Luận án Hiệu quả biện pháp kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết dengue dựa vào cộng đồng tại huyện Cái bè tỉnh Tiền Giang, 2012 - 2013

Sốt xuất huyết Dengue là bệnh nhiễm vi rút cấp tính do

muỗi truyền và có thể gây dịch lớn, muỗi Aedes aegypti là trung

gian truyền bệnh chủ yếu. Bệnh sốt xuất huyết Dengue có mặt ở

các vùng nhiệt đới, trên 100 nước thuộc các khu vực có khí hậu

nhiệt đới và cận nhiệt đới vùng Đông Nam Á và Tây Thái Bình

Dương. Khoảng 40% dân số thế giới hiện đang sống trong vùng

nguy cơ, ước tính có khoảng 50 triệu ca nhiễm Dengue mỗi năm,

trong đó khoảng 500 ngàn ca nhập viện. Tại Việt Nam, sốt xuất

huyết Dengue là bệnh lưu hành địa phương, thường xảy ra vào

các tháng mùa mưa. Những năm gần đây, mỗi năm Việt Nam có

hàng trăm ngàn ca mắc và hàng trăm trường hợp tử vong.

Hiện nay, vẫn chưa có vắc xin và thuốc đặc trị bệnh sốt

xuất huyết Dengue, trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói

riêng vẫn đang tìm kiếm những biện pháp kiểm soát véc tơ hiệu

quả nhất để khống chế bệnh sốt xuất huyết Dengue. Trong khi

chờ đợi phương pháp hữu hiệu nhất là vắc xin, thì biện pháp cấp

thiết nhất hiện nay là kiểm soát véc tơ bằng cách huy động sự

tham gia của cộng đồng.

Tiền Giang là tỉnh có số mắc và tử vong cao nhất trong

khu vực phía Nam. Những năm qua công tác phòng chống bệnh

đã được sự ủng hộ của chính quyền địa phương và các ban ngành

đoàn thể nhưng tại sao chưa mang lại hiệu quả cao ?. Các hướng

dẫn kiểm soát véc tơ đã đáp ứng với điều kiện thực tế tại địa

phương hay không ?. Làm thế nào và bằng phương thức nào để

công tác truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống véc tơ sốt

xuất huyết Dengue có thể huy động cộng đồng tham gia một cách

chủ động và hiệu quả lâu dài ?.

pdf 27 trang dienloan 6420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Hiệu quả biện pháp kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết dengue dựa vào cộng đồng tại huyện Cái bè tỉnh Tiền Giang, 2012 - 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Hiệu quả biện pháp kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết dengue dựa vào cộng đồng tại huyện Cái bè tỉnh Tiền Giang, 2012 - 2013

