Kháng thuốc lao và kết quả điều trị lao ở đối tượng nghiện chích ma túy mắc lao / HIV (+) bị nhiễm HTLV (+)

Mở đầu: Giống HIV-1, HTLV là căn bệnh nhiễm trùng suốt đời suy giảm miễn dịch do đồng nhiễm HIV và

HTLV sẽ thúc đẩy sự tăng sinh vi khuẩn lao và tiến triển thành bệnh cảnh lâm sàng. Chiến lược phòng ngừa lây nhiễm HIV, HTLV và lao thông qua việc củng cố chiến lược ngăn chặn bệnh lao của Tổ Chức Y Tế Thế Giới ở các đối tượng có nguy cơ cao và ở bệnh nhân lao là đảm bảo việc chẩn đoán lao sớm và điều trị những người bị nhiễm HIV và HTLV, hóa trị liệu dự phòng ở đối tượng nhiễm HTLV, HIV để đề phòng bệnh lao tiến triển, và đưa ra các khuyến cáo đối với vấn đề đồng nhiễm HIV(+) HTLV(+) là các vấn đề mà Chương Trình Chống Lao cần quan tâm.

Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tình trạng kháng thuốc lao và đánh giá kết quả điều trị lao ở đối tượng

nghiện chích ma túy mắc lao/HIV(+) bị nhiễm HTLV(+).

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang với 68 đối tượng nghiện chích ma túy

(IDU) là lao mới / HIV(+) tại TP.HCM

Kết quả: - Ở nhóm HTLV(+) các đối tượng có phản ứng lao tố dương tính hoặc âm tính đều bị kháng thuốc

như nhau (p=0,259), nhưng tử vong sớm ở nhóm có phản ứng lao tố âm tính (22%-11/50%) cao hơn nhóm có phản ứng lao tố dương tính (6%-3/50) một cách có ý nghĩa thống kê (p=0,021). - Kết quả điều trị lao ở 2 nhóm

HTLV(+) và HTLV(-) thuộc đối tượng IDU mắc lao/HIV(+) khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p=0,850). - Tỷ

lệ âm hóa thấp 30-40%. Thất bại, bỏ trị và tử vong sớm cao > 35% ở cả 2 nhóm HTLV(+) và HTLV(-) (p=0,558).

Kết luận: Ở bệnh nhân IDU mắc lao/HIV(+) có nhiễm HTLV(+) hoặc không nhiễm HTLV, kháng thuốc và

tử vong sớm thường gặp ở giai đoạn miễn dịch nặng TCD4/mm3 <200 m3="" kháng="" nhiều="" thuốc="" và="" tử="" vong="" sớm="" thường="" có="" số="" lượng="" rna="" trong="" huyết="" tương="" của="" hiv-1="" nhiều="" ≥="" 4="" log="" copies/ml,="" nhất="" là="" tử="" vong="" sớm="" ở="" nhóm="" có="" phản="" ứng="" lao="" tố="" âm="" tính="" idr="">< 5mm="" cao="" hơn="" so="" với="" nhóm="" có="" phản="" ứng="" lao="" tố="" dương="" tính.="" kết="" quả="" điều="" trị="" lao="" của="" 2="" nhóm="" htlv(+)="" và="" htlv(-)="" là="" như="" nhau,="" với="" tỷ="" lệ="" âm="" hóa="" thấp="" 30-40%,="" tỷ="" lệ="" thất="" bại,="" bỏ="" trị="" và="" tử="" vong="" sớm="" cao=""> 35%

pdf 15 trang dienloan 5360
Bạn đang xem tài liệu "Kháng thuốc lao và kết quả điều trị lao ở đối tượng nghiện chích ma túy mắc lao / HIV (+) bị nhiễm HTLV (+)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kháng thuốc lao và kết quả điều trị lao ở đối tượng nghiện chích ma túy mắc lao / HIV (+) bị nhiễm HTLV (+)

