Học thuyết giá trị lao động: Một số vấn đề cần quan tâm

Học thuyết giá trị lao động của Mác là đúng đắn. Nhưng nếu “bảo vệ” Mác một cách giáo

điều thì sẽ không chỉ ra được quan điểm thực của Mác. Theo những người tiếp thu Mác không phải

từ gốc, Mác có ba điểm cốt tử rằng, “chỉ có lao động là nguồn gốc duy nhất của giá trị”, “thời gian

làm việc là thước đo của giá trị lao động”, và “nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư là lao động

sống”. Thực ra, Mác chỉ nhấn mạnh, đề cao vai trò của lao động và thời gian làm việc, chứ không

hề tuyệt đối hóa chúng. Ông không ít lần nhắc tới các yếu tố khác mà ngày nay càng trở lên quan

trọng không kém gì lao động. Mác không cần sự “bảo vệ” nào, mà chỉ cần được hiểu cho đúng

pdf 11 trang dienloan 2360
Bạn đang xem tài liệu "Học thuyết giá trị lao động: Một số vấn đề cần quan tâm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Học thuyết giá trị lao động: Một số vấn đề cần quan tâm

Học thuyết giá trị lao động: Một số vấn đề cần quan tâm
30 
Học thuyết giá trị lao động: 
một số vấn đề cần quan tâm 
Nguyễn Anh Tuấn1 
1 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Email: nguyenanhtuan1962@yahoo.com.vn 
Nhận ngày 1 tháng 12 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 12 năm 2018. 
Tóm tắt: Học thuyết giá trị lao động của Mác là đúng đắn. Nhưng nếu “bảo vệ” Mác một cách giáo 
điều thì sẽ không chỉ ra được quan điểm thực của Mác. Theo những người tiếp thu Mác không phải 
từ gốc, Mác có ba điểm cốt tử rằng, “chỉ có lao động là nguồn gốc duy nhất của giá trị”, “thời gian 
làm việc là thước đo của giá trị lao động”, và “nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư là lao động 
sống”. Thực ra, Mác chỉ nhấn mạnh, đề cao vai trò của lao động và thời gian làm việc, chứ không 
hề tuyệt đối hóa chúng. Ông không ít lần nhắc tới các yếu tố khác mà ngày nay càng trở lên quan 
trọng không kém gì lao động. Mác không cần sự “bảo vệ” nào, mà chỉ cần được hiểu cho đúng. 
Từ khóa: Lao động, hàng hóa, giá trị, giá trị thặng dư, học thuyết giá trị lao động. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: K.Marx's theory of labour value is correct. But if “defending” him in a dogmatic 
manner, one cannot point out what is authentical in his point of view. According to those who do 
not absorb his thought from the original version, K.Marx had three essential points that, “labour is 
the only source of value”, “working time is the measure of labour value”, and “the only source of 
surplus value is the living labour”. In fact, K.Marx only laid emphasis on and attached importance 
to the role of labour and working time, not absolutising them. He mentioned for quite a few times 
the other factors that have become more and more important today, being not less important than 
labour. K.Marx would not need any “defence”, just need his thought to be correctly understood. 
Keywords: Labour, commodity, value, surplus value, theory of labour value. 
Subject classification: Philosophy 
1. Mở đầu 
Như đã biết, theo học thuyết giá trị lao động 
của C.Mác, “giá trị của hàng hóa là do 
lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng 
hóa đó quyết định”2. Học thuyết giá trị lao 
động là cơ sở cho học thuyết giá trị thặng 
dư của Mác; đến lượt mình, học thuyết giá 
Nguyễn Anh Tuấn 
31 
trị thặng dư của Mác là hạt nhân của kinh tế 
chính trị học mácxít, và đồng thời là luận 
chứng kinh tế chủ yếu cho tính tất yếu của 
cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Vì thế, 
vấn đề xác định tính đúng đắn của học 
thuyết giá trị lao động của Mác có ý nghĩa 
nguyên tắc đối với việc thừa nhận tính đúng 
đắn của quan điểm mácxít nói chung và học 
thuyết giá trị thặng dư của Mác nói riêng. 
Từ khi ra đời đến nay, học thuyết giá trị lao 
động của Mác đã liên tục chịu sự phê phán 
cả từ các nhà mácxít với thiện ý muốn 
chỉnh sửa Mác, và từ những người phi 
mácxít với dụng ý chống Mác. Vậy, những 
phê phán đối với học thuyết giá trị lao động 
của Mác đúng đến đâu? Một năm trước đây, 
cộng đồng khoa học đã kỷ niệm 150 năm 
xuất bản tập 1 của bộ Tư bản (14/9/1867), 
và đầu năm nay kỷ niệm 200 năm ngày sinh 
của Mác (5/5/1818). Đây là thời điểm thích 
hợp để nhận thức lại học thuyết giá trị lao 
động của Ông. Bài viết này góp thêm ý kiến 
về một số vấn đề trong học thuyết giá trị lao 
động của Mác. 