Luận án Hiệu quả biện pháp kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết dengue dựa vào cộng đồng tại huyện Cái bè tỉnh Tiền Giang, 2012 - 2013
 i 
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG 
----------*---------- 
NGUYỄN LÂM 
HIỆU QUẢ BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT VÉC TƠ 
SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI 
HUYỆN CÁI BÈ TỈNH TIỀN GIANG, 2012-2013 
Chuyên ngành: Y Tế Công Cộng 
Mã số: 62720301 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG 
HÀ NỘI – 2015 
 ii 
CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI VIỆN 
VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG 
Người hướng dẫn khoa học: 
1. PGS. TS. Trần Ngọc Hữu 
2. PGS. TS Nguyễn Anh Dũng 
Phản biện 1: . 
Phản biện 2: . 
Phản biện 3: . 
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện 
tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, 
vào hồi ...... giờ ... , ngày ... tháng ... năm 2015 
Có thể tìm hiểu luận án tại: 
 1. Thư viện Quốc gia 
 2. Thư viện Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương 
1 
MỞ ĐẦU 
 Sốt xuất huyết Dengue là bệnh nhiễm vi rút cấp tính do 
muỗi truyền và có thể gây dịch lớn, muỗi Aedes aegypti là trung 
gian truyền bệnh chủ yếu. Bệnh sốt xuất huyết Dengue có mặt ở 
các vùng nhiệt đới, trên 100 nước thuộc các khu vực có khí hậu 
nhiệt đới và cận nhiệt đới vùng Đông Nam Á và Tây Thái Bình 
Dương. Khoảng 40% dân số thế giới hiện đang sống trong vùng 
nguy cơ, ước tính có khoảng 50 triệu ca nhiễm Dengue mỗi năm, 
trong đó khoảng 500 ngàn ca nhập viện. Tại Việt Nam, sốt xuất 
huyết Dengue là bệnh lưu hành địa phương, thường xảy ra vào 
các tháng mùa mưa. Những năm gần đây, mỗi năm Việt Nam có 
hàng trăm ngàn ca mắc và hàng trăm trường hợp tử vong. 
 Hiện nay, vẫn chưa có vắc xin và thuốc đặc trị bệnh sốt 
xuất huyết Dengue, trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói 
riêng vẫn đang tìm kiếm những biện pháp kiểm soát véc tơ hiệu 
quả nhất để khống chế bệnh sốt xuất huyết Dengue. Trong khi 
chờ đợi phương pháp hữu hiệu nhất là vắc xin, thì biện pháp cấp 
thiết nhất hiện nay là kiểm soát véc tơ bằng cách huy động sự 
tham gia của cộng đồng. 
 Tiền Giang là tỉnh có số mắc và tử vong cao nhất trong 
khu vực phía Nam. Những năm qua công tác phòng chống bệnh 
đã được sự ủng hộ của chính quyền địa phương và các ban ngành 
đoàn thể nhưng tại sao chưa mang lại hiệu quả cao ?. Các hướng 
dẫn kiểm soát véc tơ đã đáp ứng với điều kiện thực tế tại địa 
phương hay không ?. Làm thế nào và bằng phương thức nào để 
công tác truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống véc tơ sốt 
xuất huyết Dengue có thể huy động cộng đồng tham gia một cách 
chủ động và hiệu quả lâu dài ?. 
 Trong khi chờ đợi giải pháp hữu hiệu nhất là vắc xin, 
cũng như các biện pháp sinh học khác đang trong giai đoạn 
nghiên cứu và thử nghiệm, để giải quyết vấn đề cấp thiết hiện nay 
đối với công tác phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue tại tỉnh 
Tiền Giang, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Hiệu quả biện pháp 
kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết Dengue dựa vào cộng đồng tại 
2 
huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang, 2012 - 2013”, với 2 mục tiêu sau: 
1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành của người dân trong 
việc thực hiện các biện pháp phòng chống bệnh sốt xuất huyết 
Dengue và kiểm soát các chỉ số véc tơ truyền bệnh tại huyện Cái 
Bè tỉnh Tiền Giang, 2012 - 2013. 
2. Đánh giá hiệu quả biện pháp kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết 
Dengue dựa vào cộng đồng tại huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang, 
2012 - 2013. 
 Những đóng góp cho khoa học và giá trị thực tiễn: 
- Chương trình can thiệp hoàn toàn dựa vào cộng đồng, cộng 
đồng làm và chịu tránh nhiệm, các biện pháp kiểm soát véc tơ 
được cộng đồng lựa chọn, cùng tham gia lập kế hoạch và triển 
khai. Độ bao phủ của hoạt động kiểm soát véc tơ ở tất cả hộ gia 
đình trong địa bàn can thiệp. Sử dụng các biện pháp kiểm soát 
véc tơ đơn giản và dễ áp dụng nhưng phù hợp và mang lại hiệu 
quả trong việc làm giảm các chỉ số véc tơ tại cộng đồng. 
- Tiết kiệm chi phí kiểm soát véc tơ tại cộng đồng, do lực 
lượng kiểm soát véc tơ là chủ hộ gia đình và học sinh với sự hỗ 
trợ và tham gia của đối tượng có uy tín trong cộng đồng là tổ tự 
quản và giáo viên, mỗi thành viên nêu trên được xem như là 1 
cộng tác viên của chương trình quốc gia, nhưng khác nhau ở điểm 
là họ kiểm soát véc tơ tại chính hộ gia đình của mình. 
- Trong khi các biện pháp truyền thông phòng chống véc tơ 
sốt xuất huyết Dengue hiện nay còn gặp nhiều khó khăn khi áp 
dụng cụ thể cho từng địa phương thì các biện pháp kiểm soát véc 
tơ dựa vào cộng đồng của nghiên cứu này là lựa chọn phù hợp 
với nhu cầu và tình hình thực tế. 
- Nghiên cứu thành công trong việc huy động cộng đồng thực 
hành kiểm soát véc tơ, cung cấp thêm bằng chứng khoa học về 
hiệu quả của các biện pháp kiểm soát véc tơ, làm cơ sở để triển 
khai các chương trình can thiệp tại cộng đồng, có thể làm số liệu 
nền cho các nghiên cứu đánh giá hiệu quả can thiệp trong lĩnh 
vực phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue, cũng như cung cấp 
các số liệu nền cho những nghiên cứu tiếp theo. 
3 
 CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN 
 Luận án gồm 126 trang với 51 bảng, 17 hình và 11 phụ lục. 
 Gồm: Mở đầu và mục tiêu 3 trang, tổng quan 33 trang, 
phương pháp nghiên cứu 19 trang, kết quả nghiên cứu 34 trang, 
bàn luận 35 trang, kết luận 1 trang và kiến nghị 1 trang. 
 Có 146 tài liệu tham khảo: 103 tiếng việt và 43 tiếng anh. 
Chương 1 
TỔNG QUAN 
1.1 Khái niệm chung về bệnh sốt xuất huyết Dengue 
 Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là bệnh nhiễm vi rút 
Dengue cấp tính do muỗi truyền và có thể gây dịch lớn. Vi rút 
gây bệnh thuộc nhóm Flavivirus họ Flaviviridae với 4 týp huyết 
thanh, muỗi Aedes aegypti là trung gian truyền bệnh chủ yếu. 
1.2 Tình hình bệnh sốt xuất huyết Dengue 
1.2.1 Tình hình bệnh sốt xuất huyết Dengue trên thế giới 
