HIV/AIDS còn sống với khoảng 5.545 người.

Nhằm từng bước cải thiện, nâng cao sức khỏe cho

người nhiễm HIV/AIDS, chống phân biệt kỳ thị và ngăn chặn

sự lây lan của dịch. Trong những năm qua, công tác phòng

chống HIV/AIDS tại Nghệ An đã được quan tâm, chú trọng và

nhiều hoạt động về dự phòng lây nhiễm, chăm sóc điều trị,

giám sát đánh giá, nâng cao năng lực trong phòng chống

HIV/AIDS được triển khai mạnh mẽ. Tuy nhiên, hoạt động

phòng chống HIV/AIDS tại Nghệ An vẫn còn một số tồn tại,

như: độ bao phủ của các dịch vụ chưa cao, nhiều huyện vùng

xa, miền núi cao việc tiếp cận với các dịch vụ của người nhiễm

HIV/AIDS còn nhiều khó khăn; hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ

trợ và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều bất cập;

lây nhiễm HIV vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm, số người

nhiễm HIV tiến triển thành AIDS và nhu cầu chăm sóc, điều trị

ngày càng nhiều

pdf 14 trang dienloan 2740
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV / AIDS tại cộng đồng ở 5 huyện của Nghệ an, 2008 - 2012", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV / AIDS tại cộng đồng ở 5 huyện của Nghệ an, 2008 - 2012

Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV / AIDS tại cộng đồng ở 5 huyện của Nghệ an, 2008 - 2012
28
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU 
 ĐÃ CÔNG BỐ 
1. Nguyễn Văn Định, Nguyễn Thanh Long, Phan Trọng Lân và 
cộng sự (2014), “Thực trạng tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ 
người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng tỉnh Nghệ An năm 
2012”, Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XXIV, Số 8 (157), Hà 
Nội. Tr. 79 - 85 
2. Nguyễn Văn Định, Nguyễn Thanh Long, Phan Trọng Lân và 
cộng sự (2014), “Hiệu quả hoạt động tư vấn, chăm sóc và 
hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng tỉnh Nghệ An 
sau 4 năm can thiệp, 2008 - 2012”, Tạp chí Y học Dự 
phòng, Tập XXIV, Số 8 (157), Hà Nội. Tr. 86 - 92. 
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG 
----------*---------- 
NGUYỄN VĂN ĐỊNH 
HIỆU QUẢ CAN THIỆP TƯ VẤN, 
CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS 
TẠI CỘNG ĐỒNG Ở 5 HUYỆN CỦA NGHỆ AN, 
2008 - 2012 
Chuyên ngành: Y tế công cộng 
Mã số: 62 72 03 01 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG 
HÀ NỘI - 2015 
2
Công trình được hoàn thành tại: 
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG 
Người hướng dẫn khoa học: 
 1, GS. TS. Nguyễn Thanh Long 
 2, PGS. TS. Phan Trọng Lân 
1. PGS.TS. Trần Lan Anh 
Phản biện 1: .......................................................... ..... 
 ............................................................ ... 
Phản biện 2: .............................................................. . 
 ............................................................... 
Phản biện 3: ............................................................... 
 ............................................................... 
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện, 
tổ chức tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương. 
Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 2015 
Có thể tìm hiểu luận án tại: 
- Thư viện Quốc gia 
- Thư viện Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương 
27
1. Tăng cường các hoạt động truyền thông thay đổi 
hành vi và tiếp tục triển khai các biện pháp can thiệp giảm tác 
hại, đặc biệt với đối tượng có học vấn thấp, sống độc thân, thất 
nghiệp, còn tiêm chích ma túy và vẫn hoạt động mại dâm. Chú 
trọng xây dựng mạng lưới đồng đẳng viên. 
2. Biện pháp can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người 
nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng cần được nhân rộng, đặc biệt 
áp dụng cho các địa bàn miền núi, vùng có nhiều đồng bào dân 
tộc, có địa hình đi lại phức tạp và điều kiện kinh tế của người 
dân còn gặp nhiều khó khăn. 
26
Mô hình can thiệp có hiệu quả cao (có ý nghĩa thống kê ở đa số 
các chỉ số): 
- Tăng tỷ lệ người nhiễm HIV được tư vấn hỗ trợ thường xuyên 
(từ 66,1% lên 80,8%), tăng tỷ lệ bạn tình làm xét nghiệm 
HIV (từ 66,1% lên 83,3%). 
- Giảm tỷ lệ đối tượng bị gia đình và cộng đồng ruồng bỏ, xa 
lánh (từ 2,7% xuống 1,3% và từ 4,5% xuống 3,6%); tăng tỷ lệ 
người nhiễm được gia đình chăm sóc, hỗ trợ (từ 82,2% lên 
91,4%), tăng tỷ lệ nhận được chăm sóc, hỗ trợ của cộng đồng 
(từ 35,7% lên 66,9%). 
- Tăng tỷ lệ người nhiễm nhận được dịch vụ chăm sóc điều trị: 
được điều trị ARV (từ 26,5% lên 84,1%), được chụp X - Quang 
phát hiện Lao (từ 34,7% lên 52,3%). 
- Tăng tỷ lệ nhận được các dịch vụ can thiệp giảm hại: nhận 
bao cao su (từ 62,8% lên 72,4%), nhận bơm kim tiêm (từ 
48,1% lên 57,5%) và được sinh hoạt câu lạc bộ người nhiễm 
(từ 16,8% lên 24,0%). 
- Giảm hành vi nguy cơ lây truyền HIV ở người nhiễm 
HIV/AIDS: giảm tiêm chích ma túy trong tháng qua ( từ 67,1% 
xuống 38,7%); giảm tỷ lệ không dùng bao cao su lần quan hệ 
tình dục gần nhất và không thường xuyên dùng bao cao su 12 
tháng qua với gái mại dâm đối với nam và khách làng chơi đối 
với nữ (ở nam từ 18,2% xuống 8,9% và từ 57,1% xuống 
42,4%; ở nữ từ 44,8% xuống 35,0% và từ 62,2% xuống 
50,0%). 
- Giảm tỷ lệ sinh con sau nhiễm HIV (từ 20,0% xuống 15,7%). 
KHUYẾN NGHỊ 
3
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tính đến 31/12/2013, số người nhiễm HIV/AIDS được 
phát hiện tại Nghệ An đã lên tới 7.294 người, trong đó 4.323 
người biểu hiện AIDS và 2.571 người đã chết do AIDS. Hiện 
tại, Nghệ An là tỉnh xếp thứ 6 của cả nước về số người nhiễm 
HIV/AIDS còn sống với khoảng 5.545 người. 
Nhằm từng bước cải thiện, nâng cao sức khỏe cho 
người nhiễm HIV/AIDS, chống phân biệt kỳ thị và ngăn chặn 