2. Lực lượng sản xuất 
Để hiểu học thuyết giá trị lao động của Mác 
theo nghĩa rộng thì phải nắm được sự hình 
thành một số quan điểm tương ứng của ông. 
Việc phân tích khía cạnh biện chứng của 
cách hiểu duy vật về lịch sử cho thấy, ở 
Mác đã có sự mở rộng khái niệm lực lượng 
sản xuất. Nếu chỉ thoáng nhìn thì lực lượng 
sản xuất bao gồm sức lao động và tư liệu 
sản xuất, song xem xét kỹ lại cho thấy, các 
chức năng của lực lượng sản xuất có thể (và 
đã) được thực hiện bởi các yếu tố khác của 
xã hội, mà theo ý các nhà kinh điển chủ 
nghĩa Mác, gồm 4 tầng cấu trúc gắn kết với 
nhau theo chức năng: nhu cầu (NC) → lực 
lượng sản xuất (LLSX) → quan hệ sản xuất 
(QHSX)→ thượng tầng chính trị (TTCT) 
→ các hình thái ý thức xã hội (HTYTXH). 
Nói riêng, LLSX gián tiếp bao gồm cả các 
quan hệ tổ chức sản xuất (ví như hợp tác), 
quan hệ sở hữu (khi nó phù hợp với LLSX), 
nhà nước (khi các chính sách của nó thúc 
đẩy sự phát triển LLSX), khoa học, và các 
nhu cầu đang nảy sinh. 
Ở chương 1 tập 1 của Tư bản, Mác đã 
ghi nhận sự phụ thuộc chức năng đó. Theo 
Mác, đại lượng giá trị hàng hóa được xác 
định bởi thời gian lao động cần thiết để sản 
xuất ra hàng hóa. Đến lượt mình, thời gian 
lao động đó lại được xác định bởi năng suất 
lao động (tức là, sức sản xuất của lao động); 
năng suất lao động lại “được quyết định bởi 
rất nhiều tình hình, trong đó có: trình độ 
khéo léo trung bình của người công nhân, 
mức độ phát triển của khoa học và trình độ 
áp dụng khoa học vào quy trình công nghệ, 
sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất, 
quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, và 
các điều kiện thiên nhiên” [5, tr.69]. Từ đó, 
tất yếu lôgic suy ra rằng, đại lượng giá trị 
của một hàng hóa được quyết định không 
chỉ bởi thời gian lao động, mà ít ra còn bởi 
5 yếu tố khác như chính Mác vừa nêu. 
Trong suy diễn này có thể thay cụm từ 
“được quyết định” bằng cụm từ “phụ thuộc 
vào” mà không hề làm thay đổi thực chất 
vấn đề. 
Cũng trong chương 1 của Tư bản, Mác 
viết: “thời gian lao động này lại thay đổi 
theo mỗi một thay đổi trong sức sản xuất 
của lao động” [5, tr.68], “Như vậy là đại 
lượng giá trị của một hàng hóa thay đổi 
tỷ lệ thuận với lượng lao động thể hiện 
trong hàng hóa đó và tỷ lệ nghịch với 
sức sản xuất của lao động đó” [5, tr.69]. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
32 
Áp vào hàng hóa cá biệt, điều đó là đúng, 
nghĩa là, đại lượng giá trị của nó giảm khi 
năng suất lao động tăng lên. Nhưng, liệu 
có đúng rằng giá trị (tổng thể) giảm “tỷ lệ 
nghịch với sức sản xuất của lao động” 
không, nói cách khác, điều này còn đúng 
không khi áp vào toàn bộ số hàng hóa kiểu 
đó không? Tôi cho rằng, không đúng, vì 
năng suất lao động cao hơn phải là năng 
suất của lao động phức tạp, lành nghề hơn 
so với lao động giản đơn. Do vậy, cùng với 
sự gia tăng năng suất lao động thì cũng 
tăng thêm số lượng hàng hóa được sản 
xuất trong cùng thời gian lao động, và mặc 
dù giá trị của từng đơn vị hàng hóa riêng 
biệt giảm đi tương ứng, nhưng lại gia tăng 
tổng giá trị của toàn bộ hàng hóa được sản 
xuất ra. Tổng giá trị của toàn bộ hàng hóa 
là không đổi. 
3. Sức lao động 
Trong Tư bản, Mác đã viết về tính chất lịch 
sử của sức lao động, tức là của cả nhu cầu 
về nhân công. Giá trị của sức lao động có 
ảnh hưởng tới giá trị được tạo ra hay 
không? Rõ ràng là có nếu tạm gác lại việc 
sử dụng sức lao động rẻ hơn ở các nước tư 
bản kém phát triển, lạc hậu hơn (nhưng đây 
lại là kiểu vấn đề khác). Nếu như có, thì có 
nghĩa là, cả nhu cầu cũng ảnh hưởng đến 
đại lượng giá trị. Thực tế, chính Mác đã nói 
thẳng về nhu cầu như là LLSX. Ông viết: 
“Năng lực tiêu dùng là sự phát triển của 
một tư chất cá nhân nào đó của một sức sản 
xuất nào đó” [7, tr.382]. Nhu cầu là yếu tố 
thứ 6 chưa có ở 5 yếu tố nêu trên. 