Dịch Dengue đã xảy ra ở các vùng bán nhiệt đới và ôn 
đới, vùng có mức độ ảnh hưởng nặng nề nhất là Đông Nam Châu 
Á và Tây Thái Bình Dương. Kế hoạch chiến lược của WHO giai 
đoạn 2008-2015, ước tính có khoảng 1,8 tỉ người (>70% dân số) 
khu vực Châu Á Thái Bình Dương sống trong vùng nguy cơ. 
1.2.2 Tình hình bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Việt Nam 
SXHD là bệnh lưu hành địa phương tại Việt Nam, là một 
trong 10 bệnh truyền nhiễm theo quy định phải khai báo, có tỉ lệ 
mắc và tử vong cao nhất. Dân số trong vùng bệnh SXHD lưu 
hành có nguy cơ mắc bệnh khoảng 70 triệu người. 
1.2.3 Tình hình sốt xuất huyết Dengue khu vực phía Nam 
Những trường hợp đầu tiên được ghi nhận ở đồng bằng 
sông Cửu Long, sau đó lan nhanh thành nhiều vụ dịch với chu kỳ 
từ 3 - 5 năm. Năm 1998 số mắc lên đến 123.997 ca và tử vong 
347 trường hợp. Năm 2005 số ca mắc đứng hàng thứ 2 sau tiêu 
chảy trong danh sách 24 bệnh truyền nhiễm. Giai đoạn 2006-
4 
2012 số mắc cao hơn trung bình 2000-2005. Năm 2007, tỉ lệ 
mắc/100.000 dân cao nhất kể từ năm 1999 nhưng thấp hơn năm 
1998. Năm 2008 tỉ lệ chết/mắc bắt đầu tăng trở lại (0,109%). Vụ 
dịch năm 2010 số ca mắc cao hơn so với năm 2009 và tỉ lệ 
mắc/100.000 dân tăng 13,9% so với trung bình 2003-2007. Giai 
đoạn 2011-2013 tỉ lệ mắc và chết giảm. Năm 2014 tỉ lệ 
mắc/100.000 dân là 72 ca/100.000 dân giảm so với năm 2013 và 
trung bình 2006-2010. 
Giám sát vi rút Dengue được tiến hành thường xuyên và 
phát hiện 4 týp đồng lưu hành, giai đoạn 2006-2014 vi rút DEN-1 
chiếm ưu thế so với các týp khác trong suốt 8 năm qua. 
Chỉ số côn trùng năm 2010 cao so với 2009 và trung bình 
2004-2008, mật độ muỗi năm 2012 dao động trong khoảng 0,3-
0,7 (con/nhà) cao hơn so với 2011 nhưng thấp hơn trung bình 
2007-2011, năm 2013 chỉ số BI dao động trong khoảng từ 28-50 
giảm so với cùng kỳ 2012, năm 2014 chỉ số BI không thay đổi so 
với cùng kỳ năm 2013. 
1.2.4 Tình hình bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Tiền Giang 
Tiền Giang liên tiếp nhiều năm gần đây có số mắc SXHD 
cao, với sự lưu hành của 4 týp vi rút Dengue, các chỉ số véc tơ 
biến đổi đa dạng không theo qui luật nhất định, chỉ số BI và chỉ 
số mật độ muỗi Aedes trung bình luôn ở mức cao trong khu vực 
phía Nam. Hiện nay, chi phí cho các hoạt động phòng chống bệnh 
SXHD do địa phương tự đảm nhiệm, nhưng hầu như không có 
hoặc rất ít, do đó chính quyền địa phương cũng xác định người 
dân là lực lượng chính trong hoạt động kiểm soát véc tơ. Tuy 
nhiên, công tác truyền thông vẫn còn hạn chế, chưa đạt yêu cầu 
truyền thông thay đổi hành vi, chưa tạo được thói quen thật sự tạo 
thành phong trào tự giác để người dân thực hành kiểm soát véc tơ 
rộng khắp trong từng hộ gia đình. 
1.3 Sinh lý và sinh thái của véc tơ sốt xuất huyết Dengue 
1.3.1 Muỗi Aedes albopictus 
 Muỗi Aedes albopictus trưởng thành tương đối nhỏ 
(khoảng 3/16 inch) về hình thể rất giống Aedes aegypti chỉ khác 
5 
trên mặt lưng có 1 vạch trắng chạy dọc lưng. Sinh lý sinh thái của 
Aedes albopictus tương tự như Aedes aegypti. 
1.3.2 Muỗi Aedes aegypti 