Kháng thuốc lao và kết quả điều trị lao ở đối tượng nghiện chích ma túy mắc lao / HIV (+) bị nhiễm HTLV (+)
 391 
KHÁNG THUỐC LAO VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LAO Ở ĐỐI TƯỢNG 
NGHIỆN CHÍCH MA TÚY MẮC LAO/HIV(+) BỊ NHIỄM HTLV(+) 
 Lê Văn Nhi* 
Mở đầu: Giống HIV-1, HTLV là căn bệnh nhiễm trùng suốt đời suy giảm miễn dịch do đồng nhiễm HIV và 
HTLV sẽ thúc đẩy sự tăng sinh vi khuẩn lao và tiến triển thành bệnh cảnh lâm sàng. Chiến lược phòng ngừa lây 
nhiễm HIV, HTLV và lao thông qua việc củng cố chiến lược ngăn chặn bệnh lao của Tổ Chức Y Tế Thế Giới ở các 
đối tượng có nguy cơ cao và ở bệnh nhân lao là đảm bảo việc chẩn đoán lao sớm và điều trị những người bị nhiễm 
HIV và HTLV, hóa trị liệu dự phòng ở đối tượng nhiễm HTLV, HIV để đề phòng bệnh lao tiến triển, và đưa ra 
các khuyến cáo đối với vấn đề đồng nhiễm HIV(+) HTLV(+) là các vấn đề mà Chương Trình Chống Lao cần quan 
tâm. 
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tình trạng kháng thuốc lao và đánh giá kết quả điều trị lao ở đối tượng 
nghiện chích ma túy mắc lao/HIV(+) bị nhiễm HTLV(+). 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang với 68 đối tượng nghiện chích ma túy 
(IDU) là lao mới / HIV(+) tại TP.HCM 
Kết quả: - Ở nhóm HTLV(+) các đối tượng có phản ứng lao tố dương tính hoặc âm tính đều bị kháng thuốc 
như nhau (p=0,259), nhưng tử vong sớm ở nhóm có phản ứng lao tố âm tính (22%-11/50%) cao hơn nhóm có 
phản ứng lao tố dương tính (6%-3/50) một cách có ý nghĩa thống kê (p=0,021). - Kết quả điều trị lao ở 2 nhóm 
HTLV(+) và HTLV(-) thuộc đối tượng IDU mắc lao/HIV(+) khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p=0,850). - Tỷ 
lệ âm hóa thấp 30-40%. Thất bại, bỏ trị và tử vong sớm cao > 35% ở cả 2 nhóm HTLV(+) và HTLV(-) (p=0,558). 
Kết luận: Ở bệnh nhân IDU mắc lao/HIV(+) có nhiễm HTLV(+) hoặc không nhiễm HTLV, kháng thuốc và 
tử vong sớm thường gặp ở giai đoạn miễn dịch nặng TCD4/mm3 <200/mm3 kháng nhiều thuốc và tử vong sớm 
thường có số lượng RNA trong huyết tương của HIV-1 nhiều ≥ 4 log copies/ml, nhất là tử vong sớm ở nhóm có 
phản ứng lao tố âm tính IDR < 5mm cao hơn so với nhóm có phản ứng lao tố dương tính. Kết quả điều trị lao của 
2 nhóm HTLV(+) và HTLV(-) là như nhau, với tỷ lệ âm hóa thấp 30-40%, tỷ lệ thất bại, bỏ trị và tử vong sớm 
cao > 35%. 
Từ khóa: HIV, IDR, Nghiện ma túy, HTLV, RNA, Lymphô bào T4, Lymphô bào T8; Rifampicine; 
Ethambutol; Isoniazide; Pyrazinamide. 
ABSTRACT 
THE DRUG RESISTANT TUBERCULOSIS AND TREATMENT OUTCOME AMONG IDU WITH 
TB/HIV(+) CO-INFECTED WITH HTLV 
Le Van Nhi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 6 - 2009: 391 - 403 
Settings: Alike HIV, HTLV infection is a life long infection. The immunodepression caused by HIV and 
HTLV enhances the multiplication of the BK and accelerates the progression from TB infection to the disease. The 
STOP TB strategy of the WHO promotes the strengthen of basic activities to control TB and HIV/AIDS such as 
early case detection and treatment of TB and coordination of the different program. HTLV infection is a problem 
that NTP has to be awared. 
Objective: to assess preliminary the drug resistant tubeculosis and treatment outcome among IDU with 
* Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch TP.HCM 
Địa chỉ liên lạc: TS Lê Văn Nhi ĐT: Email: 
 392 
TB/HIV co-infected with HTLV. 
Method: Cross sectional study with 68 IDU having new tuberculosis associated HIV and coinfected with 
HTLV at HCMC. 
Results: In HTLV(+) group, the tuberculosis drug resistant in patients who has tuberculin skin test positive 
is the same as that in patients who has tuberculin skin test negative (p=0.259). However, the mortality rate in 
patients who has tuberculin skin test negative (22% - 11/50) is higher than that in positive test patients (6% - 
3/50) and that has statistically difference (p=0.021). There is no statistically difference in the treatment outcome of 
TB/HIV/IDU between HTLV(+) and HTLV(-) group (p=0.850). Low negative smear conversion 30 – 40%. 
Failure, defaulters, early death more than 35% in both HTLV(+) and HTLV(-) group (p=0.558). 
Conclusions: In TB/HIV/IDU patients with or without HTLV coinfection, drug resistant and early death 