Cuộc tranh cãi nổi tiếng về mâu thuẫn ảo 
giữa tập 1 và tập 3 của Tư bản (trao đổi 
diễn ra phù hợp với quy luật giá trị hay với 
phí tổn sản xuất)3 đã thôi thúc Ăngghen viết 
thêm “Bổ sung tập 3 của Tư bản” (chưa 
hoàn tất). Ở đây ông viết rằng, quy luật giá 
trị đã tác động suốt chiều dài bảy nghìn 
năm phát triển của sản xuất hàng hóa giản 
đơn như là tiền đề (cả lịch sử và lôgic) của 
sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Nhưng 
chính vì trong kỷ nguyên đó, tư liệu sản 
xuất, khoa học như là sức sản xuất, tính 
chất hợp tác của lao động và chính các nhu 
cầu xã hội phát triển còn rất yếu, và vì thế, 
có thể gác lại phần của chúng trong giá trị 
hàng hóa mà chỉ tính đến lao động trực tiếp 
bỏ vào quá trình sản xuất và trao đổi hàng 
hóa. Vậy là, đã lộ rõ trong trường hợp này 
sự nhất quán trong các quan điểm của 
A.Xmit, Mác và Ăngghen về tính chất lịch 
sử của quy luật giá trị. 
4. Lao động sống 
Nếu sức lao động chưa phải là toàn bộ 
LLSX, thì tại sao chỉ lao động sống mới tạo 
ra giá trị? Trước nay, chúng ta biết, Mác 
dường như chỉ khẳng định thế thôi; theo đó, 
lao động sống là nguồn gốc của mọi của 
cải. Song, từ kinh nghiệm, ta vẫn thấy giá 
trị còn được tạo ra từ những nguồn khác 
nữa. Chủ nghĩa Mác giáo điều bác bỏ kinh 
nghiệm bề ngoài đó và những luận cứ củng 
cố chúng khá đơn giản. 
Mác dựa trên học thuyết giá trị lao động 
của A.Xmit và Ricácđô, nhưng chính hai vị 
này cũng không nhất quán trong học thuyết 
này; và bản thân đã Mác phê phán họ, nhất 
là A. Xmit, về việc họ có khi xa rời học 
thuyết mang tính nguyên tắc này (điều đó 
chứng tỏ Mác rất trung thành với nó). Còn 
việc tất cả các nhà kinh tế học phi mácxít 
Nguyễn Anh Tuấn 
33 
sau đó đều không đồng ý với học thuyết giá 
trị lao động (không thừa nhận lao động 
sống là nguồn duy nhất của của cải), việc 
đó được giải thích là vì, tất cả họ đều là các 
tư tưởng gia của giai cấp tư sản. Vậy quan 
điểm thực của Mác là như thế nào? 
Tác phẩm kinh tế học đầu tiên Lược thảo 
phê phán khoa kinh tế chính trị do Ăngghen 
viết đã được Mác trong Tư bản gọi là công 
trình thiên tài. Cho nên, hẳn là, Mác tán 
thành việc trong tác phẩm này Ăngghen 
không đứng trên quan điểm học thuyết giá 
trị lao động. Ông viết: “Giá trị một vật 
phẩm bao hàm hai nhân tố Giá trị là quan 
hệ giữa chi phí sản xuất với tính công 
dụng” [1, tr.759]. Tức là, ông thừa nhận 
ngoài lao động sống, còn ít nhất một yếu tố 
nữa, yếu tố tính công dụng, cũng tạo thành 
giá trị. Người giáo điều bảo vệ Mác một 
cách mù quáng (bảo vệ luận điểm về nguồn 
gốc duy nhất) bằng 2 lý do: tác phẩm đó 
được viết ở thời kỳ hình thành chủ nghĩa 
Mác (quan điểm của Mác chưa định hình 
xong hẳn), và trong tác phẩm thiên tài 
không phải mọi điểm đều nhất thiết phải 
thiên tài, có thể vẫn còn có gì đó sai. 
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh 
Gôta (1872 - đây không thể coi là thời điểm 
quan điểm của Mác chưa chín muồi nữa), 
Mác phản đối luận điểm “lao động là nguồn 
gốc của mọi của cải” của Dự thảo Cương 
lĩnh. Thoạt nghe sự phản đối của ông thật lạ 
lùng, bởi như thế có nghĩa Mác đồng ý: lao 
động không phải là nguồn gốc (duy nhất) 
của mọi của cải, mà ở cùng mức độ đó, tự 
nhiên cũng là nguồn gốc của giá trị sử 
dụng. Điều này được Mác trước đó vài năm 
đã nói thẳng trong Tư bản: “Như vậy, lao 
động không phải là nguồn duy nhất của 
những giá trị sử dụng do nó sản xuất ra, 
không phải là nguồn duy nhất của của cải 
vật chất. Như Uy-li-am Pet-ti nói, lao động 
là cha của của cải, còn đất là mẹ của nó” [5, 
tr.74], “để gán cho lao động cái sức sáng 
tạo siêu tự nhiên đó” [4, tr.27]. Điều này 
cũng được người giáo điều “sửa chữa” khá 
đơn giản: tự nhiên là nguồn gốc của giá trị 
sử dụng, chứ không phải của giá trị, là cái 
vốn chỉ là sự kết tinh lao động xã hội sống 
cần thiết. 