Muỗi Aedes aegypti có kích thước trung bình, thân có 
màu đen bóng và có nhiều vẩy trắng bạc, khi đậu thân nằm 
ngang, muỗi cái hút máu và đẻ trứng, hoạt động nhiều vào ban 
ngày cao điểm vào lúc sáng sớm và chiều tối. Tuổi thọ trung bình 
của muỗi cái là 30 ngày, sinh sản 4 lần trong đời, 1 lần trung bình 
58-78 trứng. Vòng đời qua 4 giai đoạn kéo dài 10-15 ngày. 
Muỗi Aedes aegypti phân bố trong vùng nhiệt đới và ôn 
đới của các châu lục. 
1.4 Giám sát và điều tra véc tơ sốt xuất huyết Dengue 
1.4.1 Giám sát muỗi trưởng thành 
Chỉ số mật độ (CSMĐ) muỗi Aedes là số muỗi cái Aedes 
trung bình trong một hộ gia đình điều tra: 
Chỉ số nhà có muỗi (CSNCM) Aedes là tỉ lệ phần trăm 
nhà có muỗi cái Aedes trưởng thành: 
1.4.2 Giám sát bọ gậy Aedes: Có 4 chỉ số thường sử dụng 
Nhà bọ gậy (HI): Là tỉ lệ phần trăm nhà có bọ gậy Aedes. 
DCCN bọ gậy: là tỉ lệ phần trăm DCCN có bọ gậy Aedes. 
Breteau (BI): là số DCCN có bọ gậy Aedes trong 100 nhà 
điều tra. 
Mật độ bọ gậy: Là số lượng bọ gậy Aedes trung bình cho 
1 hộ gia đình điều tra: 
1.5 Biện pháp và mô hình phòng chống véc tơ 
Nghiên cứu vắc xin kháng vi rút Dengue hiện đang được 
phát triển và nghiên cứu thử nghiệm trên người. 
Tại Việt Nam, chiến lược phòng chống bệnh SXHD, bao 
gồm mô hình cộng tác viên vẫn đang thí điểm trên 10% số 
xã/tỉnh, hoạt động của lực lượng cộng tác viên có làm giảm chỉ số 
véc tơ nhưng chưa thấp đến mức đạt chỉ tiêu đề ra. Nghiên cứu 
mô hình xử lý ổ dịch, kết quả bước đầu cho thấy có hiệu quả 
6 
trong việc làm hạn chế dịch bùng phát và lan rộng. Gần đây một 
số tác giả nghiên cứu tìm kiếm các mô hình lồng ghép kiểm soát 
véc tơ SXHD sử dụng tác nhân sinh học là Mesocyclops và thả cá 
diệt bọ gậy. 
1.6 Một số khái niệm trong nghiên cứu 
Dụng cụ chứa nước: Là tất cả các dụng cụ lớn, nhỏ không 
phân biệt giá trị sử dụng có chứa nước, bao gồm cả dụng cụ linh 
tinh, dụng cụ phế thải đọng nước. 
Dụng cụ linh tinh: Như bình bông, chén (bát) nước chống 
kiến, vật chứa nước cho gia súc và động vật uống  
Dụng cụ phế thải: Những vật dụng vứt bỏ ngoài nhà như 
gáo dừa, lốp xe, vỏ đồ hộp, thùng, xô chậu, chum, vại vỡ  
Dụng cụ có nắp đậy: Là DCCN có nắp đậy kín, muỗi 
không tiếp cận để đẻ trứng. 
Dụng cụ chứa nước có bọ gậy: Là DCCN có bọ gậy 
Aedes aegypti hoặc Aedes albopictus. 
Tỷ lệ dụng cụ chứa nước có bọ gậy: Tỉ lệ phần trăm 
DCCN có bọ gậy trên tổng số DCCN của chủng loại đó. 
Ổ bọ gậy nguồn: Là bất kỳ DCCN đơn lẻ hoặc chủng loại 
DCCN nào có chứa số lượng lớn bọ gậy Aedes và do đó sẽ tạo ra 
một số lượng lớn muỗi Aedes trưởng thành. 
Hộ gia đình: Là một nhóm người cùng sinh sống trong 
cùng một mái nhà, cùng ăn uống và ngủ chung một căn nhà. 
Trong nhà và xung quanh: Trong nhà là phần diện tích của 
hộ gia đình sử dụng có mái che ngăn được nước mưa. Phần diện 
tích còn lại thuộc sở hữu của gia đình gọi là xung quanh nhà. 
Hộ gia đình không có bọ gậy: Là gia đình không có con 
bọ gậy Aedes nào trong bất cứ các DCCN. 
Cộng đồng: Là một thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức, là 
một nhóm người cùng chia sẻ và chịu sự ràng buộc bởi các đặc 