usually occur in severe immunodepression patients with CD4<200/mm3 , poly resistant and early death occur in 
patient with high viral load HIV-1 more than 4 log copies/ml, especially in TST negative (TST<5mm). There is no 
statistically difference in the treatment outcome of HTLV(+) and HTLV(-) group. Low negative smear conversion 
(30 – 40%) and high failure, defaulters, early death rate in both HTLV(+) and HTLV(-) group (p=0.558) are 
observed. 
Keywords: HIV: Human Immunodeficiency Virus; IDR: Intradermal Reaction; IDU: Intravenous Drug 
Users; HTLV: Human T-lymphotropic Virus; RNA: Ribonucleic Acid; TCD4: Enumeration TCD4 lymphocytes; 
TCD8: Enumeration TCD8 lymphocytes; R: Rifampicine; E: Ethambutol; H: Isoniazide; Z: Pyrazinamide. 
MỞ ĐẦU 
Nhiều báo cáo tham luận về tình hình nhiễm 
HTLV tại Peru trong suốt 2 thập kỷ qua, cho 
thấy việc nhiễm HTLV chủ yếu có liên quan đến 
các thể liệt nhẹ chi dưới và nhiều biến chứng nội 
khoa khác. Hơn nữa theo ý kiến của các nghiên 
cứu hiện nay thì bệnh lý nhiễm trùng này có thể 
tác động lên dịch tễ lao và HIV. Các nghiên cứu 
cũng cho thấy đồng nhiễm lao và HTLV-1 có tỷ 
lệ tử vong rất cao, nếu Chương Trình Chống Lao 
cải thiện để chẩn đoán điều trị sớm lao và 
HTLV-1, thì nguy cơ tử vong có thể giảm một 
cách có ý nghĩa. Hơn nữa mối liên quan với các 
biến số khác như tuổi, phái tinh, việc làm (đặc 
biệt những người hành nghề mại dâm) và tử 
vong do lao như các nghiên cứu đã đề cập, sẽ có 
tác động trên vài nhóm đối tượng đặc biệt có 
nguy cơ cao với lao và HTLV-1(1,4,8,17,33). 
Các chứng cứ đưa ra giả thuyết về mối liên 
quan giữa HTLV-1 và lao thì cóvẻ hợp lý về mặt 
sinh học : hậu quả của suy giảm miễn dịch do 
nhiễm HTLV-1 sẽ thúc đẩy sự tăng sinh vi 
khuẩn lao và tiến triển thành bệnh cảnh lâm 
sàng. Thông tin này sẽ quan hệ mật thiết với các 
chiến lược và hoạt động kiểm soát lao. Tiềm lực 
tác động, bổ sung và tiếp cận cần thiệt bao gồm 
trong một tổng thể chiến lược là phòng ngừa lây 
nhiễm HTLV-1 và lao thông qua việc củng cố 
chiến lược ngăn chặn lao của Tổ chức Y Tế Thế 
Giới. Chiến lược này sẽ gắp bó mật thiết đối với 
các đối tượng có nguy cơ và cộng đồng nơi mà 
tần suất HTLV-1 cao cũng như đối với các quần 
thể bệnh nhân lao nói chung (1, 5, 8, 16, 17, 22-24, 26, 31). 
Các nhà lãnh đạo y tế nên tập trung vào 
việc đảm bảo chẩn đoán lao sớm và điều trị 
những người bị nhiễm HTLV-1. Vấn đề còn lại 
chưa được trả lời là tiềm năng hiệu quả của 
việc hóa trị liệu dự phòng ở đối tượng bị 
nhiễm HTLV-1, để đề phòng bệnh lao tiến 
triển, tương tự đưa ra các khuyến cáo đối với 
vấn đề đồng nhiễm HIV(+). 
Nghiên cứu được thực hiện để khảo sát tình 
trạng kháng thuốc lao và bước đầu đánh giá kết 
quả điều trị lao ở những đối tượng nghiện chích 
ma túy mắc lao/HIV(+) bị nhiễm HTLV(+). 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu cắt ngang với cỡ mẫu N=60 (bù 
cho mất mẫu ±13%). Tổng mẫu, thu được 68, đối 
tượng là những người nghiện chích ma túy 
(IDU: Intravenous Drug Users) mắc lao/HIV(+) 
 393 
tại TP.HCM (tất cả đối tượng nghiện chích ma 
túy HIV(+) bị mắc lao này là những bệnh nhân 
mới, bệnh nhân chưa bao giờ điều trị hoặc đã 
dùng thuốc lao những dưới 1 tháng). Thực hiện 
nghiên cứu sau luận án tiến sĩ (2003) từ năm 
2004-2005(15). 
- Các mẫu bệnh phẩm máu (đảm bảo 
nguyên tắc an toàn sinh học trong khu lấy máu) 
từ những đối tượng nghiện chích ma túy mắc 
lao/HIV(+). Các mẫu không ghi họ tên, chỉ đánh 
mã số vào nhãn dán trên ống nghiệm, tiến hành 
thử nghiệm theo thể thức vào dữ liệu giấu tên và 
đồng thuận hợp tác phù hợp. 
Thực hiện chẩn đoán 
* Chẩn đoán huyết tương HIV(+) bằng thử 
nghiệm Elisa với 2 sinh phẩm Genelavia/mix và 
Serodia và Western Blot (WB). 
* Các kỹ thuật để chẩn đoán lao ở bệnh nhân 
HIV/AIDS được thực hiện trong nghiên cứu: 
Xét nghiệm soi kính hiển vi đàm sau khi 
nhuộm Ziehl-Neelsen (ZN) tìm trực khẩn kháng 
cồn toan AFB/đàm. Cấy đàm bằng phương pháp 
Loewenstein Jensen định danh BK và thực hiện 
kháng sinh đồ. 
Ứng dụng sinh học phân tử (PCR: 
polymerase chain reaction) trong chẩn đoán xác 
định vi khuẩn lao. 
Giải phẫu bệnh lý (mô bệnh) để chẩn đoán 
xác định các trường hợp lao ngoài phổi. 
Xquang phổi thẳng – nghiêng. 
Chọc dò dịch não tủy, dịch màng phổi, dịch 
màng tim để làm xét nghiệm sinh hóa, tế bào và 
vi khuẩn. 
* Đo phản ứng nội bì với lao tố (tuberculin) 