5. Giá trị sử dụng và giá trị 
Tất cả những kinh nghiệm kiểu như trên và 
những hoài nghi nảy sinh từ chúng về tính 
đúng đắn của học thuyết giá trị lao động 
đều dễ dàng bị xóa tan từ chính lập trường 
của học thuyết mácxít giáo điều. Việc phân 
tích sự luận chứng cho học thuyết giá trị lao 
động cũng là một cách kiểm tra khác về 
tính chân thực của học thuyết này. Sự luận 
chứng lôgic rõ nhất cho học thuyết này 
được Mác thực hiện trong chương 1, tập 1 
Tư bản, ở 2 tiết đầu: “Hai nhân tố của hàng 
hóa: giá trị sử dụng và giá trị (thực thể của 
giá trị, đại lượng của giá trị)” và “Tính chất 
hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng 
hóa” [5, tr.61-80]. 
Trong chương này, theo chúng tôi, đã để 
xảy ra một sự thiếu chính xác (sai lầm) 
lôgic, từ đó dẫn đến tính phiến diện nhất 
định trong toàn bộ sự phát triển khoa học 
chặt chẽ tiếp theo của lý luận kinh tế. Ở 
đây, Mác rút bản chất của giá trị như là sự 
kết tinh của lao động xã hội cần thiết chủ 
yếu bằng con đường diễn dịch khi khảo sát 
khá tư biện sự trao đổi các (hai) hàng hóa. 
Trong đó, hầu như ông không sử dụng các 
dữ liệu thống kê, thực nghiệm cụ thể nào 
cả. Sự phân tích các dữ kiện thực nghiệm bị 
thay thế bằng “năng lực trừu tượng hóa”. Vì 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
34 
thế mà cả sự kiểm tra tính đúng đắn của 
diễn dịch đó cũng có thể bằng cách lôgic, 
diễn dịch. 
Trước hết, cần chính xác hóa thêm luận 
đề: giá trị chỉ là cái điều tiết sự trao đổi hay 
còn là thước đo sự giàu có? Liệu nó có thể 
là thước đo sự giàu có không? 
Mác bắt đầu phân tích hàng hóa từ việc 
khảo sát hai nhân tố, hai mặt của nó trong 
quá trình trao đổi. Trong quá trình hai 
hàng hóa trao đổi với nhau, chúng cân 
bằng nhau. Suy ra, trong chúng có gì đó 
chung. Cái chung đó, theo Mác, không thể 
là giá trị sử dụng. Chỉ có thể còn lại một 
điểm chung: cả hai hàng hóa đều là sản 
phẩm lao động. Trong lập luận này của 
Mác, theo chúng tôi, đã có một sự thiếu 
chính xác khá căn bản. Mác viết: “Cái 
chung ấy không thể là những thuộc tính 
hình học, vật lý, hóa học, hay những thuộc 
tính tự nhiên nào khác của hàng hóa”. Rõ 
ràng là, các thuộc tính này tự thân không 
là (không thể là) cái chung gắn kết hai 
hàng hóa trao đổi với nhau. Nhưng các 
thuộc tính khách quan của hàng hóa trong 
quan hệ của chúng với các nhu cầu của 
con người lại chính là các giá trị sử dụng, 
và đó cũng là sự tham gia của hai sản 
phẩm lao động vào sự trao đổi với nhau, là 
điều Mác đã nói đến không ít lần. Suy ra, 
cái chung cần tìm còn là các giá trị sử 
dụng của hai hàng hóa, mà mỗi một trong 
số chúng đều có khả năng thỏa mãn phần 
nào đó các nhu cầu tổng thể của con người. 
Mác viết tiếp: “Các thuộc tính vật thể 
của hàng hóa nói chung cũng chỉ được xét 
đến trong chừng mực chúng làm cho các 
hàng hóa đó trở nên có ích, tức là trong 
chừng mực làm cho hàng hóa biến thành 
những giá trị sử dụng. Nhưng mặt khác, nét 
đặc trưng của quan hệ trao đổi hàng hóa 
chính lại là việc phải gạt giá trị sử dụng của 
hàng hóa ra một bên”. Nếu lập luận trên của 
chúng tôi là đúng, thì quan hệ trao đổi của 
các hàng hóa được đặc trưng không phải 
bởi sự gác lại các giá trị sử dụng của chúng, 
mà ngược lại, đòi hỏi phải có các giá trị sử 
dụng, tính hữu ích của các hàng hóa được 
mang ra trao đổi. Những giá trị trao đổi các 
hàng hóa không chứa trong mình một 
nguyên tử giá trị sử dụng nào. Mác viết 
tiếp: “Nếu gạt giá trị sử dụng của vật thể 
hàng hóa ra một bên, thì vật thể hàng hóa 
chỉ còn có một thuộc tính mà thôi, cụ thể là: 
chúng là sản phẩm của lao động”[5, tr.65]. 