điểm và lợi ích chung được thiết lập thông qua tương tác và trao 
đổi giữa các thành viên. 
7 
Hoạt động dựa vào cộng đồng: Là những hoạt động lấy 
cộng đồng làm trọng tâm, định hướng trao quyền kiểm soát quyết 
định hoạt động và nguồn lực hoạt động cho các nhóm cộng đồng. 
Chương 2 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng 
 Nghiên cứu định lượng: Chủ hộ/người đại diện, học sinh và 
giáo viên trường THCS, tổ trưởng/tổ phó TTQ và véc tơ SXHD. 
 Nghiên cứu định tính: Phó giám đốc và chuyên trách SXH 
của TTYTDP, cán bộ phụ trách khối THCS của phòng GD&ĐT, 
lãnh đạo UBND và trưởng TYT xã, trưởng/phó ban nhân dân ấp, 
tổ trưởng/tổ phó TTQ, hiệu trưởng trường THCS, giáo viên chủ 
nhiệm và học sinh trưởng lớp. 
2.2. Địa điểm và thời gian 
 Nghiên cứu thực hiện tại huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang. 
 Tiến hành từ tháng 5/2012 đến tháng 02/2014: Giai đoạn 
điều tra đánh giá thực trạng trước can thiệp từ tháng 5-10/2012; 
Tháng 10/2012-10/2013 triển khai các biện pháp can thiệp; Từ 
tháng 10/2013- 02/2014 điều tra đánh giá hiệu quả can thiệp. 
2.3. Thiết kế nghiên cứu 
 Cắt ngang mô tả trước can thiệp. Can thiệp cộng đồng có 
nhóm chứng. Cắt ngang phân tích sau can thiệp, so sánh trước - 
sau kết hợp giữa định lượng với định tính. 
2.4 Mẫu và phương pháp chọn mẫu 
2.4.1. Nghiên cứu định lượng 
 Chọn xã tham gia nghiên cứu bằng phương pháp chọn 
mẫu chủ đích: 2 xã chứng và 2 xã can thiệp. 
Công thức tính cỡ mẫu ước lượng 2 tỉ lệ trong quần thể: 
Trong đó: 
n: là cỡ mẫu tối thiểu cho mỗi nhóm; α, β = 0,01: mức ý 
8 
nghĩa; Z α/β = 1,96 hệ số tin cậy 95%; Z 1- = 99%: lực mẫu. 
Ước lượng sau can thiệp, tỉ lệ nhà không bọ gậy Aedes ở nhóm 
can thiệp p1=85% và nhóm chứng p2=55%. 
Cỡ mẫu n=107 (cho cỡ mẫu lớn nhất). Do chọn mẫu cụm 
nên để tăng độ chính xác, cỡ mẫu được nhân với hiệu lực thiết kế 
là 3 (Design effect = DEFF) và 5% mẫu dự phòng. Cỡ mẫu sau 
khi được làm tròn là 340. 
Cỡ mẫu chủ hộ tham gia nghiên cứu là 340: được chọn 
theo phương pháp chọn mẫu cụm xác suất tỉ lệ. Số cụm được 
chọn tương đương với số ấp của các xã. Xác định khoảng cách 
mẫu k là số hộ gia đình trên số cụm. Tại mỗi cụm sẽ chọn ra n số 
hộ gia đình bằng cỡ mẫu trên số cụm. Chọn hộ gia đình đầu tiên 
của mỗi cụm bằng cách chọn ngẫu nhiên đơn. Dựa vào hệ số k 
chọn hộ gia đình tiếp theo cho đến khi đạt cỡ mẫu mong muốn 
của mỗi cụm. Lập danh sách các hộ gia đình được chọn tại mỗi 
cụm điều tra theo tuyến đường, theo ấp và tổ tự quản. 
Cỡ mẫu học sinh tham gia nghiên cứu là 340: được chọn 
theo phương pháp chọn mẫu cụm xác suất tỉ lệ tương tự chọn 
mẫu hộ gia đình, số cụm được chọn tương đương với số lớp. 
Chọn học sinh đầu tiên của mỗi cụm bằng phương pháp chọn 
ngẫu nhiên đơn. 
Cỡ mẫu giáo viên, tổ trưởng/tổ phó TTQ: Cỡ mẫu điều tra 
là 100 giáo viên và 150 tổ trưởng/tổ phó tổ tự quản. Sử dụng 
phương pháp chọn mẫu tất cả, 100% giáo viên và 100% tổ 
trưởng/tổ phó TTQ. 
2.4.2 Nghiên cứu định tính 
Phương pháp chọn mẫu chủ đích: 
Phỏng vấn sâu: 1 phó giám đốc phụ trách chuyên môn và 
