Kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm của người chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố tại phường An thạnh, thị xã Thuận an, tỉnh Bình dương năm 2013
Đặt vấn đề: An toàn thực phẩm (ATTP) là vấn đề mà người tiêu dùng hết sức quan tâm để đảm bảo sức khỏe trong đời sống hằng ngày. Phường An Thạnh có các cơ sở thức ăn đường phố (TAĐP) vì vậy nguy cơ các bệnh truyền qua thực phẩm có thể xảy ra là rất cao. Phường An Thạnh đã tổ chức nhiều hoạt động ATTP nhưng chưa có cơ sở để đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành của những người chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố tại phường.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP có kiến thức đúng, thái độ đúng, thực hành đúng về ATTP và các yếu tố liên quan của người chế biến, kinh doanh TAĐP tại phường An Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương năm 2013.
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả trên 126 người chế biến/bán TAĐP trên địa bàn phườngAn Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương từ tháng 4‐9/2013. Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi soạn sẵn để đánh giá kiến thức, thái độ kết hợp với quan sát để đánh giá thực hành của người chế biến. Kết quả: Tỷ lệ người chế biến có kiến thức đúng về ATTP là 77,8%, thái độ đúng về ATTP là 90,5%,và thực hành đúng về ATTP là 72,2%. Giữa kiến thức đúng và thực hành đúng có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p=0,003; PR=1,57; CI95%: 1,07‐2,31). Giữa thái độ đúng và thực hành đúng cũng có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p <0,001; pr="3,90;" ci95%:="" 1,15‐8,27).="" yếu="" tố="" được="" tập="" huấn="" có="" mối="" liên="" quan="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" với="" kiến="" thức="" đúng="" (p="0,04;" pr="1,22;" ci95%:="" 1,02‐1,45).="" đối="" với="" thái="" độ="" đúng,="" trình="" độ="" học="" vấn="" và="" được="" tập="" huấn="" là="" hai="" yếu="" tố="" có="" ảnh="" hưởng="" trong="" đó="" người="" có="" trình="" độ="" càng="" cao="" thì="" càng="" có="" thái="" độ="" đúng="" (p="">0,001;><0,001) và="" người="" được="" tập="" huấn="" sẽ="" có="" thái="" độ="" đúng="" cao="" gấp="" 1,14="" lần="" so="" với="" người="" không="" được="" tập="" huấn="" (p="0,03)." hai="" yếu="" tố="" này="" cũng="" là="" yếu="" tố="" có="" mối="" liên="" quan="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" với="" thực="" hành="" đúng="" (p="0,002" và="" p="0,001).">0,001)>
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù thái độ của người chế biến TAĐP cao nhưng kiến thức và thực hành về ATTP còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy chúng tôi đề xuất các ban ngành chức năng cần tăng cường công tác đào tạo cán bộ có chuyên môn chuyên ngành ATTP, thực hiện nghiêm công tác thẩm định, cấp thẻ kinh doanh TAĐP đúng quy định, tổ chức thanh kiểm tra thường xuyên, nhắc nhở và xử lý nếu có vi phạm. Bên cạnh đó cần thường xuyên truyền thông giáo dục kiến thức ATTP bằng nhiều hình thức (phát thanh, tờ rơi, áp‐phích, pano), tổ chức tập huấn kiến thức vệ sinh ATTP cho đối tượng kinh doanh TAĐP trên 90% tham gia, và tổ chức khám sức khỏe định kỳ tại phường xã đối với người kinh doanh TAĐP
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm của người chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố tại phường An thạnh, thị xã Thuận an, tỉnh Bình dương năm 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 41 KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM CỦA NGƯỜI CHẾ BIẾN, KINH DOANH THỨCĂN ĐƯỜNG PHỐ TẠI PHƯỜNG AN THẠNH, THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2013 Âu Văn Phương*, Nguyễn Thị Hiệp** TÓM TẮT Đặt vấn đề: An toàn thực phẩm (ATTP) là vấn đề mà người tiêu dùng hết sức quan tâm để đảm bảo sức khỏe trong đời sống hằng ngày. Phường An Thạnh có các cơ sở thức ăn đường phố (TAĐP) vì vậy nguy cơ các bệnh truyền qua thực phẩm có thể xảy ra là rất cao. Phường An Thạnh đã tổ chức nhiều hoạt động ATTP nhưng chưa có cơ sở để đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành của những người chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố tại phường. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP có kiến thức đúng, thái độ đúng, thực hành đúng về ATTP và các yếu tố liên quan của người chế biến, kinh doanh TAĐP tại phường An Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương năm 2013. Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả trên 126 người chế biến/bán TAĐP trên địa bàn phườngAn Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương từ tháng 4‐9/2013. Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi soạn sẵn để đánh giá kiến thức, thái độ kết hợp với quan sát để đánh giá thực hành của người chế biến. Kết quả: Tỷ lệ người chế biến có kiến thức đúng về ATTP là 77,8%, thái độ đúng về ATTP là 90,5%,và thực hành đúng về ATTP là 72,2%. Giữa kiến thức đúng và thực hành đúng có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p=0,003; PR=1,57; CI95%: 1,07‐2,31). Giữa thái độ đúng và thực hành đúng cũng có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p <0,001; PR = 3,90; CI95%: 1,15‐8,27). Yếu tố được tập huấn có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với kiến thức đúng (p = 0,04; PR = 1,22; CI95%: 1,02‐1,45). Đối với thái độ đúng, trình độ học vấn và được tập huấn là hai yếu tố có ảnh hưởng trong đó người có trình độ càng cao thì càng có thái độ đúng (p <0,001) và người được tập huấn sẽ có thái độ đúng cao gấp 1,14 lần so với người không được tập huấn (p=0,03). Hai yếu tố này cũng là yếu tố có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với thực hành đúng (p =0,002 và p =0,001). Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù thái độ của người chế biến TAĐP cao nhưng kiến thức và thực hành về ATTP còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy chúng tôi đề xuất các ban ngành chức năng cần tăng cường công tác đào tạo cán bộ có chuyên môn chuyên ngành ATTP, thực hiện nghiêm công tác thẩm định, cấp thẻ kinh doanh TAĐP đúng quy định, tổ chức thanh kiểm tra thường xuyên, nhắc nhở và xử lý nếu có vi phạm. Bên cạnh đó cần thường xuyên truyền thông giáo dục kiến thức ATTP bằng nhiều hình thức (phát thanh, tờ rơi, áp‐phích, pano), tổ chức tập huấn kiến thức vệ sinh ATTP cho đối tượng kinh doanh TAĐP trên 90% tham gia, và tổ chức khám sức khỏe định kỳ tại phường xã đối với người kinh doanh TAĐP. Từ khóa: kiến thức‐thái độ‐thực hành, người chế biến thức ăn đường phố. * Trung tâm Y tế thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương ** Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: Bs.CKI. Âu Văn Phương ĐT: 0918488001 Email:auvanphuong@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 42 ABSTRACT FOOD SAFETY KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE OF STREETFOOD HANDLERS/VENDORS IN AN THANH COMMUNE, THUAN AN TOWN, BINH DUONG PROVINCE Au Van Phuong, Nguyen Thi Hiep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 41 – 50 Background: Food safety has become a critical area of concerns for consumers. An Thanh commune has many streetfood vending sites/ street‐vended food enterprises, which may pose a high risk of food‐borne diseases. Therefore, it is crucial to assess food safety knowledge, attitude and practice of streetfood vendors / handlers. Objectives: To determine the proportion of streetfood vendors/handlers with good food safety knowledge, attitude, and practice and related factors. Methods: A cross‐sectional study was conducted in An Thanh commune, Thuan An town, Binh Duong province. 