sự lây lan của dịch. Trong những năm qua, công tác phòng 
chống HIV/AIDS tại Nghệ An đã được quan tâm, chú trọng và 
nhiều hoạt động về dự phòng lây nhiễm, chăm sóc điều trị, 
giám sát đánh giá, nâng cao năng lực trong phòng chống 
HIV/AIDS được triển khai mạnh mẽ. Tuy nhiên, hoạt động 
phòng chống HIV/AIDS tại Nghệ An vẫn còn một số tồn tại, 
như: độ bao phủ của các dịch vụ chưa cao, nhiều huyện vùng 
xa, miền núi cao việc tiếp cận với các dịch vụ của người nhiễm 
HIV/AIDS còn nhiều khó khăn; hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ 
trợ và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều bất cập; 
lây nhiễm HIV vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm, số người 
nhiễm HIV tiến triển thành AIDS và nhu cầu chăm sóc, điều trị 
ngày càng nhiều. 
Các nghiên cứu đã cho thấy tầm quan trọng của hoạt 
động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng 
đồng trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS. Tuy nhiên, tại 
Nghệ An chưa có nghiên cứu nào phân tích, đánh giá về vấn đề 
4
này. Từ thực tế trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với mục 
tiêu: 
 1. Mô tả hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm 
HIV/AIDS tại cộng đồng và hành vi nguy cơ trước can thiệp tại 
5 huyện của Nghệ An năm 2008. 
 2. Đánh giá hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ 
người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng, 2008 - 2012. 
Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp mới của luận án; 
1. Luận án có giá trị thực tiến cao do lựa chọn đối tượng 
nghiên cứu can thiệp là nhóm người nhiễm HIV/AIDS đang 
quản lý tại cộng đồng, là nguồn lây nhiễm HIV và là đối tượng 
nghèo, yếu thế trong xã hội. Đặc biệt, nghiên cứu được triển 
khai lần đầu tiên tại các huyện miền núi và đáp ứng được nhu 
cầu thực tế, mong mỏi của người nhiễm HIV/AIDS là người 
dân tộc, sinh sống tại vùng cao, vùng xa. Vì lẽ đó, can thiệp đã 
đóng góp không những cho chương trình phòng chống 
HIV/AIDS, mà còn có ý nghĩa thiết thực trong việc thực hiện 
các chính sách xã hội đối với các vùng, miền và đối tượng khó 
khăn mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ ta đề ra. 
2. Xác định và xây dựng được biện pháp can thiệp tư vấn, 
chăm sóc, hỗ trợ có hiệu quả cho người nhiễm HIV/AIDS tại 
cộng đồng và phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và 
tình hình dịch HIV/AIDS ở 5 huyện trọng điểm của Nghệ An. 
3. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp kinh nghiệm thực tiễn 
cho việc xây dựng nội dung và mở rộng hoạt động tư vấn, 
chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng ở các 
địa phương khác của tỉnh, đặc biệt là khu vực miền núi, nơi có 
25
- Người nhiễm HIV/AIDS bị gia đình và cộng đồng ruồng bỏ, 
xa lánh vẫn còn diễn ra (2,7% và 4,5%); chỉ có 35,7% nhận 
được chăm sóc, hỗ trợ của cộng đồng. 
- Tỷ lệ được khám và điều trị thấp: ARV (26,5%), điều trị dự 
phòng Cotrimoxazole (37,5%) và điều trị nhiễm trùng cơ hội 
(40,0%), chụp X- Quang phổi phát hiện Lao (34,7%), khám và 
điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục (2,7%). 
- Tỷ lệ nhận được hỗ trợ phòng lây nhiễm HIV thấp: 48,1% 
nhận được bơm kim tiêm, 62,8%, nhận được bao cao su. 
Hành vi nguy cơ lây truyền HIV ở người nhiễm HIV/AIDS cao: 
- Nguy cơ lây truyền HIV cao qua con đường tiêm chích ma 
túy: 78,4% đã từng tiêm chích ma túy; 67,1% có tiêm chích ma 
túy trong tháng qua; dùng chung bơm kim tiêm cao (24,4%). 
Không nhận được hỗ trợ từ đồng đẳng viên có nguy cơ dùng 
chung bơm kiêm tiêm cao hơn nhóm nhận được hỗ trợ từ đồng 
đẳng viên (95%CI: 1,08 - 5,61). 
- Nguy cơ lây truyền HIV cao qua đường tình dục: tỷ lệ không 
thường xuyên dùng bao cao su trong 12 tháng qua với các loại 
bạn tình là 57,1% ở nam , và 62,0% ở nữ); sống cùng 
vợ/chồng, được điều trị ARV, nhận được bao cao su, được hỗ 
trợ đồng đẳng viên có hành vi luôn sử dụng bao cao su khi 
quan hệ tình dục cao hơn nhóm sống độc thân (95%CI: 4,02 - 
14,56), không được điều trị ARV (95%CI: 1,11 - 5,19), không 
nhận được bao cao su (95%CI: 1,24 - 5,35) và không được hỗ 
trợ đồng đẳng (95%CI: 1,16 - 4,86). 
2. Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người 
nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng tỉnh Nghệ An sau 4 năm 
can thiệp (2008 - 2012). 
24
Do được TVCSHT và được cấp phát BKT nên hành vi 
TCMT không an toàn được cải thiện đáng kể tại địa bàn triển 