1 chuyên trách SXH của TTYTDP huyện; 1 cán bộ phụ trách khối 
THCS của phòng GD&ĐT; 2 lãnh đạo UBND xã, 2 hiệu trưởng 
trường THCS và  ... Chỉ số véc tơ tại nhà học sinh ở nhóm can thiệp 
Hộ gia đình 
học sinh 
Hộ gia đình 
khác 
Tổng cộng 
Chỉ số 
Tần số (%) Tần số % Tần số (%) 
p*** 
Có 55 12,5 82 17,0 137 14,7 Nhà bọ gậy 
Aedes Không 393 87,7 400 83,0 793 85,3 0,042 
Có 73 16,6 105 18,7 178 19,1 Nhà muỗi 
Aedes Không 375 83,7 377 78,2 752 80,9 0,033 
Kiểm định χ2, p***: so sánh trước-sau ở nhóm can thiệp 
Sau can thiệp tỉ lệ nhà có bọ gậy Aedes và tỉ lệ nhà có 
muỗi Aedes của hộ gia đình có học sinh ở nhóm can thiệp thấp 
hơn hộ gia đình không có học sinh. 
32.7 Kết quả hoạt động của chương trình can thiệp 
Thành công trong mô hình nhờ sự “Phối hợp tốt của 
TTYTDP trong hoạt động tập huấn chuyên môn cho giáo viên và 
tổ tự quản, đồng thời đã tổ chức thành công cho giáo viên và tổ tự 
quản giảng dạy và hướng dẫn các biện pháp kiểm soát véc tơ cho 
học sinh và đại diện các hộ gia đình, tạo được phong trào kiểm 
soát bọ gậy hàng tuần” (PVS phó giám đốc TTYTDP huyện). 
Việc xây dựng được 4 thùng gây quỹ theo suy nghĩ của 
các em học sinh “Chúng em ủng hộ hoạt động này và sẽ tiết kiệm 
tiền cho hoạt động gây quỹ của nhà trường”. 
Giáo viên cho rằng “Các em học sinh thì rất thích nuôi cá, 
đây chính là điều kiện thuận lợi để tuyên truyền cho các em sử 
dụng cá để diệt bọ gậy thay vì các em nuôi cá làm kiểng. Tuy 
nhiên các em không có nhiều cá, không có tiền mua, nên chúng ta 
phải cung cấp cá và hướng dẫn sử dụng cá để diệt bọ gậy”. 
Đối với ý kiến của các em học sinh “Các em sẽ cố gắng 
làm theo hướng dẫn của các cô chú để phòng chống bệnh sốt xuất 
huyết, nhưng chúng em chưa biết nhiều. Đối với biện pháp dùng 
18 
cá để diệt bọ gậy thì chúng em càng thích vì các bạn của chúng 
em, nhất là các bạn trai mê cá bảy màu vì nó nhìn rất đẹp”. 
“Kết quả giám sát hàng tháng cho thấy bọ gậy tại hộ gia 
đình đã giảm hơn so với các năm trước. Do người dân được đánh 
động thường xuyên thông qua tổ tự quản còn các em học sinh thì 
được các thầy cô giáo nhắc nhỡ thường xuyên, nên hoạt động diệt 
bọ gậy thực hiện có hiệu quả hơn” (PVS trưởng TYT xã). 
“Chi phí của hoạt động nghiên cứu này ít tốn kém hơn, do 
chúng ta lồng ghép được với các hoạt động thường xuyên của tổ 
tự quản và các hoạt động ngoại khóa của nhà trường. Đặc biệt là 
không phải tốn chi phí trả lương như hoạt động cộng tác viên, tuy 
nhiên nên xem xét tìm nguồn chi cho các cuộc họp của ban chỉ 
đạo hàng tháng, ít nhất là cũng phải có tiền xe cộ cho các đại diện 
các ấp và nhà trường khi tham dự các buổi họp giao ban hàng 
tháng cùng ban chỉ đạo” (PVS trưởng TYT xã). 
“Nếu nhân rộng mô hình cộng tác viên phải tìm nguồn 
kinh phí chi trả lương hàng tháng. Đối với hoạt động kiểm soát 
véc tơ dựa vào trường học hoặc tổ tự quản hoặc cả hai thì chúng 
ta tiết kiệm được khoản trả lương” (PVS trưởng TYT xã). 
“Cộng tác viên thì tốn kinh phí hàng tháng. Mô hình sử 
dụng lực lượng giáo viên và tổ tự quản sẽ không tốn chi phí hàng 
