Kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan về sử dụng thuốc kháng sinh của người dân phường Phú diễn, quận bắc Từ liêm, Hà Nội

Thuốc đóng vai trò không thể thiếu trong công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe người

dân, vì thế thuốc phải được sử dụng một cách an toàn, hợp lý, nhất là thuốc kháng sinh. Mục tiêu:

Mô tả kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan về sử dụng thuốc kháng sinh của người dân

trên địa bàn phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Phương pháp: Nghiên cứu

mô tả cắt ngang với 267 hộ gia đình tại địa bàn phường Phú Diễn, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, từ tháng

3 đến tháng 5 năm 2018. Kết quả: 67,8% người dân có kiến thức tốt và 42,6% người dân có thực

hành tốt về sử dụng thuốc kháng sinh. Yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành sử dụng thuốc

kháng sinh: Giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hộ gia đình có con nhỏ.

pdf 6 trang dienloan 3580
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan về sử dụng thuốc kháng sinh của người dân phường Phú diễn, quận bắc Từ liêm, Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan về sử dụng thuốc kháng sinh của người dân phường Phú diễn, quận bắc Từ liêm, Hà Nội

Kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan về sử dụng thuốc kháng sinh của người dân phường Phú diễn, quận bắc Từ liêm, Hà Nội
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 194(01): 35 - 40 
 Email: jst@tnu.edu.vn 35 
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
VỀ SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG SINH CỦA NGƯỜI DÂN PHƯỜNG PHÚ DIỄN, 
QUẬN BẮC TỪ LIÊM, HÀ NỘI 
Nguyễn Thị Hải Hà1*, Trần Thị Thanh Huệ2, Đinh Xuân Bách2 
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định, 
 2Trường Đại học Thăng Long Hà Nội 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Thuốc đóng vai trò không thể thiếu trong công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe người 
dân, vì thế thuốc phải được sử dụng một cách an toàn, hợp lý, nhất là thuốc kháng sinh. Mục tiêu: 
Mô tả kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan về sử dụng thuốc kháng sinh của người dân 
trên địa bàn phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Phương pháp: Nghiên cứu 
mô tả cắt ngang với 267 hộ gia đình tại địa bàn phường Phú Diễn, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, từ tháng 
3 đến tháng 5 năm 2018. Kết quả: 67,8% người dân có kiến thức tốt và 42,6% người dân có thực 
hành tốt về sử dụng thuốc kháng sinh. Yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành sử dụng thuốc 
kháng sinh: Giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hộ gia đình có con nhỏ. 
Từ khóa: kiến thức, thực hành, thuốc kháng sinh, Phú Diễn, Hà Nội 
Ngày nhận bài: 07/11/2018; Ngày hoàn thiện: 29/11/2018; Ngày duyệt đăng: 31/01/2019 
KNOWLEDGE, PRACTICE AND SOME FACTORS 
RELATED TO THE ANTIBIOTIC USE OF THE PEOPLE'S 
IN PHU DIEN WARD, BAC TU LIEM DISTRICT, HANOI 
Nguyen Thi Hai Ha
1*
, Tran Thi Thanh Hue
2
, Dinh Xuan Bach
2 
1Nam Dinh University of Nursing, 2Thang Long University 
ABSTRACT 
Rationale: Medicine plays an indispensable role in caring and protecting people's health, so 
medicine has to be used safely, correctly, especially antibiotics. Objectives: Describe the 
knowledge, practice and some factors related to the use of antibiotics of the inhabitants in Phu 
Dien ward, Bac Tu Liem district, Hanoi. Methods: A descriptive cross-sectional study with 267 
households in Phu Dien ward, Bac Tu Liem district, Hanoi from March to May 2018. Results: 
67.8% of whom have good knowledge and 42.6% of whom have good practice in using 
antibiotics. The factors related to knowledge and practice of antibiotic use include: sex, education 
background, occupation, household with children. 