PPD-RT-23 (5TU), được đánh giá là dương tính 
khi ≥ 5mm (theo khuyến cáo của CDC). 
* Đếm số lượng tuyệt đối TCD4/mm3 bằng kỹ 
thuật dòng chảy với hệ thống đếm miễn dịch 
huỳnh quang tự động ở tất cả bệnh nhân. 
* Chẩn đoán huyết tương phát hiện kháng 
thể HTLV (Human T-cell lymphotropic virus) 
với sinh phẩm Vironositka HTLV-1 của hãng 
dược phẩm Organon Teknika – Pháp, thực hiện 
tại Viện Pasteur. 
* Định lượng RNA của HIV-1/huyết tương 
(log copies/ml) 
Xếp loại theo số lượng TCD4/mm3 : Số lượng 
RNA / huyết tương của HIV-1 được đo trong 2cc 
(ml) huyết tương ở mỗi bệnh nhân HIV(+) mẫu 
được mã hóa, chuyển về Trung Tâm Y tế Dự 
Phòng TP.HCM và tiến hành định lượng RNA 
của HIV-1 tại Bordeaux-Pháp. 2ml huyết tương 
này được đựng trong ống chứa EDTA giữ ở 
nhiệt độ -80oC và được đo với kỹ thuật b.DNA 
(branched DNA). Sử dụng kỹ thuật Quantiplex 
HIV-1 RNA 2.0 assay của tập đoàn Chiron San 
Francisco, CA. Đơn vị nồng độ RNA/huyết 
tượng của HIV-1 được tính bằng log copies/ml. 
Kỹ thuật Quantiplex HIV-RNA (Chiron) ứng 
dụng sự khuyếch đại phân tử lai tạo đánh dấu. 
* Thực hiện kháng sinh đồ gián tiếp với 
phương pháp tỷ lệ (kỹ thuật tỷ lệ Canetti) để 
đánh giá khả năng nhạy cảm với từng loại 
thuốc kháng lao của vi khuẩn lao đã được xác 
định qua môi trường cấy Loewenstein Jensen 
(L.J) ở bệnh nhân lao/HIV(+). 
Xác định tỷ lệ kháng thuốc ở bệnh nhân lao 
mới/HIV(+), bị nhiễm HTLV(+) 
Xếp loại kết quả kháng sinh đồ của bệnh 
nhân lao mới/HIV(+) theo số lượng TCD4/mm3, 
số lượng RNA/huyết tương của HIV-1 và đường 
kính của phản ứng lao tố. 
Phân tích tử vong theo số lượng TCD4/mm3 
và kết quả kháng sinh đồ. 
* Bệnh nhân lao phổi/HIV(+): AFB(+) mới, AFB(-
) mới và lao ngoài phổi được điều trị có kiểm soát 
bằng phác đồ 2HRZE/6HE (theo khuyến cáo của 
Chương Trình Chống Lao Quốc Gia (với liều 
lượng từng thuốc theo khuyến cáo của Tổ Chức 
Y Tế Thế Giới và Chương Trình Chống Lao 
Quốc Gia. H=5mg/kg (4-6mg/kg); R=10mg/kg (8-
12mg/kg); Z=25mg/kg (20-30mg/kg); E=15mg/kg 
(15-20mg/kg). 
* Với phác đồ điều trị cho bệnh nhân lao phổi 
mới/HIV(+) nếu vào cuối tháng thừ 2, xét nghiệm 
 394 
đàm của bệnh nhân chưa được âm hóa, thì được 
tiếp tục tấn công thêm tháng thứ 3. Cuối tháng 
thứ 3, bất kể xét nghiệm đàm âm tính hay dương 
tính thì vẫn chuyển sang giai đoạn củng cố. Nếu 
bệnh nhân có xét nghiệm đàm vẫn dương tính ở 
tháng thứ 5 thì đánh giá là thất bại điều trị. Bệnh 
nhân sẽ được đăng ký trở lại trong nhóm thất bại 
điều trị và bắt đầu phác đồ tái điều trị. 
* Đánh giá kết quả điều trị của mỗi bệnh 
nhân vào cuối điều trị theo 6 loại: 
Lành bệnh (âm hóa): Bệnh nhân có kết quả xét 
nghiệm đàm âm tính lúc chấm dứt điều trị hoặc 
1 tháng trước lúc chấm dứt điều trị. 
Hoàn thành điều trị: Bệnh nhân đã hoàn tất 
điều trị nhưng không có bằng chứng lành bệnh 
(không có kết quả xét nghiệm đàm lúc chấm dứt 
điều trị). 
Thất bại điều trị: Đàm của bệnh nhân vẫn còn 
hoặc trở lại dương tính ở tháng thứ 5 hoặc trễ 
hơn ở quá trình điều trị. 
Chết: Bệnh nhân chết trong lúc điều trị lao 
(do bất cứ lý do gì). 
Bỏ trị: Bệnh nhân bỏ trị trên 2 tháng. 
Chuyển đi: Bệnh nhân chuyển đi qua đơn 
vị điều trị khác mà kết quả điều trị không 
biết được. 
* Cách theo dõi các bệnh nhân lao phổi mới 
AFB(+)/HIV(+): Xét nghiệm vi khuẩn lao lúc bắt 
đầu điều trị và theo dõi kết quả điều trị bằng xét 
nghiệm vi khuẩn lao theo khuyến cáo của Tổ 
Chức Y Tế Thế Giới và Chương Trình Chống 
Lao Quốc Gia. Suốt quá trình điều trị của mỗi 
bệnh nhân AFB(+) được theo dõi chặt chẽ về vi 
khuẩn học vào cuối giai đoạn tấn công (vào cuối 
tháng thứ 2); trong lúc điều trị (vào cuối tháng 
thứ 4) và vào cuối cuộc điều trị (trong hoặc cuối 
tháng thứ 6). Lấy tối thiểu 2 mẫu đàm cho mỗi 
lần thử. 
* Theo dõi điều trị các trường hợp lao phổi 
AFB (-) /HIV(+): 
Rất cần thiết là thử đàm ở cuối tháng thứ 2 
(có thể lúc đầu thử sai: Đó là AFB(+) nhưng chẩn 
đoán sai là AFB(-) hoặc bệnh nhân không tuân 
thủ điều trị). 
So sánh kết quả điều trị lao giữa 2 nhóm 
HTLV(+) và HTLV(-) 
* Tính toán thống kê: Sử dụng phần mềm 
thống kê Stata/SE phiên bản 10.0 để xử lý số liệu 
và tính toán thống kê với mức ý nghĩa p<0,05). 
Kết quả: Qua nghiên cứu 68 đối tượng IDU 
mắc lao/HIV(+), chúng tôi ghi nhận 51 trường 
hợp HTLV(+) và 17 trường hợp HTLV(-), tỷ lệ 