khai sau 4 năm can thiệp. Tỷ lệ người nhiễm HIV còn TCMT 
tháng trước điều tra đã giảm rõ rệt (p< 0,01). Tuy vậy, tỷ lệ đối 
tượng có TCMT trong tháng trước điều tra vẫn dùng chung 
BKT giảm chưa nhiều, không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Đã có những thay đổi nhất định trong hành vi QHTD 
không an toàn của nam nhiễm HIV với GMD, tỷ lệ không sử 
dụng BCS đã giảm trong cả lần QHTD gần nhất cũng như trong 
12 tháng trước cuộc điều tra đánh giá sau can thiệp. Song, sự 
thay đổi này còn hạn chế, chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Đối với bạn tình thường xuyên, tỷ lệ không thường xuyên sử 
dụng BCS đã không giảm sau can thiệp ở cả trong lần QHTD 
gần nhất và trong 12 tháng trước cuộc điều tra. Các kết quả trên 
cho thấy, truyền thông thay đổi hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV 
và can thiệp giảm hại là nội dung cần quan tâm, chú trọng và 
bền bỉ trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS nhằm ngăn 
chặn có hiệu quả sự lây lan của đại dịch HIV/AIDS. 
KẾT LUẬN 
1. Thực trạng tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm 
HIV/AIDS tại cộng đồng và hành vi nguy cơ trước can 
thiệp tại 5 huyện năm 2008. 
Chất lượng hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV vẫn còn thấp: tỷ 
được tư vấn hỗ trợ thường xuyên chưa cao (66,1%); chỉ có 
66,1% bạn tình làm xét nghiệm HIV. 
Chất lượng chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS vẫn còn 
hạn chế: 
5
đồng bào dân tộc sinh sống với điều kiện kinh tế gặp nhiều khó 
khăn. 
Bố cục của luận án: Luận án gồm 130 trang (không kể phụ 
lục), được chia ra: Đặt vấn đề: 2 trang; Chương 1- Tổng quan: 
35 trang; Chương 2- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 23 
trang; Chương 3- Kết quả: 30 trang; Chương 4- Bàn luận: 37 
trang; Kết luận: 2 trang; Khuyến nghị: 1 trang; 27 bảng, 20 biểu 
đồ, 2 hình, 3 sơ đồ và 150 tài liệu tham khảo, trong đó 104 tài 
liệu tiếng Việt và 46 tài liệu tiếng Anh. 
Chương 1: TỔNG QUAN 
1.1. Khái niệm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm 
HIV/AIDS tại cộng đồng 
 Hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ (TVCSHT) người 
nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng là biện pháp chăm sóc, 
hỗ trợ, điều trị và dự phòng toàn diện dựa vào cộng đồng mới 
được tiến hành tại Việt Nam trong những năm gần đây. 
TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng được 
phát triển từ chương trình quản lý, chăm sóc, tư vấn người 
nhiễm HIV/AIDS với 2 nội dung chính: tư vấn và chăm sóc, hỗ 
trợ. Ngoài ra, nó còn gắn kết nhiều chương trình khác sẵn có. 
1.2. Nguyên tắc tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm 
HIV/AIDS dựa vào cộng đồng 
 - Tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS là 
quá trình lâu dài, toàn diện, liên tục. 
 - Người nhiễm HIV/AIDS có quyền được TVCSHT 
toàn diện và phù hợp như những người khác trong cộng đồng, 
không phân biệt đối xử. 
6
 - Đáp ứng dịch vụ chăm sóc phù hợp cho người nhiễm 
HIV/AIDS trên nguyên tắc bí mật, quản lý tốt hồ sơ bệnh án, tư 
vấn trước khi thông báo. 
 - Người nhiễm HIV/AIDS có quyền tham gia vào lập kế 
hoạch và thực hiện các chương trình chăm sóc và điều trị. 
 - Cơ sở cho việc chăm sóc và điều trị những người 
nhiễm HIV/AIDS là can thiệp sớm, theo dõi chặt chẽ và hỗ trợ 
tăng cường sức khỏe. 
 - Khuyến khích và hỗ trợ các dịch vụ TVCSHT người 
nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng, lồng ghép với mạng lưới 
chăm sóc sức khỏe ban đầu. 
1.3. Nội dung tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm 
HIV/AIDS dựa vào cộng đồng 
 - Tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện: được coi là đầu 
vào của mọi hoạt động dự phòng và chăm sóc. TVXNTN có 3 
cấp độ: tư vấn trước xét nghiệm, tư vấn sau xét nghiệm và tư 
vấn hỗ trợ thường xuyên. 
 - Chăm sóc/quản lý lâm sàng: bao gồm điều trị dự 
phòng, chẩn đoán và điều trị nhiễm trùng cơ hội, quản lý và hỗ 
trợ tuân thủ điều trị ARV và giảm đau, chăm sóc giảm nhẹ. 
 - Hỗ trợ tâm lý và kinh tế - xã hội, bao gồm: hỗ trợ 
đồng đẳng; hỗ trợ việc làm; hỗ trợ kinh tế (dinh dưỡng và các 
nhu cầu thiết yếu); giảm kỳ thị và phân biệt đối xử; hỗ trợ cuối 
đời; bảo vệ các quyền của người nhiễm, miễn học phí cho các 
đối tượng trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. 
 - Dự phòng lây nhiễm HIV: bao gồm khuyến khích tình 
dục an toàn, các biện pháp giảm tác hại trong nhóm nguy cơ 
23
cộng đồng và dễ được người nhiễm cũng như các đối tượng 