Key words: knowledge, practice, antibiotics, Phu Dien, Ha Noi 
Received: 07/11/2018; Revised: 29/11/2018; Approved: 31/01/2019 
* Corresponding author: Tel: 0979 721682, Email: hasinhvat@gmail.com
Nguyễn Thị Hải Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 35 - 40 
 Email: jst@tnu.edu.vn 36 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thuốc đóng vai trò không thể thiếu trong 
công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe người 
dân, tuy nhiên cần phải lưu ý đặc biệt khi sử 
dụng thuốc vì nó có thể có tác động tiêu cực 
tới sức khỏe và tính mạng con người. Chính 
vì thế, thuốc phải được sử dụng một cách an 
toàn, hợp lý, nhất là thuốc kháng sinh. Hiện 
nay, tình trạng kháng kháng sinh, các tai biến 
do sử dụng thuốc ngày càng tăng, các kháng 
sinh thông dụng hầu như đã không còn tác 
dụng với một số vi khuẩn thông thường. 
Ở Việt Nam, thị trường thuốc rất phong phú 
nhưng chưa được quản lý chặt chẽ, tình trạng 
kháng kháng sinh gia tăng còn do việc dùng 
kháng sinh không qua bác sỹ kê đơn và không 
đúng cách. Một nguyên nhân khác đó là việc 
tự ý mua và sử dụng thuốc của người dân, đây 
là hiện tượng khá phổ biến và rất đáng báo 
động hiện nay. Một nghiên cứu nhiễm khuẩn 
hô hấp cấp tính tại khoa nhi Bệnh viện Đa 
khoa Thái Nguyên cho thấy có 71% bệnh 
nhân đã sử dụng kháng sinh trước khi đến 
bệnh viện, trong số đó có 28% tự mua kháng 
sinh [2]. Hơn nữa việc bán thuốc kê đơn mà 
không có đơn còn phổ biến, chế tài xử phạt 
vi phạm chưa đủ sức răn đe, công tác hậu 
kiểm còn nhiều hạn chế, số lượng nhà thuốc 
quá lớn trên địa bàn với cơ cấu nhân lực của 
cơ quan quản lý còn chưa chặt chẽ cũng là 
một trong những khó khăn dẫn đến hiện 
tượng trên. 
Để tìm hiểu kiến thức và thực hành sử dụng 
thuốc kháng sinh của người dân, từ đó góp 
phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng, tính 
an toàn và tiết kiệm trong sử dụng thuốc kháng 
sinh chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu 
với mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức, thực 
hành và một số yếu tố liên quan về sử dụng 
thuốc kháng sinh của người dân phường Phú 
Diễn, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu 
Chủ hộ gia đình hoặc người quyết định việc 
sử dụng thuốc cho các thành viên trong hộ gia 
đình tại phường Phú Diễn, quận Bắc Từ 
Liêm, thành phố Hà Nội từ tháng 3/2018 đến 
tháng 5/2018. 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang có phân tích 
Cỡ mẫu và chọn mẫu nghiên cứu 
Cỡ mẫu được tính toán dựa vào công thức 
ước tính cho tỷ lệ: 
Trong đó: : Mức ý nghĩa. Z(1-α/2): Hệ số 
tin cậy ứng với độ tin cậy 95%; Z(1- α/2)= 1,96. 
p: Tỷ lệ ước lượng đối tượng nghiên cứu có 
thực hành chưa đúng về sử dụng thuốc kháng 
sinh. Chọn p = 0,5 để cho p(1-p) lớn nhất. d: Sai 
số cho phép là 0,06. Thay các giá trị vào công 
thức ta tính được cỡ mẫu là n= 267. 
Thực tế chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn 267 
hộ gia đình trên địa bàn nghiên cứu. 
Phương pháp chọn mẫu: 
Chủ định chọn phường Phú Diễn - Hà Nội. 
Chọn hộ gia đình: Theo phương pháp cổng 
liền cổng. Chọn đối tượng phỏng vấn: Người 
quyết định việc sử dụng thuốc cho các thành 
viên trong hộ gia đình. 
Thu thập thông tin 
- Phương pháp thu thập dữ liệu: Phỏng vấn 
đối tượng bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn 
- Xử lý số liệu: Làm sạch số liệu bằng phần 
mềm Epidata 3.1. Sử dụng phần mềm SPSS 
22.0 để phân tích số liệu. 