126 streetfood vendors / handlers were taken randomly. Data were collected by face‐to‐face interviews and observation by using a structured questionnaire and an observational checklist. Result: The proportions of streetfood vendors / handlers with good knowledge, attitude, and practice were 77.8%, 90.5%, and 72.2%, respectively. There was a stastically significant relationship between food safety knowledge and practice (p=0.003; PR = 1.57; 95%CI: 1.07‐2.31) and between food safety attitude and practice (p <0.001; PR=3.90; 95%CI: 1.15‐8.27). Receiving training in food safety was stastically associated with food safety knowledge (p=0.04; PR: 1.22; 95%CI: 1.02‐1.45). Receving food safety training and level of education were two factors affecting the attitude of subjects. Subjects with higher education levelor trained subjects had better attitude (p <0.001, p=0.03 respectively). These two factors were also factors affecting practice of the subjects (p =0.002, p =0.001respectively). Conclusion: The study showed that the attitude of the subjects was positive but the knowledge and practice were still limited. Local authorities should encourage food safety training activities for medical staff and streetfood vendors/handlers, strictly assess and approve streetfood trading licence, inspect more frequently, remind and fine unsafe streetfood vendors/enterprises. In addition, physical examination forstreetfood vendors/handlers should be considered. Keywords: food safety knowledge, attitude, practice, streetfood vendors/handlers. ĐẶT VẤN ĐỀ An toàn thực phẩm (ATTP) là vấn đề mà người tiêu dùng hết sức quan tâm để đảm bảo sức khỏe trong đời sống hằng ngày, nhằm đề phòng ngộ độc và những bệnh truyền qua thực phẩm (BTQTP) cũng như bảo đảm chất lượng dinh dưỡng trong khẩu phần ăn. Đây cũng là chương trình mục tiêu quốc gia được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên đến sức khỏe người dân, tác động đến sự phát triển kinh tế, xã hội. Hiện nay thức ăn đường phố góp phần không nhỏ trong các bữa ăn chính của những công nhân, cán bộ công chức hàng ngày vì các món ăn đa dạng, giá thành chấp nhận được và có rất nhiều địa điểm kinh doanh buôn bán trong từng phường, xã. Do đó việc bảo đảm chất lượng ATTP, phòng chống ngộ độc và bệnh truyền qua thực phẩm là yêu cầu cần thiết nhằm góp phần bảo vệ sức khỏe nhân dân, phát triển kinh tế ‐ xã hội và mở rộng quan hệ quốc tế. Theo số liệu báo cáo năm 2012, phường An Thạnh có 126 cơ sở chế biến, buôn bán TAĐP, đa số các cơ sở có quy mô nhỏ lẻ, một số cơ sở không đăng ký kinh doanh do thiếu điều kiện cơ sở vật chất, ô nhiễm môi trường, kiến thức, thái độ, hành vi của những người trực tiếp chế biến, kinh doanh thực phẩm còn hạn chế nên nguy cơ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 43 các bệnh truyền qua thực phẩm có thể xảy ra là rất cao. Trước yêu cầu đảm bảo an toàn thực phẩm TAĐP, phường An Thạnh đã thực hiện: tập huấn kiến thức về ATTP, khám sức khỏe định kỳ cho người làm dịch vụ, chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố; lập thủ tục, ký cam kết, cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP; truyền thông giáo dục sức khỏe về ATTP và BTQTP nhưng chưa có cơ sở để đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành của những người chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố tại phường. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP có kiến thức đúng, thái độ đúng, thực hành đúng về ATTP và các yếu tố liên quan của người chế biến, kinh doanh TAĐP tại phường An Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương năm 2013. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành từ tháng 4‐9/2013 tại phường An Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. Đối tượng của nghiên cứu là những người chế biến, kinh doanh TAĐP như: cửa hàng cố định, bao gồm: cửa hàng ăn, quán ăn, quán cà phê ‐ giải khát, quán rượu‐bia, cửa hàng bán bánh, bán thức ăn chín, bán hàng rong tại phường An Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. Tại mỗi cơ sở, chỉ chọn 01 người đang chế biến hoặc đang bán thức ăn >18 tuổi để trực tiếp phỏng vấn, nếu cơ sở có từ 2 người trở lên thì chọn bằng cách bốc thăm (đánh số 1,2,3 rồi rút ngẫu nhiên). Tại thời điểm khảo sát phường An