Đúng, nếu gác lại giá trị sử dụng thì chỉ còn 
lại lao động như là nguồn gốc của giá trị. 
Nhưng về lý thuyết, vấn đề đã bị đẩy tới 
nan đề. Cần phải trừu tượng hóa mãi mãi 
hay chỉ ở một giai đoạn nhất định của quá 
trình đi từ trừu tượng đến cụ thể? Chỉ ở một 
giai đoạn nhất định thôi, chứ không thể mãi 
mãi theo kiểu “xét đến cùng”. 
6. L ...  việc. Và trên bình diện rộng 
hơn, Mác vẫn chưa kết thúc ý tưởng đi từ 
trừu tượng đến cụ thể to lớn của mình trong 
quá trình phân tích phê phán phương thức 
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Điều này liên 
quan không chỉ đến ý đồ trình bày “hệ 
thống kinh tế tư sản (trong sáu cuốn) theo 
thứ tự sau đây: tư bản, sở hữu ruộng đất, 
lao động làm thuê, nhà nước, ngoại thương, 
thị trường thế giới” [2, tr.13], nơi bộ Tư 
bản chỉ là cuốn đầu tiên, mà còn đến cả 
việc xây dựng chính Tư bản. Ở nghĩa này, 
khó có thể vận dụng ngay các kết quả mà 
Mác thu được trong công trình chính của 
đời ông nếu không xử lý lại các mắt khâu 
trung gian không chỉ đối với hiện thực hiện 
nay, mà còn đối với cả hiện thực kinh tế thế 
kỷ XIX. 
7. Giá trị thặng dư 
Mác xuất phát từ học thuyết giá trị lao 
động, cho rằng lao động sống là nguồn gốc 
duy nhất của giá trị, giá trị là sự kết tinh 
lao động xã hội cần thiết. Mác rất nhất 
quán dẫn dắt nguyên tắc này qua toàn bộ 
nghiên cứu kinh tế chính trị học của mình. 
Giá như ông xuất phát từ quan điểm rộng 
và chung hơn, thì sự giải quyết nhiều vấn 
đề cụ thể của kinh tế chính trị học có thể sẽ 
khác nhiều. 
Nếu khái niệm LLSX không bị quy chỉ 
về sức lao động, nếu ngay ở sự tiếp xúc đầu 
tiên với LLSX mà đã biết coi nó là sức lao 
động cộng với tư liệu sản xuất (tức là lao 
động sống và lao động tích lũy), giá như cứ 
mạnh dạn coi gần như tất cả mọi yếu tố 
khác của toàn bộ cấu trúc xã hội là các dạng 
LLSX gián tiếp, thì dĩ nhiên sẽ có thể giả 
định tất cả chúng đều sẽ tham gia vào việc 
tạo ra giá trị. 
Nguyễn Anh Tuấn 
37 
Có thể gọi các lực lượng sản xuất gián 
tiếp này là các nhân tố góp phần tạo ra giá 
trị, nhưng điều đó có thể chỉ là sự đặt tên 
khác cho cùng hiện thực đó mà thôi. Nếu 
nhờ sự hỗ trợ của tác nhân, lao động tạo ra 
giá trị lớn hơn (chẳng hạn, 10%), thì liệu có 
thể nói, nó (nhân tố X) là nguồn gốc của 
10% giá trị bổ sung thêm không? Thêm vào 
đó, sự biến đổi các chức năng, cũng như 
“sự đảo ngược mối phụ thuộc chức năng” 
(x = f(y) → y = f(x)) là một tính quy luật rất 
phổ biến. Vì thế, không có gì lạ khi đầu tiên 
lao động là nguồn gốc của giá trị của lao 
động được tích lũy, của phương tiện sản 
xuất, rồi sau đó lao động được tích lũy, đến 
lượt mình lại trở thành nguồn gốc (đồng tác 
nhân tạo ra) của giá trị mới. Có không ít các 
giá trị như vậy (ví dụ, tiền như là phương 
tiện trao đổi trở thành phương tiện cất giữ 
của cải; ý thức vốn là sản phẩm của tồn tại, 
sau đó tác động ngược lại, thường mang 
tính quyết định đến tồn tại đã sinh ra nó). 
Liệu có phải mọi lao động được tích lũy 
đều là nguồn gốc của giá trị? Dĩ nhiên là 
không phải. Vàng cất kỹ trong rương, kim 
cương trong chiếc nhẫn, hay các tư liệu 
phục vụ đời sống mà con người đang dùng, 
chỉ có thể trở thành nguồn gốc như vậy. 