nguy cơ cao chấp nhận. Hoạt động tư vấn đã có nhiều thay đổi 
tích cực, tỷ lệ được tư vấn hỗ trợ thường xuyên tăng rõ rệt và tỷ 
lệ bạn tình của người nhiễm làm xét nghiệm HIV tăng cao. 
4.2.2. Chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS của gia đình 
và cộng đồng 
Sự quan tâm, hỗ trợ của gia đình và cộng đồng sau 4 
năm can thiệp đã đạt kết quả tốt. Những số liệu về tỷ lệ người 
nhiễm HIV/AIDS được gia đình và cộng đồng chăm sóc, hỗ trợ 
đã tăng lên rõ rệt, tỷ lệ bị gia đình và cộng đồng ruồng bỏ, xa 
lánh cũng đã giảm sau can thiệp. Như vậy, trong thời gian qua 
công tác tư vấn, truyền thông được tăng cường với nhiều nội 
dung và hình thức phong phú đã làm chuyển đổi nhìn nhận của 
đại bộ phận cộng đồng về căn bệnh HIV/AIDS, tuy nhiên để 
tiến tới xoá bỏ sự xa lánh, ruồng bỏ của gia đình và cộng đồng 
đối với người nhiễm HIV/AIDS đòi hỏi phải nỗ lực nhiều hơn 
nữa trong công tác truyền thông, tuyên truyền về chống kỳ thị, 
phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS. 
4.2.3. Tiếp cận dịch vụ của người nhiễm HIV/AIDS 
 Sau 4 năm can thiệp, người nhiễm HIV/AIDS tại các 
địa bàn nghiên cứu đã có khả năng tiếp cận với các dịch vụ dễ 
dàng hơn. Các tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được điều trị 
nhiễm trùng cơ hội, điều trị ARV, được chụp X - Quang phát 
hiện Lao; được cung cấp BCS, nhận được BKT; được hỗ trợ từ 
đồng đẳng viên, được sinh hoạt câu lạc bộ đều tăng rõ rệt, có ý 
nghĩa thống kê (p<0,01 và p<0,05). 
4.2.4. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm 
HIV/AIDS 
22
tháng qua với các loại bạn tình của người nhiễm HIV/AIDS có 
sự chênh lệch do liên quan đến nhiều yếu tố như ý thức về hành 
vi tình dục an toàn của bản thân người nhiễm HIV, do bạn tình 
yêu cầu, hoặc mức độ sẵn có BCSTuy nhiên, việc có một tỷ 
lệ cao nam nhiễm HIV/AIDS không dùng BCS với GMD và 
các loại bạn tình cho thấy kết quả của việc giáo dục hành vi, 
đặc biệt là hành vi tình dục chưa làm chuyển đổi căn bản nhận 
thức, dẫn đến việc thực hành sử dụng BCS chưa triệt để hoặc 
còn thấp đối với các loại bạn tình của người nhiễm HIV/AIDS. 
4.1.6. Ảnh hưởng một số yếu tố đến hành vi nguy cơ lây 
truyền HIV 
Với hành vi dùng chung BKT, việc được nhận hỗ trợ từ 
đồng đẳng viên được tìm thấy là yếu tố ảnh hưởng đến hành vi 
này. Với hành vi luôn sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn 
tình trong 12 tháng trước thời điểm phỏng vấn đã cho thấy: các 
đặc điểm về tình trạng hôn ... ét về thành phần tham gia 
chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS, cán bộ y tế 
phường/xã có nhiều hoạt động nhất (97,4%), tiếp đến cán bộ y 
tế huyện (60,7%), chính quyền và các tổ chức đoàn thể có vai 
trò hạn chế hơn (50,9%), 17,2% được hỗ trợ từ các tổ chức phi 
chính phủ. Các hình thức hỗ trợ và chăm sóc chủ yếu mới dừng 
ở mức độ tư vấn, an ủi, động viên tinh thần, một tỷ lệ nhỏ được 
hỗ trợ về vật chất và việc làm. Các hỗ trợ từ đoàn thanh niên, 
hội phụ nữ, hội chữ thập đỏ rất hạn chế và chỉ dừng lại ở hình 
thức an ủi, động viên. 
4.1.4. Tiếp cận dịch vụ của người nhiễm HIV/AIDS 
Việc tiếp cận với dịch vụ chăm sóc, điều trị của người 
nhiễm HIV/AIDS còn nhiều bất cập. Thực tế đến năm 2004, tại 
hầu hết các tỉnh/thành phố chưa có nguồn thuốc hay kinh phí 
nào để điều trị đặc hiệu cho người nhiễm HIV/AIDS, từ năm 
2006 Nghệ An mới được triển khai điều trị ARV, mặt khác 
người nhiễm HIV/AIDS chủ yếu là đối tượng nghèo, nên 
không có khả năng mua những thuốc này mà chỉ trông chờ vào 
nguồn miễn phí của dự án. Công tác điều trị đồng nhiễm Lao và 
HIV/AIDS cũng chưa tốt. Các nghiên cứu cho thấy, nhiễm Lao 
và lây nhiễm HIV có mối quan hệ thúc đẩy mật thiết. Trong 
một quần thể, đồng nhiễm Lao/HIV có tác động bùng nổ. 
9
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Thực trạng tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm 
HIV/AIDS và hành vi nguy cơ trước can thiệp (2008) 
3.1.1. Một số đặc điểm người nhiễm HIV/AIDS 
Kết quả nghiên cứu cho thấy: người nhiễm HIV/AIDS 
tham gia nghiên cứu có tỷ lệ cao nhất là 30-39 (48,6%). Nam 
giới (82,4%). Người kinh (99,4%), có 0,6% là người dân tộc 
Thái và Thổ. Đa số đối tượng là độc thân (50,3%). Phần lớn 
sống cùng bố mẹ (69,2%) và có 14,7% sống với bạn bè hoặc 
lang thang. Về nghề nghiệp: tỷ lệ cao nhất là thất nghiệp 
(40,5%), tiếp đến là nông dân (30,9%), nghề không ổn định 
(18,9%). 
3.1.2. Tư vấn xét nghiệm HIV 
 Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: thời gian nhiễm HIV 