Nguyễn Thị Hải Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 35 - 40 
 Email: jst@tnu.edu.vn 37 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Thực trạng kiến thức, thực hành của người dân về sử dụng thuốc kháng sinh 
Bảng 1. Kiến thức của người dân về sử dụng thuốc kháng sinh 
Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%) 
Nguồn cung cấp 
thông tin 
Bác sĩ/dược sỹ tại các cơ sở y tế 38 14,2 
Người bán thuốc 191 71,5 
Internet, báo chí, tivi 114 42,7 
Người xung quanh, người thân 95 35,6 
Tác dụng của thuốc kháng 
sinh 
Các bệnh nhiễm trùng 104 39 
Sốt 200 74,9 
Cảm cúm, ho 212 79,4 
Đau đầu, mệt mỏi 41 15,4 
Độ dài 1 đợt điều trị 
Dưới 5 ngày 9 33,5 
Từ 5 đến 7 ngày 123 45,9 
Trên 7 ngày 11 4,1 
Không biết 42 15,8 
Khi sử dụng thuốc không đỡ 
Đổi kháng sinh khác 82 30,7 
Tăng liều dùng 70 26,2 
Đi khám lại 47 17,6 
Hỏi người bán thuốc/bác sỹ 77 28,8 
Hỏi người xung quanh 9 3,4 
Không biết 9 3,4 
Đối tượng cần lưu ý khi sử 
dụng thuốc kháng sinh 
Trẻ em 145 54,3 
Người già 90 33,8 
Phụ nữ có thai và cho con bú 131 49,2 
Người bị bệnh gan, thận 172 64,4 
Người có cơ địa dị ứng kháng sinh 21 7,9 
Không biết 75 28,1 
Kết quả cho thấy 71,5% đối tượng nghiên cứu biết về thông tin của thuốc kháng sinh đến từ 
người bán thuốc; 45,9% đối tượng nghiên cứu nghĩ độ dài một đợt điều trị là từ 5-7 ngày; 79,4% 
cho rằng kháng sinh có thể chữa cảm cúm, ho và 15,4% đối tượng cho biết kháng sinh có thể 
dùng khi thấy đau đầu, mệt mỏi; 30,7% đổi kháng sinh khác khi dùng thuốc không đỡ, trong khi 
26,2% đối tượng cho rằng nên tăng liều dùng; 54,3% người dân biết đối tượng cần lưu ý khi sử 
dụng thuốc kháng sinh là trẻ em. 
Đánh giá tình hình kiến thức về sử dụng thuốc kháng sinh 
Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức chung về sử dụng thuốc kháng sinh tốt chưa cao 86/267 
(32,2%), có kiến thức tốt đạt 181/267 (67,8%). 
Bảng 2. Thực hành sử dụng thuốc kháng sinh của người dân 
Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%) 
Sử dụng thuốc kháng sinh 
theo đơn được kê từ ai 
Theo chỉ định của bác sỹ/thầy thuốc 118 44 
Theo kinh nghiệm của bản thân hoặc người xung quanh 149 56 
Địa điểm mua thuốc 
Nhà thuốc bán lẻ tư nhân 51 19 
Nhà thuốc tại các cơ sở y tế 216 81 
Kiểm tra thông tin khi mua 
thuốc 
Có thói quen kiểm tra 123 46 
Không có thói quen kiểm tra 144 54 
Ở bảng 2 cho thấy có đến 56% đối tượng nghiên cứu sử dụng thuốc kháng sinh theo kinh nghiệm 
của bản thân hoặc người xung quanh. Đa số người dân (81%) mua thuốc tại các nhà thuốc bán lẻ 
tư nhân trong khi đó tỷ lệ đối tượng nghiên cứu mua thuốc tại các nhà thuốc tại cơ sở y tế chỉ có 
19%. Hơn nữa khi mua thuốc chỉ có 46% người dân có thói quen kiểm tra thông tin về loại kháng 
sinh mình mua. 
Nguyễn Thị Hải Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 35 - 40 
 Email: jst@tnu.edu.vn 38 
Đánh giá tình hình thực hành sử dụng thuốc kháng sinh 
Có 42,6% đối tượng thực hành sử dụng kháng sinh tốt và thực hành sử dụng kháng sinh chưa tốt 
là 57,4%. 
Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành sử dụng thuốc kháng sinh 
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức sử dụng thuốc kháng sinh 
Biến độc lập 
Chưa tốt Tốt 
OR (95%CI) p 
Số lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
Giới tính 
 Nam 99 83,2 20 16,8 4,03 
(2,25-7,2) 
<0,05 
 Nữ 81 55,1 66 44,9 
Trình độ học vấn 
 Dưới THPT 45 90 5 10 5,36 
(2,04-14,06) 
<0,05 
 Từ THPT trở lên 136 62,7 81 37,3 
Nghề nghiệp 
 Không phải cán bộ viên chức 147 75,8 47 24,2 3,59 
(2,04-6,31) 
<0,05 
 Cán bộ viên chức 34 46,6 39 53,4 
Hộ gia đình có trẻ dưới 5 tuổi 
 Không 142 78 40 22 4,18 
(2,41-7,28) 
<0,05 
 Có 39 45,9 46 54,1 
Kết quả tại bảng 3 cho thấy có 3 yếu tố liên quan đến kiến thức sử dụng thuốc kháng sinh của đối 
tượng nghiên cứu: Trình độ học vấn, nghề nghiệp, hộ gia đình có trẻ dưới 5 tuổi. 
Bảng 4. Một số yếu tố liên quan đến thực hành sử dụng thuốc kháng sinh 
Biến độc lập 
Chưa tốt Tốt 
OR (95%CI) p 
Số lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
Số lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
Hộ gia đình có trẻ dưới 5 tuổi 
 Không 24 64,9 13 35,1 4,3 
(1-19,53) 
<0,05 
 Có 3 30 7 70 
Số thành viên trong gia đình 
 Từ 4 người trở xuống 21 70 9 30 5,13 
(1,38-19,11) 
<0,05 
 Trên 4 người 5 31,2 11 68,8 
Ở bảng 4 thấy có 2 yếu tố liên quan đến thực hành sử dụng thuốc kháng sinh của người dân: Hộ 
gia đình có trẻ dưới 5 tuổi và số lượng thành viên trong gia đình. 
BÀN LUẬN 
Kiến thức, thực hành của người dân về sử 
dụng thuốc kháng sinh 
Trong kết quả nghiên cứu này, tỷ lệ đối tượng 
nghiên cứu có được thông tin từ người bán 
thuốc chiếm 71,5%, từ bác sĩ lại thấp hơn rất 
nhiều (14,2%), kèm theo đó khi được hỏi thì 
thấy có 81% người dân mua thuốc tại các nhà 
thuốc bán lẻ tư nhân, chỉ có 19% là mua 
thuốc tại các nhà thuốc thuộc cơ sở y tế. Kết 
quả này cũng tương đồng với khảo sát của Bộ 
Y tế về việc bán thuốc kháng sinh không có 
đơn ở thành thị là 88% [1]. Khi khảo sát kiến 
thức về tác dụng của kháng sinh thì thấy có 
39% đối tượng nghiên cứu nghĩ rằng thuốc 
kháng sinh dùng để điều trị các bệnh nhiễm 
trùng, kết quả này gần giống với kết quả của 
Trịnh Ngọc Quang (2006) [4] là 42,2%. 