Vậy, đặc thù của sự khái quát mới về 
học thuyết giá trị thặng dư là gì? Chúng ta 
biết, Mác phê phán quan điểm của A.Xmit 
về ba nhân tố quyết định giá cả hàng hóa và 
cũng biết rõ cả học thuyết khá phổ biến sau 
này về vai trò của các nhân tố khác (ngoài 
lao động) trong việc tạo ra giá trị. Từ đó, 
theo Mác, phải nói chính xác và đầy đủ hơn 
rằng, lao động tạo ra giá trị, nhưng lao 
động không phải là nguồn duy nhất của giá 
trị. Những dẫn chứng nêu trên khẳng định 
rằng, Mác thừa hiểu vai trò thứ nhất, nền 
tảng, then chốt, đặc biệt của lao động sống 
như là nguồn gốc chủ yếu nhất của giá trị, 
vì thiếu nó thì tất cả các nhân tố khác đã 
không và không thể vận hành, nhưng không 
phải là nguồn gốc duy nhất. Song cũng có 
một thực tế rằng, Mác chỉ nhấn mạnh vế 
thứ nhất của mệnh đề trên, mà ít nhắc tới vế 
thứ hai. Điều đó có thể là do toàn bộ tinh 
lực và tình cảm của ông dành trọn để luận 
chứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp 
những người lao động (công nhân, vô sản). 
8. Ý nghĩa thực tiễn của học thuyết giá trị 
lao động 
Thứ nhất, đối với phương thức sản xuất tư 
bản chủ nghĩa, nếu cả lao động được tích 
lũy (tư bản) cũng tham gia vào việc tạo ra 
giá trị (chứ nó không chỉ giản đơn mang giá 
trị phần hao mòn vô hình của mình trong 
quá trình sản xuất sang hàng hóa mới được 
tạo ra), thì rõ ràng tồn tại “phần lợi nhuận 
hợp pháp” có nguồn gốc không phải từ lao 
động sống tự thân, từ hoạt động của sức 
công nhân, mà từ tư liệu sản xuất thuộc về 
nhà tư bản (không xét đến cùng). Nhưng về 
lý thuyết, rất phức tạp để xác định “phần 
hợp pháp” đó. Cả công nhân lẫn nhà tư bản 
đều không mấy quan tâm trực diện chuyện 
này. Công nhân thì cho rằng, toàn bộ những 
gì được tạo ra đều phải thuộc về những 
người trực tiếp sản xuất như họ. Nhà tư bản 
lại cho rằng, khi đã trả cho giá trị của sức 
lao động (trả tiền cho việc sử dụng nó trong 
suốt thời gian thuê mướn, tức là dưới dạng 
cảm tưởng như tiền lương của toàn bộ lao 
động), thì nhà tư bản có quyền định đoạt 
toàn bộ sản phẩm được sản xuất ra, trong 
đó có cả sản phẩm thặng dư. Nhưng việc 
xác định được “phần hợp pháp” đó (trên lý 
thuyết hay thực tiễn, “trực quan”) lại có ý 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
38 
nghĩa then chốt, vì nhờ đó trong điều kiện 
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội, 
nhà nước mới có thể thực hiện sự điều tiết 
hạn mức lợi nhuận. Điều tiết nhà nước, rốt 
cuộc, tức là điều tiết xã hội, bởi trong 
trường hợp này, theo Mác nhà nước thực 
hiện “các chức năng hợp lý” [3, tr.451] của 
mình; chẳng hạn, khi nhà nước xác định 
mức thuế trên tài sản kế thừa. Việc xác định 
“phần hợp pháp” này hướng đến chống lại 
chính sách tân tự do kinh tế mà trên thực tế 
chỉ kích thích sự hỗn loạn sở hữu tư nhân 
đã được Mác trích dẫn hơn 150 năm trước 
[5, tr.1056]. Sự xác định “phần hợp pháp” 
của lợi nhuận còn quan trọng đối với các 
nền kinh tế chuyển đổi (kinh tế của thời kỳ 
quá độ sang hình thái xã hội mới). 
Liệu cách lý giải nêu trên về quy luật giá 
trị thặng dư có xóa nhòa hiện tượng bóc lột, 
tức là sự tước đoạt bất hợp pháp lao động 
của người khác? Hoàn toàn không. Ngay ở 
Bản thảo kinh tế - triết học 1844, Mác đã 
làm rõ sự tha hóa tư liệu sản xuất khỏi 
người sản xuất. Vị thế của công nhân và 
nhà tư bản, của người sản xuất và kẻ sở hữu 
tư liệu sản xuất xã hội là không như nhau, 
“bất đối xứng”. Người sản xuất vì duy trì sự 
sống của mình chỉ bằng cách bán sức lao 
động, nên không thể tồn tại mà không sử 
dụng các tư liệu sản xuất không thuộc về 
anh ta. Còn kẻ sở hữu các tư liệu sản xuất 
đó, trong trường hợp người lao động nghỉ 
việc (lãn công, đình công, bãi công), có thể 
dùng đội quân dự trữ (là những lao động 
thất nghiệp), hoặc xấu nhất, thì vẫn sống tốt 
bằng vốn liếng đã có của mình, trong khi 
người lao động không thể nghỉ việc quá lâu, 
“tay quai miệng trễ” ngay. Kiểu gì thì nhà 
tư bản vẫn lạm dụng “vị thế có của” của 
mình để giành lấy phần lớn nhất có thể từ 
giá trị được tạo ra. Vậy là bóc lột vẫn cứ 
hoành hành. 