nam : nữ ở nhóm HTLV là 16 : 1, độ tuổi trung 
bình 37,62±7,16. 
Bảng 1: Kết quả kháng sinh đồ 1 TDMP, cấy (-) 1 
lao hạch cấy (-) 
Tổng số chủng thử HTLV(+), n = 51 
HTLV(-), 
n = 17 p 
TS TV TS TV 
Số chủng nhạy cảm 
20 2 10 3 
p = 0,116 (so 
sánh kháng 
thuốc và 
nhạy cảm) 
p = 0,166 (so 
sánh tử vong 
ở nhóm nhạy 
cảm) 
Số chủng kháng 30 12 6 2 
p = 0,760 (so 
sánh tử vong 
ở nhóm 
kháng thuốc) 
Kiểu 
kháng Thuốc 
H 24 6 0,463 
R 17 3 0,248 
E 6 1 0,516 
Kháng bất 
kỳ với 
S 23 6 0,551 
H 
R 1 1 0,569 
E 
S 4 1 0,243 
Kháng 1 
thuốc 
Tổng 
cộng 
H + R 
H + R + E 1 0,569 
H + R + S 
(2 Ma) 
10
5 
2 
1 
0,489 (0,650) 
H + R + E 
+ S 
4 1 1Ma 0,818 
Đa kháng 
(kháng 
thuốc ít 
nhất với H 
và R) 
Tổng 
cộng 
Các kiểu H + E 
 395 
Tổng số chủng thử HTLV(+), n = 51 
HTLV(-), 
n = 17 p 
H + E + S 1 0,569 
R + E 
R + S 
R + E + S 
E + S 
Tổng 
cộng 
0 20 2 10 3 0,116 
1 thuốc 5 2 0,188 
2 thuốc 9 4 3 1 0,946 
3 thuốc 12 5 2 1 0,327 (0,650) 
4 thuốc 4 1 1 0,818 
Số kháng 
thuốc với 
Tổng 
cộng 
30 12 6 2 0,116 
Nhận xét: Ở nhóm HTLV(+): Nhạy cảm với 
thuốc lao 40% (20/50)-Tỷ lệ tử vong 10% (2/20); 
Kháng thuốc 60% (30/50)-Tỷ lệ tử vong 40% 
(12/30). Ở nhóm HTLV(-): Nhạy cảm với thuốc 
lao 62,5% (10/16)-Tỷ lệ tử vong 30% (3/10). Kháng 
thuốc 37,5% (6/16)-Tỷ lệ tử vong 33,3% (2/6). 
Bảng 2: Kháng thuốc và số lượng CD4 ở nhóm 
HTLV(+) 
n = 26 
< 200/mm3 
(2Ma) 
n = 20 
200 – 499 
n = 5 
> 500/mm3 Tổng cộng HTLV(+) 
TS TV TS TV TS TV TS TV 
Nhạy 8 2 10 2 20 2 
1 3 1 2 1 5 2 
2 7 4 1 1 9 4 
3 1 Ma 6 
1 Ma 
3 6 2 12 5 
Kháng 
4 1 3 1 4 1 
Tổng cộng 
kháng 17 8 10 3 3 1 30 12 
Đa kháng 7 3 8 3 15 6 
Tử vong 
trong ñiều 10 3 1 50 14 
n = 26 
< 200/mm3 
(2Ma) 
n = 20 
200 – 499 
n = 5 
> 500/mm3 Tổng cộng HTLV(+) 
TS TV TS TV TS TV TS TV 
trị 
Ghi chú: 1 trường hợp tràn dịch màng phổi 
(TDMP), cấy âm tính có số lượng TCD4/200mm3. 
Nhận xét: Tỷ lệ tử vong sớm ở nhóm 
HTLV(+) là 27,45% (14/51). 
Kháng thuốc và tử vong thường gặp ở giai 
đoạn miễn dịch nặ ... lại 
không thường gặp hơn ở bệnh nhân HIV(+) khi hoàn tất cuộc điều trị. Tử vong cao có thể là 
một lý do tại sao tái phát không thường gặp. 
Phần lớn những trường hợp thất bại hay tái phát có liên quan đến việc điều trị không 
được giám sát. Vấn đề là những bệnh nhân lao/HIV(+) phần nhiều khó giữ được điều trị 
đều đặn. Như vậy do thiếu hẳn “lề an toàn” trong điều trị lao ở bệnh nhân suy giảm miễn 
dịch, đòi hỏi một mô hình hoạt động tích cực như điều trị lao có kiểm soát (DOTS: Directly 
Observed Treatment Short Course) sớm, ngay khi được chỉ định phác đồ điều trị(14). 
Những bệnh nhân tái phát và thất bại trong nghiên cứu này không có vấn đề về sự tuân 
thủ điều trị và về chế độ kiểm soát điều trị mà tình trạng kháng thuốc đã góp phần biện dẫn 
nguyên nhân cho các trường hợp thất bại hay tái phát này, nhất là đa kháng thuốc lao hoặc 
nhiễm phải Ma (Mycobacterium atypique) ở bệnh nhân lao/HIV(+) được theo dõi điều trị 
trong nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn ghi nhận được vài trường hợp thất bại không liên quan 
đến kháng thuốc, kháng sinh đồ hoàn toàn thụ cảm. Như một trường hợp lao kê, có đàm 
AFB(+) 1+, 2+; số lượng tuyệt đối TCD4 là 30/mm3, TCD4: 533/mm3, TCD3 : 602/mm3, suy kiệt 
rất nặng với các biểu hiện lâm sàng liên quan đến bệnh lý nhiễm HIV(+) nặng nề: sốt cao 
kéo dài liên tục, tiêu chảy không cầm, nấm miệng và hậu môn, hạch dưới hàm, nách, bẹn, 
loét da rộng nặng ở mặt trước hai cẳng chân, xét nghiệm đàm còn dương tính liên tiếp ở 
tháng thứ 2, thứ 3 và cuối tháng 4, bệnh nhân đã tử vong sau 4 tháng điều trị lao. 
Do vậy nên luôn nghĩ rằng, cuộc điều trị có vẻ như thất bại hoặc tái phát có thể là do 
nguyên nhân khác liên quan đến bệnh cảnh HIV có thể không phải là do lao (kháng thuốc, 
không tuân thủ chế độ kiểm soát điều trị). 
 402 
Tuy khuynh hướng tái phát ở bệnh nhân lao/HIV(+) cao hơn lao/HIV(-), thời gian tái 
phát ngắn, tử vong khi bị tái phát nhiều. Nhưng trong khi chờ đợi các phác đồ rất hiệu quả 
để điều trị siêu vi (HAART-Highly Active Anti Retroviral Therapy) rất đắt tiền được phổ 
biến rộng rãi thì việc điều trị lành những bệnh nhân lao/HIV(+) nhất là bệnh nhân lao 
AFB(+)/HIV(+) với các thuốc lao hiện có và với giá thành rẻ có thể phòng tránh lây lan cho 