chiếm tỷ lệ cao nhất là từ 5 - 9 năm (45,3%); có 6,9% đối tượng 
nghiên cứu sống chung với HIV từ 10 năm trở lên. Về tự nhận 
lý do nhiễm HIV: tỷ lệ cao nhất là do tiêm chích ma túy 
(TCMT) (73,7%), tiếp đến là quan hệ tình dục (QHTD) với 
vợ/chồng (14,6%), tình dục với gái mại dâm (GMD) (4,2%). 
Bảng 3.5. Tần suất, nội dung tư vấn hỗ trợ sau nhiễm HIV và 
xét nghiệm HIV của bạn tình thường xuyên (333) 
Tần suất và nội dung tư vấn Số lượng Tỷ lệ % 
Tần suất tư vấn hỗ trợ 
- Hàng tháng 
- Hàng 6 tháng 
- Hàng năm 
- Không lần nào trong năm 
220 
79 
18 
16 
66,1 
23,7 
5,4 
4,8 
Nội dung tư vấn hỗ trợ 
10
- An ủi động viên 
- Thay đổi hành vi 
- Chăm sóc sức khoẻ 
- Dinh dưỡng và vệ sinh 
- Các thuốc điều trị 
312 
320 
319 
305 
293 
93,7 
96,1 
95,8 
91,6 
88,0 
Bạn tình làm xét nghiệm HIV 22 66,1 
 Bảng 3.5 cho thấy: tần suất tư vấn hàng tháng (66,1%), 
hàng 6 tháng (23,7%), hàng năm (5,4%). Tỷ lệ có bạn tình 
thường xuyên làm xét nghiệm HIV không cao (66,1%). 
3.1.3. Chăm sóc hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS 
 Kết quả nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ người nhiễm HIV được 
gia đình chấp nhận, chăm sóc sức khỏe và giúp đỡ (89,0%), có 
2,7% cho rằng bị người nhà ruồng bỏ, xa lánh và 8,3% gia đình 
chưa biết tình trạng nhiễm HIV của đối tượng. 
Biểu đồ 3.6. Thái độ của cộng đồng đối với người nhiễm 
HIV/AIDS (n=335) 
Kết quả nghiên cứu tại biểu đồ 3.6 cho thấy: tỷ lệ được 
cộng đồng chấp nhận (54,7%), được hỗ trợ và giúp đỡ (35,7%). 
Có 4,5% đối tượng cho rằng bị cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh. 
5,1 4,5
35,7
54,7
0 
10
20
30
40
50
60
70
Chấp nhận Hỗ trợ, giúp đỡ Ruồng bỏ, xa
lánh
Chưa biết nhiễm
HIV
Tỷ lệ %
19
trước điều tra và chỉ có 66,1% đối tượng được tư vấn hàng 
tháng cho thấy: công tác quản lý, theo dõi và tư vấn hỗ trợ 
thường xuyên cho người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều hạn chế. 
4.1.3. Chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS 
 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, việc thực 
hiện chăm sóc và vệ sinh dinh dưỡng của người nhiễm 
HIV/AIDS còn nhiều hạn chế: do điều kiện kinh tế và sự hiểu 
biết chưa đầy đủ nên đối tượng ăn uống thất thường, hoặc 
thường xuyên bỏ bữa do TCMT. Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS 
bị gia đình ruồng bỏ, xa lánh tại nghiên cứu này tương đương 
nghiên cứu của QTC 2006 tại miền Bắc (1,8%) và miền Trung 
và miền Nam (3,1%). Tuy vậy, thấp hơn nhiều so với những 
đánh giá trong điều tra của Ngân hàng Phát triển châu Á và 
Ngân hàng Thế giới năm 2002. Điều này cho thấy, mặc dù đã 
có sự đáp ứng mạnh mẽ của các chương trình phòng chống 
HIV/AIDS, trong đó có vai trò của truyền thông kiến thức về 
lây nhiễm HIV, về luật pháp... nhưng vẫn còn hiện tượng ruồng 
bỏ, xa lánh của gia đình đối với người nhiễm HIV/AIDS. Bên 
cạnh đó, tỷ lệ người nhà chăm sóc cho người nhiễm được tập 
huấn thấp (61,2%). Nghiên cứu tại Thái Nguyên nhằm đánh giá 
hiệu quả của việc tập huấn cho gia đình người nhiễm cho kết 
quả: sau tập huấn, những thành viên trong gia đình không còn 
lo lắng và lúng túng khi chăm sóc HIV/AIDS. 
Cũng như gia đình, sự quan tâm và hỗ trợ của cộng 
đồng với người nhiễm HIV/AIDS còn hạn chế: tỷ lệ đối tượng 
bị cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh ở nghiên cứu này cao hơn so 
với nghiên cứu năm 2006 tại miền Bắc (3,2%) và tương đương 
miền Nam (4,6%). Tỷ lệ này cũng cao hơn nghiên cứu năm 
18
 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ người 
nhiễm HIV ở nhóm 30-39 tuổi phát hiện hàng năm có xu hướng 
dịch chuyển tăng khi so sánh nhóm tuổi này trong nghiên cứu 
của chúng tôi với kết quả nghiên cứu của QTC 2006 (38,0%) 
và nghiên cứu của Nguyễn Văn Định 2004 cũng tại Nghệ An 
(23,8%). Nữ giới có xu hướng tăng so với những năm trước 
đây (nghiên cứu QTC năm 2006: 10,5%; nghiên cứu 2004: 
9,4%). Về trình độ học vấn, nghiên cứu này tương đương khi 
so sánh với kết quả nghiên cứu của QTC năm 2006 tại Nghệ 
An (53,6%), nhưng thấp hơn khu vực miền Bắc (60,9%) và khu 
vực miền Trung và miền Nam (83,4%). Tỷ lệ độc thân tại 
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên cứu 
của QTC năm 2006 tại Nghệ An (63,7%) và tương đương khu 
vực miền Bắc (49,1%), nhưng cao hơn khu vực miền Trung và 
miền Nam (46,7%). Về nghề nghiệp: Một số nghiên cứu trong 
thời gian qua cũng đưa ra những kết quả tương tự nghiên cứu 
của chúng tôi. 