Thạnh, có tổng cộng 126 cơ sở chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố, vì vậy cỡ mẫu dự trù cho nghiên cứu là 126. Vì tất cả các đối tượng đều đồng ý tham gia nghiên cứu do đó tổng mẫu thu được trong nghiên cứu này là 126. Bộ câu hỏi được thiết kế gồm 4 phần: đặc điểm chung của người chế biến (tuổi, giới, trình độ học vấn, tập huấn về ATTP), kiến thức về ATTP (24 kiến thức thành phần), thái độ về ATTP (4 thái độ thành phần), thực hành về ATTP (15 thực hành). Các kiến thức thành phần được đo lường bằng đúng sai, nếu người chế biến chọn đúng sẽ được 1 điểm, chọn sai được 0 điểm; nếu tổng điểm của 11 kiến thức thành phần ≥ 16 thì người chế biến có kiến thức đúng. Bốn thái độ thành phần cũng được đo lường bằng đúng sai, nếu đúng sẽ được 1 điểm và sai được 0 điểm; nếu người chế biến được 4 điểm thì xếp vào nhóm có thái độ đúng. Đối với thực hành, điều tra viên sẽ quan sát trực tiếp thực hành của người chế biến, nếu thực hành đúng sẽ được 1 điểm, nếu thực hành sai sẽ được 0 điểm; nếu tổng điểm ≥ 10 điểm thì người chế biến có thực hành đúng. Để xác định mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành, và các đặc điểm của người chế biến sử dụng kiểm định chi bình phương, tính tỉ số tỉ lệ hiện mắc (PR) với khoảng tin cậy 95%, 1 độ tự do với mức ý nghĩa 5%. KẾT QUẢ Đặc điểm của mẫu nghiên cứu Bảng 1:Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=126) Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu Tần số(n) Tỉ lệ (%) Nhóm tuổi 18-45 67 53,2 46- 60 59 46,8 Giới tính Nam 26 20,6 Nữ 100 79,4 Trình độ học vấn Cấp 1 45 35,7 Cấp 2 58 46 Cấp 3 trở lên 23 18,3 Được tập huấn Có 48 38,1 Không 78 61,9 Người chế biến, kinh doanh TAĐP có độ tuổi từ 18‐45 tuổi chiếm 53,2%, từ 46 đến 60 tuổi chiếm 46,8%. Người chế biến, kinh doanh TAĐP là nữ giới chiếm 79,4%, còn nam giới chỉ chiếm 20,6%. Trình độ học vấn của người chế biến, kinh doanh TAĐP có học vấn cấp 1 là 35,7%, cấp 2 là 46% và cấp 3 trở lên là 18,3%. Tỉ lệ người kinh doanh TAĐP không được tập huấn về VSATTP là 61,9%. Tỉ lệ người trực tiếp chế biến Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 44 kinh doanh được tập huấn kiến thức ATTP rất thấp chỉ chiếm 38,1%. Kiến thức về an toàn thực phẩm Bảng 2:Kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm (n=126) Kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm Tần số (n) Tỉ lệ (%) Tác nhân gây ô nhiễm thực phẩm Biết tác hại của ô nhiễm thực phẩm 108 85,7 Biết nguyên nhân gây ô nhiễm thực phẩm 111 88,1 Biết khoảng cách đến nguồn ô nhiễm an toàn (>5mét) 84 66,7 Biết cách chọn thực phẩm và nguồn nước sử dụng Biết chọn nguyên liệu thực phẩm 116 92,1 Biết chọn nguồn nước chế biến 37 29,4 Biết chọn nguồn nước rửa rau củ 60 47,6 Biết cách sử dụng nguồn nước 104 82,5 Biết cách bảo quản nước đá 102 81 Kiến thức đúng vệ sinh chế biến, dụng cụ Biết cách sơ chế thực phẩm 111 88,1 Biết cách chế biến thực phẩm 100 79,4 Biết nhiệt độ bảo quản thực phẩm chín 35 27,8 Biết sử dụng dụng cụ chế biến 95 75,4 Biết cách bảo quản thực phẩm chín 93 73,8 Biết cách bảo quản dụng cụ chế biến 49 38,9 Kiến thức về vệ sinh môi trường Biết cách xử lý nước thải 96 76,2 Biết cách xử lý chất thải 76 60,3 Sử dụng dụng cụ chứa thức ăn thừa 112 88,9 Vệ sinh đối với nhân viên phục vụ Biết cách rửa tay 103 81,8 Biết không để móng tay dài khi CBTP 123 97,6 Biết mắc bệnh nhiễm trùng không trực tiếp CBTP 119 94,4 Biết sử dụng dụng cụ gấp thức ăn 125 99,2 Không hút thuốc, khạc nhổ nơi CBTP 124 98,4 Khám sức khỏe định kỳ 1 năm/1 lần 64 50,8 Sử dụng trang phục bảo hộ lao động 125 99,2 Kiến thức đúng Có Không 98 28 77,8 22,2 Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết nguyên nhân gây NĐTP là 85,7%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết tác nhân gây ô nhiễm thực phẩm là 88,1%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết được khoảng cách từ nơi chế biến, kinh doanh thực phẩm cách xa nguồn ô nhiễm trên 5 mét là 