cộng đồng vì âm hóa được nguồn lây. Tỷ lệ thất bại điều trị và tái phát cao sẽ làm tăng gánh 
nặng kinh phí cho ngành y tế và Chương Trình Chống Lao về chi phí chăm sóc và điều trị 
vốn đã han hẹp. 
Tử vong ở bệnh nhân lao/HIV(+) 
Các nghiên cứu về phẫu tích tử thi xác định để ghi nhận các nguyên nhân của tử vong 
cao ở bệnh nhân lao/HIV(+) chưa từng được thực hiện. Tại Nairobi, hầu hết tử vong cao xảy 
ra sau tháng đầu tiên của điều trị lao, dường như không phải do lao mà do các biến chứng 
khác liên quan đến HIV, đặc biệt là nhiễm trùng huyết do vi khuẩn không phải là vi khuẩn 
lao cũng cho thấy ở bệnh nhân lao/HIV(+) điều trị lao, ¾ số tử vong do lao xảy ra trong 
tháng đầu tiên của điều trị. Góp phần cho tỷ lệ tử vong cao xảy ra ở bệnh nhân lao/HIV(+) là 
nguyên nhân của đa kháng thuốc do lao. Mặc dù hóa trị liệu lao ngắn ngày mang lại kết quả 
tốt trong việc âm hóa đàm và ngăn ngừa tái phát, tỷ lệ tử vong do lao ở những bệnh nhân 
HIV(+) tại Phi Châu vẫn còn cao hơn ở bệnh nhân HIV(-)(14). 
Trong một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, Whalen đã so sánh tần suất (số mới mắc) các 
nhiễm trùng cơ hội và thời gian sống còn của bệnh nhân nhiễm HIV(+) với lao và bệnh nhân 
HIV không bị lao, với số lượng tuyệt đối TCD4/mm3 giống nhau. Những bệnh nhân HIV/lao 
nào có nhiều bệnh nhiễm trùng cơ hội hơn sẽ có thời gian sống còn ngắn hơn (2, 3, 9, 27). 
Nhưng phần lớn người bị bệnh liên quan đến nhiễm HIV, không được điều trị kháng siêu 
vi, không được sử dụng hóa dự phòng thường qui chống lại các bệnh nhiễm trùng, không 
có được các điều kiện thuận lợi để chẩn đoán như viêm phổi do Pneumocystis jirovecci hoặc 
bệnh Toxoplasmose não và hơn nữa không có thuốc đặc hiệu thường qui tại các cơ sở y tế để 
điều trị các bệnh phổ biến như viêm màng não do nấm Cryptococcus ngay cả nấm C.albicans. 
Những yếu tố nào quyết định sự gia tăng tỷ lệ tử vong ở các bệnh nhân nhiễm HIV1 vẫn 
còn chưa rõ. Phần lớn có lẽ thứ phát do những rối loạn khác có liên quan đến sự nhiễm HIV, 
thường xảy ra ở các đối tượng HIV(+) như tiêu chảy kéo dài dẫn đến suy dinh dưỡng, 
Sarcome Kaposi tiến triển, thiếu máu nặng hoặc các nhiễm trùng cơ hội khác đang hiện diện 
mà không được phát hiện. Qua các nghiên cứu gần đây, điều này đã được khẳng định và 
chứng minh, hầu hết tử vong xảy ra sau khi đàm đã chuyển âm và khi bệnh lao đã có 
những cải thiện trên lâm sàng(14); do đó có thể khẳng định rằng bệnh lao không phải là 
nguyên nhân chủ yếu gây tử vong. 
Chương Trình Chống Lao do đó cần chẩn đoán bệnh sớm và có khả năng chẩn đoán 
cũng như điều trị các bệnh nhiễm trùng không do lao. Và trong quản lý bệnh nhân HIV, 
mục tiêu là phát hiện và điều trị các bệnh có liên quan nhiễm HIV. 
So sánh kết quả điều trị lao ở 2 nhóm HTLV(+) và HTLV(-) ở đối tượng IDU mắc 
lao/HIV(+) khác nhau không có ý nghĩa thống kê p = 0,850 khi phân tích đoàn hệ dựa trên 6 
loại: lành bệnh (âm hóa), hoàn thành điều trị, thất bại điều trị, chết, bỏ trị và chuyển đi, vào 
cuối giai đoạn điều trị, nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ âm hóa ở đối tượng IDU mắc lao/HIV(+) 
 403 
dù có nhiễm HTLV(+) hay không nhiễm HTLV là rất thấp chỉ từ 30-40% do tỷ lệ thất bại, bỏ 
trị và tử vong cao ở nhóm HTLV(+) là 37,25% (19/51) và ở nhóm HTLV(-) là 29,41% (5/17) 
p=0,558 (Bảng 10). Và khảo sát ở nhóm mất dị ứng (IDR=00mm) cho thấy số lượng 
CD4/CD8, số lượng RNA trong huyết tương của RNA-1, và tử vong giữa 2 nhóm HTLV(+) 
và HTLV(-) cũng khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) (Bảng 11). Kết quả điều trị 
lao ở nhóm mất dị ứng là như nhau khi so sánh giữa HTLV(+) và HTLV(-) (Bảng 12). 
Các chương trình kiểm soát lao ở các nước có tỷ lệ HIV cao sẽ rất nặng nề, do sự gia tăng 
quá mức các trường hợp lao sau dịch HIV. Điều này sẽ tăng gánh nặng cho nguồn kinh phí 
về chẩn đoán và điều trị. Các bệnh nhân lao/HIV(+) thường sẽ có các bệnh khác cần chú ý, 
để phát hiện và điều trị mà các phương tiện có thể không có sẵn. Việc sử dụng thuốc lao sẽ 
gia tăng ngoài sự giám sát trực tiếp của Chương Trình Chống Lao, khi cần nhập viện bệnh 
nhân để điều trị. Điều này có thể dẫn đến làm giảm các nguyên tắc chuẩn trong điều trị, các 
tiêu chuẩn điều trị trái ngược và sự tuân thủ điều trị kém là tất cả các yếu tố nguy cơ cho sự 
phát triển đề kháng thuốc. Cuối cùng nhưng rất quan trọng là tinh thần nhuệ khí của nhân 