4.1.2. Tư vấn xét nghiệm HIV 
 - Kết quả nghiên cứu này cho thấy, có 16,8% đối tượng 
xét nghiệm HIV là do bắt buộc. Giải thích về điều này, thực tế 
hiện nay cho thấy, nhiều trường hợp phát hiện dương tính là do 
đi khám chữa bệnh tại cơ sở y tế, tại đây nhiều khoa phòng vẫn 
bắt buộc bệnh nhân xét nghiệm HIV, một số khác phát hiện tại 
trung tâm 05, 06, trại giam và trại tạm giam cũng tương tự. 
 - Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng: tỷ lệ tư 
vấn đúng trước xét nghiệm còn thấp (68,4%) và tư vấn sau 
đúng sau xét nghiệm chưa cao (81,6%). Với 10,2% người 
nhiễm không được tư vấn lần nào hoặc chỉ 1 lần trong năm 
11
3.1.4. Tiếp cận dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ của người nhiễm 
HIV/AIDS 
Kết quả nghiên cứu này cho thấy: tỷ lệ người nhiễm 
được hỗ trợ từ cán bộ y tế cao nhất (91,0%), tiếp đến là đồng 
đẳng viên (ĐĐV) (67,3%), nhận được bao cao su (BCS) 
(62,8%), nhận được bơm kim tiêm (BKT) (48,1%); tỷ lệ nhận 
được tờ rơi trong 6 tháng qua cao (84,1%), tỷ lệ được tham gia 
sinh hoạt câu lạc bộ thấp (15,0%). 
Bảng 3.8. Tiếp cận chăm sóc, điều trị trong vòng 6 tháng trước 
điều tra (n=332) 
Tiếp cận dịch vụ chăm sóc, điều trị Số lượng Tỷ lệ % 
Nhận thuốc ARV 88 26,5 
Thời gian điều trị ARV trung bình 12,4 tháng 
Nhận thuốc điều trị NTCH 133 40,0 
Được chụp X - Quang phát hiện Lao 
- Được chẩn đoán mắc Lao (n=115) 
- Nhận thuốc điều trị Lao (n=14) 
115 
14 
12 
34,7 
12,2 
85,7 
Khám, điều trị BLTQĐTD 9 2,7 
Bảng 3.8 cho thấy: tỷ lệ người nhiễm được điều trị 
ARV thấp (26,5%), thời gian điều trị ARV trung bình ngắn 
(12,4 tháng); tỷ lệ được điều trị nhiễm trùng cơ hội (NTCH) 
thấp (40,0%). Chỉ có 34,7% được chụp XQ phổi phát hiện Lao; 
tỷ lệ người nhiễm được khám và điều trị các bệnh lây truyền 
qua đường tình dục (BLTQĐTD) thấp (2,7%). 
3.1.5. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm 
HIV/AIDS 
12
Hành vi tiêm chích ma túy không an toàn: 
Kết quả bảng 3.11 dưới đây, cho thấy: tỷ lệ có TCMT 
trong tháng qua của người nhiễm HIV cao (67,1%), tỷ dùng 
chung BKT trong tháng trước điều tra cao (24,4%). 
Bảng 3.11. Hành vi tiêm chích ma túy không an toàn của 
người nhiễm HIV/AIDS 
Hành vi TCMT Số lượng Tỷ lệ % 
Đã từng TCMT (n=329) 258 78,4 
Còn TCMT trong tháng trước (n=258) 173 67,1 
Dùng chung BKT trong tháng trước 
điều tra (n=172) 
Trong đó: 
- Dùng lại BKT của người khác 
- Đưa BKT đã dùng cho người khác 
42 
39 
21 
24,4 
22,9 
12,2 
Hành vi quan hệ tình dục không an toàn: 
13,1 18,2 16,7 
23,7 
57,1 
42,6
0 
1
2
3
4
5
6
7
Vợ/người yêu
(n=156) 
Gái mại dâm
(n=77) 
Bạn tình bất chợt 
(n=61)
Tỷ lệ %
Lần gần nhất 12 tháng qua
17
Biểu đồ 3.19. Hành vi tiêm chích ma túy không an toàn 
- Kết quả biểu đồ 3.19 cho thấy: tỷ lệ đối tượng còn 
TCMT trong tháng trước điều tra giảm rõ rệt sau 4 năm can 
thiệp từ 67,1% xuống 38,7% (CSHQ: 42,3%) có ý nghĩa thống 
kê (p<0,01). Tuy nhiên, tỷ lệ đối tượng dùng chung BKT giảm 
không đáng kể (từ 18,0% xuống 15,5%). 
- Kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy: tỷ lệ người 
nhiễm HIV/AIDS có QHTD với GMD 12 tháng trước điều tra 
chỉ giảm nhẹ từ 27,9% xuống 26,5% (CSHQ 5,0%). Các tỷ lệ 
người nhiễm HIV/AIDS không dùng BCS trong lần QHTD gần 
nhất và không thường xuyên dùng BCS 12 tháng trước có giảm 
nhiều hơn, tương ứng từ 18,2% xuống 8,9% (CSHQ 51,1%) và 
từ 57,1% xuống 42,4% (CSHQ 25,7%). Tuy nhiên, sự thay đổi 
của các chỉ số này chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Chương 4: BÀN LUẬN 
4.1. Thực trạng tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm 
HIV/AIDS và hành vi nguy cơ trước can thiệp (2008) 
4.1.1. Một số đặc điểm của người nhiễm HIV/AIDS 
18,0 
67,1
15,5
38,7
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Còn TCMT tháng 
trước điều tra* 
Dùng chung BKT
(*) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01 
Tỷ lệ % Trước can thiệp Sau can thiệp
16
Biểu đồ 3.17. Thay đổi sự chăm sóc, hỗ trợ của gia đình và 
cộng đồng 
 Biểu đồ 3.17 cho thấy: tỷ lệ đối tượng được gia đình 
chăm sóc, hỗ trợ tăng từ 82,2% lên 91,4% (CSHQ: 11,2%), có 
ý nghĩa thống kê (p<0,01); tỷ lệ nhận được chăm sóc, hỗ trợ 
của cộng đồng tăng từ 35,7% lên 66,9% (CSHQ: 87,4%), có ý 
nghĩa thống kê (p<0.01). 
3.2.3. Hiệu quả về tiếp cận dịch vụ của người nhiễm 
HIV/AIDS 
- Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả, người nhiễm 
HIV/AIDS tại các địa bàn triển khai can thiệp đã tiếp cận với 
các dịch vụ dễ dàng hơn: tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được 