66,7%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết chọn nguyên liệu thực phẩm tươi sống là 92,1%, biết chọn nguồn nước chế biến hợp vệ sinh là 29,4%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết chọn đúng nguồn nước rửa dụng cụ, rau quả, thực phẩm là 47,6%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết cách sử dụng nguồn nước là 82,5%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết cách lưu giữ nước đá hợp vệ sinh là 81%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết cách sơ chế thực phẩm không nên để trên sàn nhà là 88,1%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết cách xử lý và chế biến thực phẩm là 79,4%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết nhiệt độ trên 600oC dùng để bảo quản thức ăn nóng là 27,8%. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 45 75,4% người chế biến, kinh doanh TAĐP biết cách sử dụng dụng cụ chế biến hợp vệ sinh. 73,8% người chế biến, kinh doanh TAĐP biết bảo quản thức ăn chín đã chế biến đạt yêu cầu. 38,9% người người chế biến, kinh doanh TAĐP biết cách xử lý dụng cụ ăn uống hợp vệ sinh. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết nước rửa, nước thải được đưa vào cống, hố ga thoát nước là 76,2%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết giấy lau, xương phải chứa trong giỏ rác có nắp đậy là 60,3%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết thức ăn thừa được chứa trong các dụng cụ chuyên biệt là 88,9%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết cách rửa tay đúng là 81,8%. Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP biết khi chế biến, bán hàng phải cắt ngắn móng tay hợp vệ sinh 97,6%. 94,4% người chế biến, kinh doanh TAĐP biết khi có các triệu chứng sốt, ho, tiêu chảy, vết thương ở tay không nên chế biến thực phẩm. 99,2% người chế biến, kinh doanh TAĐP biết cách bốc nắm thực phẩm hợp vệ sinh. 98,4% người chế biến, kinh doanh TAĐP không hút thuốc lá, khạc nhổ trong khu vực chế biến và nơi bán thức ăn đúng. 50,8% người chế biến, kinh doanh TAĐP biết người chế b ... 57 Không 14 (50) 14(50) (1,07-2,31) Người chế biến, kinh doanh TAĐP có kiến thức đúng có tỉ lệ thực hành đúng cao gấp 1,57 (KTC 95: 1,07‐2,31) lần những người không có kiến thức đúng. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,003 < 0,05). Bảng 6:Mối liên quan giữa thái độ và thực hành của người chế biến (n=126) Thái độ đúng Thực hành đúng p PR KTC 95% Có n(%) Không n(%) Có 88(77,2) 26(22,8) <0,001 * 3,09 Không 3(25) 9(75) (1,15-8,27) *Kiểm định Fisher Người chế biến, kinh doanh TAĐP có thái độ đúng thì có tỉ lệ thực hành đúng cao gấp 3,09 (KTC 95%: 1,15‐8,27) lần người chế biến, kinh doanh TAĐP có thái độ không đúng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Mối liên quan giữa các đặc điểm chung và kiến thức, thái độ, thực hành của người chế biến Bảng 7:Mối liên quan giữa kiến thức đúng với đặc tính dân số họccủa người kinh doanh TAĐP (n=126) Đặc tính dân số học Kiến thức đúng p PR KTC 95% Có n(%) Không n(%) Tuổi 18-45 53(79,1) 14(20,9) 0,7 1,04 46-60 45(76,3) 14(23,7) (0,86-1,25) Giới Nam 21(80,8) 5(19,2) 0,68 1,05 Nữ 77(77) 23(23) (0,85-1,3) Trình độ Cấp 1 35(77,8) 10(22,2) 1 Cấp 2 44(75,9) 14(24,1) 0,82 0,98 (0,79-1,21) Cấp 3 trở lên 19(82,6) 4(17,4) 0,63 1,06 (0,83-1,36) Được tập huấn Có 42(87,5) 6(12,5) 0,04 1,22 Không 56(71,8) 22(28,2) (1,02-1,45) Người chế biến, kinh doanh TAĐP có độ tuổi từ 18‐45 tuổi có tỉ lệ kiến thức đúng bằng 1,04 (KTC 95%: 0,86‐1,25) lần người chế biến, kinh doanh TAĐP có độ tuổi từ 46 đến 60 tuổi. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,7>0,05). Người chế biến, kinh doanh TAĐP là nam giới có tỉ lệ kiến thức đúng bằng1,05 (KTC 95%: 0,85‐1,3) lần người Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 47 chế biến, kinh doanh TAĐP là nữ giới. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,68>0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê về tỉ lệ kiến thức đúng ở các nhóm trình độ khác nhau(p>0,05). Người chế biến, kinh doanh TAĐP được tập huấn có tỉ lệ kiến thức đúng cao gấp 1,22 (KTC 95%: 1,02‐ 1,45) lần những người không được tập huấn. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,04<0,05). Bảng 8: Mối liên quan giữa thái độ đúng với đặc tính dân số họccủa người chế biến, kinh doanh TAĐP (n=126) Đặc tính dân số học Thái độ đúng p PR (KTC 95%) Có n (%) Không n (%) Tuổi 18-45 61(91) 6(9) 0,82 1,01 (0,9- 1,14) 46- 60 53(89,8) 6(10,2) Giới Nam 23(88,5) 3(11,5) 0,7* 0,97 (0,84- 1,13) Nữ 91(91) 9(9) Trình độ học vấn Cấp 1 40(88,9) 5(11,1) 1 Cấp 2 52(89,7) 6(10,3) <0,001 1,003 Cấp 3 trở lên 22(95,7) 1(4,3) <0,001 1,02 Được tập huấn Có 47(97,9) 1(2,1) 0,03* 1,14 (1,03- 1,26) Không 67(85,9) 11(14,1) *Kiểm định Fisher Những người chế biến, kinh doanh TAĐP có tuổi từ 18‐45 tuổi có tỉ lệ thái độ đúng bằng 1,01 (KTC 95%: 0,9‐1,14) lần người chế biến, kinh doanh TAĐP từ 46 đến 60 tuổi. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,82>0,05). Nhữngngười chế biến, kinh doanh TAĐP là nam giới có tỉ lệ thái độ đúng bằng 0,97 (KTC 95%: 0,84‐1,13) lần nữ giới. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,7>0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ thái độ đúng ở các trình độ học vấn khác nhau (p< 0,001). Những người có học tập huấn có tỉ lệ thái độ đúng cao gấp 1,14 (KTC 95%: 1,03‐1,26) lần những người không được tập huấn. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,03<0,05). Bảng 9:Mối liên quan giữa thực hành đúng với đặc tính dân số họccủa người chế biến, kinh doanh TAĐP (n=126) Đặc tính dân số học Thực hành đúng p PR (KTC 95%)Có n(%) Không n(%) Tuổi 18-45 53(79) 14(20,9) 0,07 1,23 (0,98-1,54)46-60 38(64,4) 21(35,6) Giới Nam 18(69,2) 8(30,8) 0,7 0,95 (0,71-1,26)Nữ 73(73) 27(27) Trình độ học vấn Cấp 1 30(66,7) 15(33,3) 1 Cấp 2 41(70,7) 17(29,3) 0,002 0,77(0,65-0,91) Cấp 3 trở lên 20(87) 3(13) // 1,09(//) Được tập huấn Có 43(89,6) 5(10,4) 0,001 1,46 (1,19-1,78)Không 48(61,5) 30(38,5) Người chế biến, kinh doanh TAĐP có độ tuổi từ 18 đến 45 tuổi có tỉ lệ thực hành đúng bằng 1,23 (KTC 95%: 0,98‐1,54) lần những người từ 46 đến 60 tuổi. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,07>0,05). Người chế biến, kinh doanh TAĐP là nam giới có tỉ lệ thực hành đúng bằng 0,95 (KTC 95%: 0,71‐1,26) lần người người chế biến, kinh doanh TAĐP nữ giới. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,7>0,05). Ở người chế biến, kinh doanh TAĐP có trình độ cấp 2 có tỉ lệ thực hành đúng bằng 0,77 (KTC 95%: 0,65‐0,91) lần người người chế biến, kinh doanh TAĐP có trình độ học vấn cấp 1. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,002<0,05). Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa người có trình độ học vấn cấp 3 trở lên và cấp 1. Những người có tham gia tập huấn có tỉ lệ thực hành đúng cao gấp 1,46 (KTC 95: 1,19‐1,78) lần những người không tham gia tập huấn. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,001<0,05). BÀN LUẬN Các đặc điểm dân chung của mẫu nghiên cứu Trong nghiên cứu này nữ giới chiếm đa số (79,4%) và độ tuổi cũng tương đối trẻ (độ tuổi từ 18 ‐ 45 tuổi chiếm 53,2%). Đây chính độ tuổi lao Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 48 động có sức khỏe đảm đương công việc, là độ tuổi có kinh nghiệm trong việc làm ăn buôn bán, là lao động chính trong gia đình. Bên cạnh đó công việc chế biến, bán thức ăn là một ngành nghề mang tính nội trợ, do đó thích hợp với phụ nữ hơn nam giới. Trình độ học vấn của người chế biến chủ yếu là cấp I và cấp II trong đó cấp II chiếm đến 46%. Với trình độ như vậy, nên nhiều người chế biến sẽ hạn chế kiến thức về vệ sinh thường thức. Tỉ lệ người chế biến kinh doanh TAĐP có tập huấn kiến thức là 38,1%, cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Tống Văn Đản tại 3 huyện trọng điểm phía nam tỉnh Bình Dương năm 2005 (11,3%)(4). Tuy nhiên số người hiện chưa được tập huấn kiến thức về ATTP còn chiếm khá cao. Kết quả cho thấy, vấn đề về an toàn thực phẩm trong