Nhưng vẫn có 79,4% đối tượng nghiên cứu 
cho rằng kháng sinh có thể chữa cảm cúm, ho 
và 15,4% đối tượng nghiên cứu cho rằng 
kháng sinh có thể dùng khi mệt mỏi. Điều này 
cho thấy vẫn có người dân nhận thức sai khi 
cho rằng kháng sinh có thể điều trị một số 
bệnh do virut gây ra như ho, sốt, cảm cúm, 
đau đầu. Một yếu tố khác cũng rất quan trọng 
Nguyễn Thị Hải Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 35 - 40 
 Email: jst@tnu.edu.vn 39 
và là nguy cơ lớn đối với hiện tượng kháng 
kháng sinh là thời gian sử dụng thuốc. Qua 
điều tra thấy có 45,9% người dân dùng kháng 
sinh từ 5 đến 7 ngày trong một đợt điều trị, 
kết quả này tương đương với nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Quỳnh Trang (2013) [6] là 
(45,3%) và Nguyễn Văn Tiến (2017) [5] là 
(48,6%). Như vậy tỷ lệ người dân có kiến 
thức đúng về thời gian sử dụng kháng sinh 
khá tốt, tuy nhiên vẫn có 7,5% đối tượng 
nghiên cứu chỉ dùng thuốc kháng sinh từ 1-2 
ngày, điều này xuất phát từ thực tế sau khi sử 
dụng thuốc kháng sinh từ 1-2 ngày các triệu 
chứng của bệnh đã thuyên giảm, người dân 
lập tức dừng thuốc vì sợ ảnh hưởng đến chức 
năng khác của cơ thể. Bên cạnh đó, đối tượng 
nghiên cứu biết đối tượng cần cẩn thận khi 
dùng kháng sinh là trẻ em, phụ nữ đang mang 
thai và cho con bú lần lượt là 54,3% và 
49,2%, kết quả này tương tự với kết quả của 
Trần Văn Long (2000) [3] là 54,7% và 
49,9%, đây không phải là một tỷ lệ cao nhưng 
hai đối tượng này là 2 đối tượng cần được 
quan tâm nhất khi sử dụng kháng sinh. Đánh 
giá chung về kiến thức, tỷ lệ đối tượng nghiên 
cứu có kiến thức tốt về sử dụng thuốc kháng 
sinh chiếm 67,8%. Do vậy cần nâng cao nhận 
thức của người dân về sử dụng kháng sinh 
đúng cách, hợp lý đặc biệt là tăng cường kiến 
thức của cộng đồng về việc sử dụng kháng sinh 
phải theo đơn thuốc được kê và kiến thức về sử 
dụng kháng sinh hợp lý, đúng cách để tránh các 
tai hại không mong muốn của kháng sinh và 
tăng hiệu quả điều trị của thuốc kháng sinh. 
Một trong những nguyên tắc quan trọng khi 
sử dụng thuốc kháng sinh là sử dụng thuốc 
theo đơn chỉ định của bác sỹ. Theo kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 44% sử 
dụng thuốc theo chỉ định của bác sỹ/ thầy 
thuốc, kết quả này tương ứng với nghiên cứu 
của Trịnh Ngọc Quang (2006) [4] là 48,9%. 
Kiểm tra thông tin khi mua thuốc là một trong 
những thói quen tích cực để sử dụng kháng 
sinh an toàn, tránh sai sót, không những thế 
nó còn giúp người dân có thêm kiến thức về 
kháng sinh tốt hơn, thế nhưng khi điều tra chỉ 
thấy có 46% đối tượng nghiên cứu sử dụng 
kháng sinh có thói quen kiểm tra các thông tin 
khi mua thuốc. Do vậy cần tăng cường các 
biện pháp tư vấn để người dân hiểu được hiện 
tượng kháng kháng sinh nhằm làm giảm thực 
hành sử dụng kháng sinh không đúng cách, 
đặc biệt khuyến cáo người dân tuân thủ uống 
thuốc kháng sinh đúng theo đơn chỉ dẫn của 
bác sỹ ngay kể cả khi bệnh có dấu hiệu 
thuyên giảm và không tự ý sử dụng thuốc 
kháng sinh mà không theo đơn của bác sỹ. 
Đánh giá chung về thực hành sử dụng kháng 
sinh, có 42,6% đối tượng thực hành sử dụng 
kháng sinh tốt và chưa tốt là 57,4%. Kết quả 
này tương ứng với với kết quả của Trịnh 
Ngọc Quang (2006) [4] là 37,2% và 62,8%. 
Tỷ lệ đối tượng thực hành sử dụng kháng sinh 
tốt cao hơn so với kiến thức của đối tượng 
nghiên cứu về kháng sinh tốt (32,2%). 
Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực 
hành về sử dụng thuốc kháng sinh 
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan 
giữa giới tính với kiến thức của đối tượng 
được nghiên cứu. Những đối tượng là nam có 
kiến thức chưa tốt nhiều hơn đối tượng là nữ 
4,03 lần. Điều này hợp lý vì nữ giới thường 
có mối quan tâm tới sức khỏe nhiều hơn nam 
giới. Không những thế, phụ nữ còn thường 
đảm nhiệm vai trò làm mẹ và chăm sóc các 
thành viên khác trong gia đình nên tỷ lệ kiến 
thức tốt của họ sẽ cao hơn. Bên cạnh đó còn 
thấy những đối tượng có trình độ học vấn 
dưới THPT có kiến thức chưa tốt cao gấp 
5,36 lần những đối tượng có trình độ trên 
THPT. Có thể thấy rằng những người có trình 
độ học vấn cao hơn cũng sẽ quan tâm nhiều 
hơn tới sức khỏe và ý thức tốt hơn. Ngoài ra 
những đối tượng không phải cán bộ công 
nhân viên chức có kiến thức chưa tốt cao gấp 
3,59 lần so với những đối tượng là cán bộ 
công nhân viên chức. Với nghề nghiệp, những 
người là cán bộ công nhân viên chức sẽ có 
điều kiện về kinh tế ổn định và dễ tiếp cận 
hơn với các dịch vụ y tế hơn. Đặc biệt những 
Nguyễn Thị Hải Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 35 - 40 
 Email: jst@tnu.edu.vn 40 
hộ gia đình không có trẻ dưới 5 tuổi có kiến 
thức chưa tốt cao gấp 4,18 lần những hộ gia 
đình có trẻ dưới 5 tuổi. Trẻ em dưới 5 tuổi 
thường xuyên bị ốm và được các thành viên 
khác trong gia đình chăm sóc, vì thế nên các 
thành viên trong gia đình có trẻ dưới 5 tuổi sẽ 
có kiến thức cao hơn. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan 
giữa các hộ gia đình có trẻ dưới 5 tuổi với 
thực hành của đối tượng nghiên cứu (p<0,05). 
Những hộ gia đình không có trẻ dưới 5 tuổi 
có thực hành chưa tốt cao gấp 4,18 lần những 
hộ gia đình có trẻ dưới 5 tuổi. Bởi vì trẻ 
thường xuyên bị ốm và được các thành viên 
khác trong gia đình chăm sóc, vì thế nên các 
thành viên trong gia đình cũng sẽ có thực 
hành tốt hơn. Ngoài ra không thấy có mối liên 
quan giữa thực hành sử dụng kháng sinh với 
kiến thức sử dụng kháng sinh, có thể thấy 
những đối tượng có kiến thức tốt chưa chắc đã 
thực hành tốt và những đối tượng kiến thức 
chưa tốt chưa chắc đã thực hành chưa tốt. 
KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ người dân 
có kiến thức tốt về sử dụng thuốc kháng sinh 
cao 67,8% và 42,6% người dân có thực hành 
tốt về sử dụng thuốc kháng sinh. Nghiên cứu 
đã xác định được một số yếu tố liên quan đến 
kiến thức, thực hành sử dụng thuốc kháng 
sinh của người dân là: Giới tính, trình độ học 
vấn, nghề nghiệp, hộ gia đình có con nhỏ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế (2017), Quyết định phê duyết tăng 
cường kiểm soát kê đơn thuốc và bán thuốc kê đơn 
giai đoạn 2017-2020, số 4041. 
2. Hoàng Thị Huế, Lê Thị Kim Dung, Phạm Trung 
Kiên (2013), “Khảo sát tình hình sử dụng kháng 
sinh trong điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở 
trẻ em tại bệnh viên đa khoa Trung ương Thái 
Nguyên năm 2012”, Tạp chí Y học Thực hành, số 
876- 2013, tr. 154- 156. 
3. Trần Văn Long (2000), Kiến thức, thái độ, thực 
hành sử dụng kháng sinh của người dân huyện 
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ Y tế 
công cộng, Trường Đại học Y tế Công cộng. 
4. Trịnh Ngọc Quang (2006), Kiến thức, thái độ, 
thực hành sử dụng kháng sinh của người dân xã 
Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Luận 
văn thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế 
công cộng. 
5. Nguyễn Văn Tiến (2017), “Kiến thức, thực 
hành và yếu tố liên quan về sử dụng thuốc kháng 
sinh của người dân tại một số xã, huyện Kiến 
Xương, tỉnh Thái Bình năm 2017”, Tạp chí Y học 
dự phòng, Tập 27, Số 13- 2017, tr. 60 - 67. 
6. Nguyễn Thị Quỳnh Trang (2013), Thực trạng 
sử dụng thuốc kháng sinh của các bà mẹ có con 
dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại xã Đông 
Kết, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên năm 2013, 
Luận văn thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học 
Y tế công cộng. 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_ve_su_dung_th.pdf