Thứ hai, khi phương thức sản xuất xã hội 
chủ nghĩa thắng lợi, thì còn có thể xác định 
khách quan hơn phần sản phẩm xã hội tổng 
thể được dùng để thỏa mãn các nhu cầu 
chung của xã hội, và phần được phân phối 
theo lao động có tính đến độ dài thời gian, 
cường độ, và chủ yếu là độ phức tạp của 
chính lao động. 
Những nhận xét nêu trên giúp hé lộ ra 
nhiều điểm có ý nghĩa đối với học thuyết 
giá trị thặng dư. Mác đã gọi tập 4 của Tư 
bản là Học thuyết giá trị thặng dư. Do vậy 
sự tồn tại của sản phẩm thặng dư và giá trị 
thặng dư đối với Mác là không thể tranh 
cãi, hay Mác thẳng thắn thừa nhận sự tồn 
tại của chúng. 
Trong thời gian lao động, người công 
nhân tạo ra không chỉ giá trị cần thiết cho 
sự tồn tại sức lao động của mình, của năng 
lực lao động ở nghĩa thông thường (bao 
gồm cả tồn tại của giống loài mình, của giai 
cấp những người sản xuất), mà cả phần giá 
trị thặng dư bị người sở hữu tư liệu sản xuất 
trực tiếp tước đoạt. 
Nếu những suy ngẫm mang tính phê 
phán nêu trên (không chỉ lao động, mà các 
yếu tố khác của sản xuất cũng tham gia tạo 
thành nguồn gốc của giá trị) là đúng, thì 
ngoài lao động sống là nguồn gốc chủ yếu 
của phần giá trị thặng dư, còn phải kể thêm 
vào đây các phương tiện được sử dụng 
trong quá trình sản xuất ra nó, và các yếu tố 
khác đã được nhắc tới ở trên. 
Và do vậy, không phải toàn bộ giá trị 
thặng dư đều thuộc về người chủ sở hữu 
phương tiện sản xuất (Mác gián tiếp nhắc 
nhở điều này khi ông hoạch định sự phân 
phối sản phẩm xã hội tổng thể ở giai đoạn 
đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa). Một 
phần của nó, dưới dạng thuế khóa, sẽ được 
chi dùng để thỏa mãn các nhu cầu chung 
Nguyễn Anh Tuấn 
39 
của xã hội4. Một phần nữa, trực tiếp hay 
gián tiếp, phải dành để trả cho những yếu tố 
vốn có thể coi là các nguồn bổ sung thêm 
cho giá trị được tạo ra (như địa tô, lợi tức từ 
các khoản vay ngân hàng). Phần nữa buộc 
phải dành để mở rộng (phát triển) sản xuất 
nhằm cạnh tranh hiệu quả hơn. Một phần 
phải để dành vào quỹ bảo hiểm hay dự trữ. 
Một phần chi phí cho quản lý sản xuất, nếu 
nhà tư bản không trực tiếp là doanh nhân; 
đây là phần trả cho lao động quản lý phức 
tạp (mà sự cần thiết của nó đã được Mác 
ghi nhận và xem xét trong Tư bản)5. Và 
không thể quên phần dành cho tiêu dùng cá 
nhân của chủ sở hữu và của gia đình người 
chủ đó và cho mọi sự tích trữ của họ. Vậy 
là có ít nhất đến sáu phần. 
Mối tương quan giữa tiền công lao động 
(của sức lao động) và giá trị thặng dư phụ 
thuộc đáng kể vào cuộc đấu tranh giữa hai 
giai cấp cơ bản, điều đó cũng ảnh hưởng tới 
đại lượng giá trị thặng dư. Tóm lại, tương 
quan giữa lao động cần thiết và lao động 
thặng dư, giữa giá trị phải trả cho sức lao 
động và giá trị thặng dư không hề đơn giản 
như vẫn thường nghĩ, do vậy ở trên mới 
nói, sự xác định “phần hợp pháp” của lợi 
nhuận là rất khó khăn. Điều này ngay ở 
Việt Nam hiện nay cũng thể hiện rất rõ qua 
các vòng thương thảo đàm phán kéo dài về 
tỷ lệ tăng lương cơ bản cho người lao động 
trong năm tiếp theo giữa Tổng liên đoàn 
Lao động Việt Nam và đại diện Phòng 
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. 
9. Kết luận 
Sự phát triển tiếp theo của học thuyết giá trị 
lao động, sự khắc phục tính phiến diện của 
nó, sự mở rộng và làm sâu sắc nó, được 
chúng tôi hình dung tương tự như là sự khái 
quát hóa bức tranh vật lý khi chuyển từ vật 
lý cổ điển Newton sang vật lý lượng tử 
tương đối tính của A.Einstein, N.Bohr, L. 
De Broglie. Cho đến tận khi trong thực tiễn 
vẫn chỉ có các vật thể khá lớn và vận tốc 
khá nhỏ thì cơ học cổ điển vẫn còn thích 
hợp với nó, bởi cơ học này xuất phát từ sự 
độc lập của không gian - thời gian và vật 
chất, của khối lượng và vận tốc chuyển 
động, từ nguyên tắc tương tác xa. Khi vật lý 
học mở rộng cuốn vào nó thế giới các hạt vi 
mô với vận tốc lớn như vận tốc ánh sáng, 
thì sẽ cần khái quát để xây dựng lý thuyết 
mới mà lý thuyết trước đây trở thành trường 
hợp riêng của nó. 