chế biến, kinh doanh còn nhiều hạn chế. Kiến thức về an toàn thực phẩm của người chế biến kinh doanh TAĐP Trong 24 nội dung kiến thức về ATTP, nhiều nội dung kiến thức đúng đạt từ 76,2% đến 99,2%, còn lại những nội dung kiến thức đúng chỉ chiếm từ 27,8% đến 60,3%. Chính điều này dẫn đến kiến thức ATTP chung đúng đạt tỉ lệ là 77,8%. Theo Thông tư số 15/2012/TT‐BYT(1), Thông tư số 30/2012/TT‐BYT ngày 05/12/2012 của BYT(3), Thông tư số 26/2012/TT‐BYT ngày 30/11/2012(2) ban hành chặt chẽ, cụ thể, quy định về điều kiện ATTP đối với TAĐP phải được cơ quan quản lý cấp thẻ kinh doanh thì mới đủ điều kiện hoạt động. Tuy nhiên qua nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP không được tập huấn kiến thức ATTP còn nhiều do đó họ không nắm vững kiến thức về ATTP là điều dễ hiễu. Ngoài ra kết quả này còn cho thấy công tác truyền thông, tập huấn ATTP tại địa phương trong thời gian qua vẫn chưa hiệu quả. Thái độ về an toàn thực phẩm của người chế biến kinh doanh TAĐP Nhìn chung, kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết người chế biến kinh doanh TAĐP đều có thái độ đúng về việc đảm bảo ATTP. Đây là tín hiệu tốt trong việc thực hiện các quy định của nhà nước về quy định ATTP đối với thức ăn đường phố. Tuy nhiên vẫn còn một số ít người có thái độ chưa tốt (9,5%), điều này cho thấy việc chế biến, kinh doanh TAĐP mang tính thời vụ, cơ sở không cố định, đôi khi lấn chiếm lòng lề đường vi phạm an toàn giao thông. Người buôn bán gồm nhiều thành phần xã hội, nhiều địa phương khác nhau đến đây sinh sống, buôn bán thức ăn đường phố chỉ tạm thời khi chưa có việc làm thích hợp. Với những yếu tố không thuận lợi như trên có thể họ ngưng hoạt động bất cứ lúc nào không lường trước được, cho nên có thái độ chưa đúng về đảm bảo ATTP theo quy định, đối với thức ăn đường phố. Thực hành về an toàn thực phẩm của người chế biến kinh doanh TAĐP Tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP thực hành đúng về ATTP đạt 72,2%. Tỉ lệ đạt tương đối cao bởi vì việc thực hành đúng của người chế biến, kinh doanh TAĐP không chỉ đòi hỏi có nhận thức đúng mà còn có những yếu tố không kém phần quan trọng khác tác động đến, chẳng hạn, đó là thái độ chấp hành những quy định về ATTP; mà còn là điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ, điều kiện về con người, điều kiện kinh tế, điều kiện văn hóa xã hội, mỹ quan đô thị và một số thủ tục hành chánh bắt buộc để thực hiện đúng quy định theo thông tư của Bộ Y Tế cũng như quy định của UBND tỉnh Bình Dương về kinh doanh, buôn bán thức ăn đường phố. Ngoài ra, công tác quản lý, kiểm tra, nhắc nhở, hướng dẫn, giúp đỡ và xử lý các trường hợp vi phạm ATTP tại địa phương sẽ góp phần tác động đến tỉ lệ thực hành đúng của những người chế biến, kinh doanh TAĐP ngày càng tốt hơn. Tỉ lệ thực hành đúng cao hơn nghiên cứu của Trương Ngọc Toàn năm 2006 (28,21%) do nghiên cứu của Trương Ngọc Toàn có kiến thức chung thấp (27,35%) kéo theo thực hành đúng của họ cũng thấp(5). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 49 Mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành của người chế biến kinh doanh thực phẩm Kết quả phân tích cho thấy người có kiến thức đúng có tỉ lệ thực hành đúng cao hơn so với người không có kiến thức đúng về ATTP. Điều này chứng minh rằng nếu người chế biến kinh doanh thức ăn đường phố hiểu rõ những quy định của nhà nước về văn bản hướng dẫn, hiểu rõ các vấn đề về ATTP, chất lượng thực phẩm, các mối nguy mà thực phẩm có thể gây bệnh sẽ dẫn đến việc thực hành đúng. Người chế biến, kinh doanh TAĐP có thái độ đúng có tỉ lệ thực hành đúng cao hơn những người không có thái độ đúng do những người có thái độ tốt sẽ ý thức được và sẵn sàng chấp nhận thực hiện những quy định về vệ sinh ATTP đúng với những quy định mà nhà nước đề ra nhằm đảm bảo sức khỏe cho khách hàng khi ăn tại các cơ sở chế biến, kinh doanh TAĐP của mình và tăng thu nhập. Mối liên quan giữa kiến thức đúng, thái độ đúng, thực hành đúng với