điều trị ARV tăng rõ rệt từ 26,5% lên 84,1% (CSHQ: 217,4%), 
tỷ lệ nhận được thuốc NTCH tăng từ 40,0% lên 63,0% (CSHQ: 
57,5%), tỷ lệ được chụp XQ phát hiện Lao tăng từ 34,7% lên 
52,3% (CSHQ: 50,7%), có ý nghĩa thống kê (p< 0,01). 
 - Có sự thay đổi rõ rệt (p< 0,05) ở các chỉ số đánh giá 
khả năng tiếp cận dịch vụ giảm tác hại: tỷ lệ người nhiễm nhận 
BCS tăng từ 62,8 lên 72,4 (CSHQ: 15,3%), nhận BKT tăng từ 
48,7% lên 57,5% (CSHQ: 19,5%), được hỗ trợ từ đồng đẳng 
viên tăng từ 91,0% lên 94,5% (CSHQ: 40,4%). Về tiếp cận 
thông tin phòng chống AIDS, tỷ lệ được sinh hoạt câu lạc bộ 
của đối tượng tăng đáng kể từ 16,8% lên 24,0% (CSHQ: 
42,9%) có ý nghĩ thống kê (p< 0,05). 
3.2.4. Thay đổi về hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người 
nhiễm HIV/AIDS 
82,2
35,7
66,9
0 
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Được chăm sóc, hỗ 
trợ của gia đình 
Được chăm sóc hỗ 
Trợ của cộng đồng*
(*) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01 
13
Biểu đồ 3.9. Không dùng BCS lần QHTD gần nhất và không 
thường xuyên dùng BCS 12 tháng qua với các loại bạn tình của 
nam nhiễm HIV/AIDS 
Biểu đồ 3.9 cho thấy: tỷ lệ không dùng BCS lần QHTD 
gần nhất với vợ/người yêu của nam nhiễm với GMD cao nhất 
(18,2%). Tỷ lệ không thường xuyên dùng BCS trong 12 tháng 
qua với GMD cũng cao nhất (57,1%) và với bạn tình bất chợt 
(42,6%). 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy: có 89,9% nam 
nhiễm HIV/AIDS QHTD trong vòng 12 tháng trước điều tra; 
tỷ lệ QHTD với vợ/người yêu là cao nhất (72,9%), tiếp đến là 
với GMD (36,0%), thấp nhất là với bạn tình bất chợt (28,5%). 
Ảnh hưởng một số yếu tố đến hành vi nguy cơ lây truyền HIV: 
Phân tích về mối liên quan giữa các đặc điểm của đối 
tượng nghiên cứu với hành vi dùng chung BKT cho thấy: nhóm 
đối tượng nghiên cứu không được nhận hỗ trợ từ đồng đẳng 
viên có nguy cơ dùng chung bơm kiêm tiêm gấp 2,46 lần nhóm 
có nhận được hỗ trợ từ đồng đẳng viên và sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05). 
Bảng 3.16. Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến tỷ lệ 
luôn sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình 
Đặc điểm OR 
Khoảng tin 
cậy (95%) 
Tình trạng hôn nhân (Hiện sống một 
mình) 7,7 4,02 - 14,56 
Hiện đang sống với vợ/chồng 
Được điều trị ARV (Không) 2,4 1,11 - 5,19 
14
Có 
Nhận được hỗ trợ BCS (Không) 
2,6 1,24 - 5,35 
Có 
Nhận được hỗ trợ từ ĐĐV (Không) 
2,4 1,16 - 4,86 
Có 
Kết quả bảng 3.16 phân tích đa biến các yếu tố có mối 
liên quan ở trên đến hành vi luôn sử dụng BCS khi QHTD với 
các loại bạn tình trong 12 tháng trước thời điểm phỏng vấn cho 
thấy: các đặc điểm về tình trạng hôn nhân, được điều trị ARV, 
được hỗ trợ BCS và nhận hỗ trợ từ đồng đẳng viên thực sự có 
ảnh hưởng đến hành vi luôn sử dụng BCS khi QHTD với các 
loại bạn tình của đối tượng nghiên cứu. 
3.2. Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người 
nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng sau 4 năm triển khai 
3.2.1. Hiệu quả hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV 
Kết quả của chúng tôi cho thấy: tỷ lệ người nhiễm được 
tư vấn đúng trước xét nghiệm tăng từ 68,4% lên 76,6% (CSHQ 
12,0%), được tư vấn đúng sau xét nghiệm tăng (81,6% lên 
86,7%; CSHQ 6,3%), tuy nhiên sự thay đổi của các chỉ số này 
chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Riêng tỷ lệ người được tư 
vấn hỗ trợ thường xuyên tăng cao từ 66,1% lên 80,8% (CSHQ: 
22,2%), có ý ngĩa thống kê (p<0,01). 
15
83,2
66,1
88,3 83,3
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Tự nguyện 
xét nghiệm
Bạn tình làm 
xét nghiệm*
(*) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01
Tỷ lệ %
Trước can thiệp Sau can thiệp
Biểu đồ 3.14. Thay đổi nhu cầu tiếp cận dịch vụ tư vấn xét 
nghiệm và bạn tình làm xét nghiệm HIV 
 Phân tích biểu đồ 3.14: tỷ lệ bạn tình người nhiễm làm 
xét nghiệm HIV tăng cao (66,1% lên 83,3%; CSHQ: 26,0%), 
có ý nghĩa thống kê (p< 0,01); tỷ lệ đối tượng tự nguyện xét 
nghiệm HIV tăng ít (83,2% lên 88,3%; CSHQ: 6,1%). 
3.2.2. Hiệu quả chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: tỷ lệ đối 
tượng bị gia đình và cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh đã giảm sau 4 
năm can thiệp, tương ứng từ 2,7% xuống 1,3% (CSHQ: 51,9%) 
và từ 4,5% xuống 3,6% (CSHQ: 20,0%). Song, sự thay đổi của 
các chỉ số này chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_can_thiep_tu_van_cham_soc_ho_tro_nguoi_nhiem_hiv_ai.pdf