Học thuyết giá trị lao động, như đã được 
A.Xmit và Ricacđô gây dựng và như đã 
được Mác luận chứng ở khởi đầu của việc 
xây dựng kinh tế học chính trị mới của ông 
trong Tư bản, đã chịu sự ảnh hưởng của 
thời kỳ lịch sử hình thành phương thức sản 
xuất tư bản chủ nghĩa. Cùng với sự gia tăng 
vai trò của phương tiện sản xuất với tư cách 
là tư bản bất biến, vai trò của sản xuất tinh 
thần trong tổng sản xuất xã hội, của lực 
lượng sản xuất khoa học, cùng với sự phát 
triển của sản xuất cơ giới và sự tự động hóa 
đầu tiên trên cơ sở của sản xuất đó, cùng 
với sự phát triển của các hình thức sở hữu 
cổ phần hóa, và nhiều những biến đổi về 
chất nữa của phương thức sản xuất tư bản 
chủ nghĩa, thì càng cần thiết phải phát triển 
tiếp học thuyết giá trị thặng dư. Và như đã 
phân tích ở trên, chúng ta thấy trong di sản 
lý luận của Mác đã lấp ló những tiền đề cho 
sự khái quát hóa và phát triển tất yếu đó từ 
lý thuyết khởi thủy ban đầu. Mác đã sử 
dụng học thuyết giá trị lao động để lý giải 
cơ chế bóc lột, để luận chứng cho học 
thuyết giá trị thặng dư. Sự khái quát hóa 
hơn học thuyết giá trị lao động không hề 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
40 
phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư, mà 
còn chứng minh nó toàn diện hơn. Dĩ nhiên, 
các lập luận trên đây đều giả định sự vận 
hành “bình thường”, “văn minh” của 
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với 
chế độ lương bổng theo đúng giá trị sức lao 
động, chứ không có kiểu tích lũy ban đầu 
đầy tội ác, không có lối tước đoạt sở hữu 
theo lối mờ ám thân hữu, không có chuyện 
đoạt chiếm rẻ rúng tài nguyên thiên nhiên 
vốn thuộc về toàn xã hội. Nghĩa là cũng giả 
định xem xét chủ nghĩa tư bản dưới “dạng 
thuần túy” nhất. 
Chú thích 
2 Học thuyết giá trị về lao động là học thuyết giá trị 
lao động. Theo Wikipedia Tiếng Việt: “Học thuyết 
giá trị lao động là một trong những học thuyết kinh 
tế về giá trị. Theo học thuyết này, giá trị của hàng 
hóa là do lượng lao động cần thiết để sản xuất ra 
hàng hóa đó quyết định. Người đặt nền móng đầu 
tiên cho học thuyết này là William Petty và John 
Locke. Adam Smith và David Ricardo là những 
người có đóng góp lớn cho học thuyết giá trị lao 
động” [8]. 
3 Theo chúng tôi, sở dĩ có tranh luận này là do không 
hiểu mối tương quan lịch sử - lôgic (quy luật “di 
truyền sinh học” đặc thù của sự nghiên cứu và trình 
bày), cái trừu tượng và cái cụ thể trong phương pháp 
luận biện chứng của Mác nghiên cứu phương thức 
sản xuất tư bản chủ nghĩa. 
4
 Trong các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa sản phẩm 
thặng dư được bòn rút dưới dạng vật cống nạp, làm 
trả nợ không công, sưu cao. 
5 Nghiên cứu vai trò của các nhà quản lý là cực kỳ 
quan trọng. Cần chú ý đến tư tưởng của Ăngghen về 
“công nhân quý tộc” và tư tưởng sâu sắc của Mác 
trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền Hegel 
về ý muốn của giới quý tộc biến nhà nước thành sở 
hữu riêng của mình. Vì các viên quản trị, những công 
chức trong lĩnh vực kinh tế, cũng như các viên quan 
liêu ở địa bàn thượng tầng chính trị, cũng cố biến sở 
hữu mà mình có trách nhiệm quản lý thành sở hữu tư 
của mình. Và ở mức họ thực sự đạt được, họ thể hiện 
không chỉ như những kẻ làm thuê chuyên nghiệp, mà 
thực tế còn như những kẻ đồng sở hữu phương tiện 
sản xuất 
Tài liệu tham khảo 
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.1, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.13, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[3] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.17, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[4] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.19, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5] C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, t.23, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[6] C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, t.25, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[7] C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t.46, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[8] https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB% 
8Dc_thuy%E1%BA%BFt_gi%C3%A1_tr% 
 E1%BB%8B_lao_%C4%91%E1%BB%99ng, 
truy cập ngày 10/10/2018. 

File đính kèm:

  • pdfhoc_thuyet_gia_tri_lao_dong_mot_so_van_de_can_quan_tam.pdf