đặc tính dân số học của người chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố Người được tập huấn sẽ có kiến thức đúng về ATTP cao hơn so với người không được tập huấn. Điều này cho thấy người chế biến, kinh doanh TAĐP học tập huấn ATTP có kiến thức đúng cao hơn người không được tập huấn. Do đó việc tham gia tập huấn ATTP là rất cần thiết để nâng cao kiến thức đúng. Người chế biến, kinh doanh TAĐP được tập huấn có tỉ lệ thái độ đúng cao hơn người không được tập huấn. Do những người được tập huấn họ có kiến thức đúng về ATTP từ đó thái độ đúng của người chế biến, kinh doanh TAĐP sẽ tốt hơn. Người có trình độ học vấn cấp 2 có tỉ lệ thực hành đúng thấp hơn người có học vấn cấp 1. Có thể do những người chế biến, kinh doanh TAĐP học vấn cấp 1 ở độ tuổi cao hơn nên họ có nhiều kinh nghiệm kinh doanh để thu hút khách hàng mà cụ thể là thực hành tốt hơn ở những người trẻ tuổi. Người chế biến, kinh doanh TAĐP được tập huấn có tỉ lệ thực hành đúng cao hơn người không được tập huấn. Do người chế biến, kinh doanh TAĐP được tập huấn ATTP sẽ có kiến thức đúng cao hơn người không được tập huấn. Một khi có kiến thức đúng họ sẽ biết được những điều nên làm và không nên làm mà thực hành sao cho đúng quy định của nhà nước đối với người chế biến, kinh doanh TAĐP. KẾT LUẬN Nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP có kiến thức đúng đạt 77,8%, tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP có thái độ đúng về ATTP đạt 90,5%, tỉ lệ người chế biến, kinh doanh TAĐP có thực hành đúng đạt 72,2%. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có kiến thức và thái độ đúng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến thực hành của người chế biến, kinh doanh TAĐP. Ngoài ra thực hành, kiến thức và thái độ của người chế biến chịu ảnh hưởng của trình độ học vấn, và được tập huấn hay không. Đây có thể nói là hai yếu tố quan trọng có thể tác động thông qua tập huấn ATTP từ đó nâng cao được kiến thức thái độ thực hành của người chế biến. KIẾN NGHỊ Từ thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành ATTP của người chế biến, kinh doanh TAĐP tác giả nghiên cứu đưa ra kiến nghị như sau: (1) Tăng cường đào tạo cán bộ có chuyên môn chuyên ngành ATTP; (2) Thường xuyên truyền thông giáo dục kiến thức ATTP bằng nhiều hình thức (phát thanh, tờ rơi, áp‐phích, pano); (3) Tổ chức tập huấn kiến thức vệ sinh ATTP cho đối tượng kinh doanh TAĐP trên 90% tham gia; (4) Tổ chức khám sức khỏe định kỳ tại phường xã đối với người kinh doanh TAĐP; (5) Thực hiện nghiêm công tác thẩm định, cấp thẻ kinh doanh TAĐP đúng quy định; (6) Tổ chức thanh kiểm tra thường xuyên, nhắc nhở và xử lý nếu có vi phạm. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2012). Thông tư số 15/2012/TT‐BYT ban hành ngày 12 tháng 9 năm 2012 quy định chung về điều kiện bảo đảm ATTP đối với cơ sở sản xuất. kinh doanh thực phẩm. Tr. 1‐3 2. Bộ Y tế (2012). Thông tư số 26/2012/TT‐BYT ban hành ngày ngày 30 tháng 11 năm 2012 quy định cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Tr. 4‐6 3. Bộ Y tế (2012). Thông tư số 30/2012/TT‐BYT ban hành ngày 05 tháng 12 năm 2012 của quy định về điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống và kinh doanh thức ăn đường phố. Tr. 2‐4 4. Tống Văn Đản và cộng sự (2005). Thực trạng vệ sinh thức ăn đường phố và kiến thức. thực hành của những người bán hàng tại 3 huyện. thị trọng điểm phía nam tỉnh Bình Dương năm 2005. Kỷ yếu Y tế tỉnh Bình Dương 2006. Tr. 56‐78. 5. Trương Ngọc Toàn (2006). Kiến thức về thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm ở người chế biến thức ăn đường phố tại phường 13 quận Bình Thạnh. TP.HCM năm 2006. Luận văn chuyên khoa cấp 1. Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Tr. 76‐78. Ngày nhận bài báo: 5/5/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 9/6/2014 Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
File đính kèm:
- kien_thuc_thai_do_thuc_hanh_ve_ve_sinh_an_toan_thuc_pham_cua.pdf