viên Chương Trình Chống Lao có thể bị suy sụp bởi vì sự gia tăng quá tải các trường hợp 
bệnh lao, kết hợp với tỷ lệ tử vong cao có thể làm giảm niềm tin của cộng đồng vào Chương 
Trình Chống Lao. 
Mặc dù những năm gần đây việc đưa vào sử dụng thuốc kháng siêu vi ở các nước phát 
triển đã làm giảm đáng kể tử lệ tử vong, cải thiện và kéo dài cuộc sống cho bệnh nhân 
HIV(+). Tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện ở mọi nơi, nhiều tác 
giả đã ghi nhận có nhiều khó khăn xung quanh việc sử dụng thuốc kháng siêu vi ở các nước 
nghèo trong các nước đang phát triển (6, 7, 9, 27): 1. Thuốc rất mắc tiền. 2. Các giá thành cho 
điều trị liên tục rất lớn vì phải điều trị suốt đời. 3. Phác đồ thuốc điều trị phức tạp. 4. Phản 
ứng phụ rất cao. 5. Có lẽ thiếu sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân dẫn đến kháng thuốc rất 
cao. 6. Sự cung cấp thuốc không đáng tin cậy và hệ thống phân phối thuốc kém cõi. 7. Cơ sở 
chăm sóc sức khỏe không đủ trình độ cơ bản để theo dõi điều trị kháng siêu vi. 
Nghiên cứu này còn nhiều hạn chế do cỡ mẫu không đủ lớn để đánh giá được sự phối 
hợp của HTLV với sự gia tăng mức độ nặng của bệnh lao và nghiên cứu chỉ trên đối tượng 
nghiện chích ma túy (IDU) mắc lao/HIV(+), chưa nghiên cứu trên đối tượng bệnh lao đơn 
thuần hoặc ở đối tượng lao/HIV(+) không phải là IDU và thời gian theo dõi còn ngắn (8 
tháng). 
KẾT LUẬN 
Ở bệnh nhân lao/HIV(+) có nhiễm HTLV(+) hoặc không nghiễm HTLV kháng thuốc và 
tử vong sớm thường gặp ở giai đoạn miễn dịch nặng CD4<200/mm3 (p = 0,072 và p = 0,164) 
kháng nhiều thuốc và tử vong sớm cũng thường có số lượng RNA của HIV-1 trong huyết 
tương nhiều ≥ 4 log copies/ml (p = 0,116 và p = 0,358), đặc biệt tử vong sớm ở nhóm có phản 
ứng lao tố âm tính IDR< 5mm (22%) cao hơn so với nhóm có phản ứng lao tố dương tính 
(6%) một cách có ý nghĩa thống kê (p = 0,021). Phân tích đoàn hệ kết quả điều trị lao của 
nhóm HTLV(+) và HTLV(-) thuộc đối tượng IDU mắc lao/HIV(+) cũng khác nhau không có 
ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Ở nhóm HTLV(+) điều trị lao có tỷ lệ âm hóa thấp 30-40% do 
thất bại, bỏ trị và tử vong sớm cao > 35% so với HTLV(-) (p = 0,558). 
 404 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alarcon J. O, Friedman H.B, Montano S.M, Zunt J.R, Holmes K.K., Quinnan G.V.Jr. (2006). High endemic of human T-cell 
lymphotropic virus type I among pregnant women in Peru. J. Acquir Immune Defic. Syndr; 52: 604-609 
2. Dalcolmo M.P., Cardoso R.L., Callado A.C.C., Perera A.D., Grinzstein B., Conde H. Jr, Schecter M., Kristie A.L. (1995), 
“Validation of AIDS clinical case definitions among HIV seropositive patients with tuberculosis: preliminary results”, Tub 
and lung dis suppl 2, pp.450-PA12 
3. Daley C.L. (1995), “The typically” atypical “radiographic presentation of TB in advanced HIV disease”, Tub and lung dis, 
vol 76, 475-476. 
4. Fleury H.J.A (1999) Virologie humaine. 3ç édition pp.149-151 
5. Harrington W. Jr. (1997) Co-infection of tuberculosis and HIV/HTLV retroviruses: frequency and prognosis among 
patients admitted in a Brazilian hospital, Braz J Infect Dis No1; pp: 31-35 
6. Harries A.D., (2000), “Applying advances to the developing world for TB and HIV control”, Int J Tuberc lung Dis 4(2), 
pp.S65-S70. 
7. Jenny Avital E.R. (2000), “Patient preferences, not drug interactions, are the major impediments to the delivery of highly 
active antiretroviral therapy (HAART) to HIV/TB dually infected patients”, Int J Tuberc Lung Dis 4(2), abst.17, pp.S94-S95. 
8. Kaplan J E, Camara T, Hanne A, Green D, Khabbaz R, Le-Guenno B, (1994). Low prevalence of human T-lymphotropic 
virus type I among patients with tuberculosis in Senegal. J Acquir Immune Defic Syndr; 7: 418-420. 
9. Lauria L., Cavalcante S.C., (2000), “Reduction of AIDS – related tuberculosis cases associated with antiretroviral therapy 
(ART) in Rio de Janeiro, Brazil”, Int. J. Tuberc Lung Dis 4(2), abst 21, pp.S96. 
10. Lê Văn Nhi, Lộc Thị Quý (1996), “Theo dõi tỷ lệ HIV(+) ở bệnh nhân lao nhập viện tại Trung Tâm Phạm Ngọc Thạch và 
thu dung điều trị tại 12 quận huyện thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1993 đến 1995”. Nội san lao và bệnh phổi, Tổng hội Y 
Dược học Việt Nam – Hà Nội, Tập 22, tr.79-88. 
11. Lê Văn Nhi, Lộc Thị Quý, Nguyễn Việt Cồ (2001), “Một số nhận xét ban đầu về mối liên quan giữa các đặc điểm lâm sàng, 
hình ảnh Xquang phổi và số lượng CD4 ở bệnh nhân lao/HIV(+)”, Y học TP. Hồ Chí Minh, Trường đại học Y Dược TP. Hồ 
Chí Minh, Tập 5, số 1, tr.42-48. 
12. Lê Văn Nhi, Lộc Thị Quý (1996), “Khảo sát sự nhiễm HIV ở bệnh nhân lao – bệnh phổi nhập viện Trung Tâm Phạm Ngọc 
Thạch”, Nội san lao và bệnh phổi – Tổng hội Y Dược học Việt Nam – Hà Nội, Tập 22, tr.68-78. 
13. Lê Văn Nhi, Phạm Duy Linh, Nguyễn Thị Ngọc Lan (1995), “Kết quả bước đầu nghiên cứu đặc điểm về gien và kháng 
nguyên cua HIV-1 ở thành phố Hồ Chí Minh”, Nội san lao và bệnh phổi – Tổng hội Y Dược học Việt Nam – Hà Nội, Tập 
18, tr.79-87. 
14. Lộc Thị Quý, Lê Văn Nhi, Nguyễn Việt Cồ (2001), “Nhận định ban đầu về đáp ứng điều trị lao ở bệnh nhân lao/HIV(+) tại 
thực địa”, Y học TP. Hồ Chí Minh, Trường đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tập 5(2), tr.110-118. 
15. Lê Văn Nhi (2003). Nghiên cứu dịch tễ và các hình thái lâm sàng lao/HIV(+) tại TP. HCM. Luận án tiến sĩ y học 2003. 
16. Manns A, Hisada M, La Grenade L. (1999). Human T-lymphotropic virus type I infection. Lancet; 353: 1951-1958. 
17. Marinho J, Galvao Castro B, Rodrigues L C, Barreto M L. (2005). Increased risk of tuberculosis with human T-lymphotropic 
virus-1 infection: a case-control study. J Acquir Immune Defic Syndr; 40: 625-628. 
18. March F., Garriga X., Rodriguez P., et al., (1997), “Acquired drug resistance in Mycobacterium tuberculosis isolates 
recovered from compliant patients with human immunodeficiency virus associated tuberculosis”, Clin Infect Dis 25, pp. 
1044-1047. 
19. Munsiff S.S., Joseph S., Ebrahimzadeh A., Frieden T.R. (1997), “Rifampin-monoresitant tuberculosis in New York City, 
1993-1994”, Clin Infect Dis 25, pp. 1465-1467. 
20. Nakata K., Rom W.N., Honda Y., et al., (1997), “Mycobacterium tuberculosis enhances immunodeficiency virus-1 
replication in the lung”, Am J Respir Crit Care Med 155, pp. 996-1003. 
21. Nolan C.M., Williams D.L., Cave M.D., et al., (1995), “Evolution of rifampin resistance in human immunodeficiency virus-
associated tuberculosis”, Am J Respir Crit Care Med 152, pp. 1067-1071. 
22. Proietti F A, Carneiro-Proietti A B, Catalan-Soares B C, Murphy E L. (2005) Global epidemiology of HTLV-1 infection and 
associated diseases. Oncogene; 24: 6058-6068. 
23. Seaton R. A. (1997). Tuberculosis and human T-cell lymphotropic virus type 1 infection. Clin Infect Dis No24; p.1026. 
24. Suarez Pedro Guillermo (2007), Association between HTLV-1 infection and pulmonary tuberculosis : another challenge for 
National Tuberculosis Program? Int J Tuberc Lung Dis 11 (10): 1048. 
25. Schluger N.W. (2000), “The impact of drug resistance on the global tuberculosis epidemic”, Int J Tuberc Lung Dis 4(2), 
pp.S71-S75. 
26. Verdonck K., González E., Henostroza G., Nabeta P., Llanos F., Cornejo H., Vanham G., Seas C., Gotuzzo E. (2007). HTLV-
1 infection is frequent among out-patients with pulmonary tuberculosis in northern Lima, Peru. Int J Tuberc Lung Dis 
11(10): 1066-1072. 
27. Whalen C., Okwera A., Johnson J., et al., (1996), “Predictors of survival in human immunodeficiency virus infected patients 
with pulmonary tuberculosis”, Am J Respir Crit Care Med 153, pp. 1997-1981 
28. World Health organization (1994), “Anti-tuberculosis drug resistance in the world. The WHO/IUATLD global project on 
anti-tuberculosis drug resistance surveillance”, Geneva WHO and IUATLD (Paris) WHO/TB/97.229. 
 405 
29. World Health Organization (2008), “Anti-tuberculosis drug resistance in the world-Fourth Global Report”. The World 
Health Organization / International Union Against Tuberculosis and Lung Disease (WHO/UNION). Global Project on 
Anti-Tuberculosis Drug Resistance surveillance 2002-2007, “WHO/HTM/TB/2008.394”. 
30. World Health Organization (2008), “Guidelines for the programmatic management of drug-resistant tuberculosis”. 
Emergency Update 2008, “WHO/HTM/TB/2008.402” 
31. Zunt J R, Rose A M, Peinado J, et al. (2006) Risk factors for HTLV-II infection in Peruvian men who have sex with them. 
Am J Trop Med Hyg; 74: 922-925. 

File đính kèm:

  • pdfkhang_thuoc_lao_va_ket_qua_dieu_tri_lao_o_doi_tuong_nghien_c.pdf