tháng cho các đối tượng này. Tuy nhiên các khoản kinh phí tập 
huấn, giám sát, họp ban chỉ đạo hàng tháng và cung cấp dụng cụ 
kiểm soát véc tơ cần phải có sự hỗ trợ của chương trình phòng 
chống sốt xuất huyết, đặc biệt trong thời gian duy trì và nhân 
rộng.” (PVS phó chủ tịch UBND xã). 
“Kế hoạch sắp tới sẽ ưu tiên triển khai nhân rộng cho các 
xã chứng đã tham gia nghiên cứu. Chúng tôi thấy các hoạt động 
kiểm soát bọ gậy thông qua nhà trường và tổ tự quản, do dễ triển 
khai và mang lại hiệu quả” (PVS phó giám đốc TTYTDP huyện). 
“Các biện pháp kiểm soát véc tơ đơn giản dễ áp dụng và 
việc lồng ghép tuyên truyền từ tổ tự quản rất thuận lợi và tiết 
kiệm chi phí cho ngành y tế địa phương, UBND rất đồng tình duy 
trì các hoạt động này” (PVS phó chủ tịch UBND xã). 
19 
Chương 4 
BÀN LUẬN 
4.1 Kiến thức, thái độ, thực hành và các chỉ số véc tơ 
 Đánh giá thực trạng chung đối với kiến thức, thái độ và 
thực hành đúng trong phòng chống SXHD ở nhóm can thiệp 
tương đối thấp hơn so với nhóm chứng, tuy nhiên sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Từ kết quả ban đầu có sự 
khác biệt giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng mặc dù không có ý 
nghĩa thống kê, tuy nhiên để biết được hiệu quả thực sự mang lại 
từ chương trình can thiệp thì kết quả đánh giá sau can thiệp phải 
được tính toán chỉ số hiệu quả so với nhóm chứng. 
Tổng số DCCN các loại điều tra ở nhóm can thiệp là 
2.642 so với nhóm chứng là 2.861, trong đó số lượng DCCN có 
bọ gậy Aedes là 978 ở nhóm can thiệp và nhóm chứng là 994, số 
lượng DCCN có bọ gậy Aedes của nhóm can thiệp cao hơn 1,64% 
và chỉ số Breteau (BI=107) cao hơn 1,9% so với nhóm chứng. 
Tuy nhiên, chỉ số DCCN có bọ gậy Aedes ở nhóm can thiệp 
(CI=34,7%) thấp hơn 6,22% so với nhóm chứng (CI=37,0%). Địa 
bàn nghiên cứu có chỉ số véc tơ SXHD tương đối cao hơn so với 
những nghiên cứu thực trạng gần đây tại khu vực phía Nam. 
Đối với DCCN hữu ích, tỉ lệ DCCN được đậy nắp ở nhóm 
can thiệp là 20,5% cao hơn 4,06% so với nhóm chứng 19,7%. 
Tuy nhiên tỉ lệ DCCN hữu ích được thả cá chỉ chiếm 9% tương 
đương với nhóm chứng. DCCN không được bảo vệ ghi nhận ở 
nhóm can thiệp là 34,9% thấp hơn 3,32% so với nhóm chứng 
(36,1%). Tỉ lệ DCCN hữu ích có bọ gậy Aedes ở nhóm can thiệp 
chiếm 35,5% tương đương so với nhóm chứng. Tuy nhiên đối với 
DCLT và DCPT thì tỉ lệ có bọ gậy Aedes ở nhóm can thiệp giảm 
71,37%, so với nhóm chứng tỉ lệ này chỉ giảm 13,74%. 
Đánh giá thực trạng chung về chỉ số nhà có bọ gậy Aedes 
ở nhóm can thiệp chiếm tỉ lệ 62,4% thấp hơn 1,27% so với nhóm 
chứng là 63,2%. Tuy nhiên chỉ số nhà có muỗi Aedes là 57,6% 
cao hơn 11,63% so với nhóm chứng là 51,6%. 
20 
4.2 Hiệu quả tăng cường biện pháp kiểm soát véc tơ 
 Kiến thức đúng trong phòng chống bệnh SXHD tăng 
64,80% so với trước can thiệp (p<0,05) từ 57,1% tăng lên 94,1% 
và hiệu quả can thiệp đạt 55,38% so với nhóm chứng tỉ lệ này chỉ 
tăng 9,41% (p>0,05). Kết quả cũng cao hơn so với nghiên cứu tại 
Đồng Tháp (2006) tỉ lệ có kiến thức đúng là 50% và nghiên cứu 
tại Cần Thơ (2007) tỉ lệ có kiến thức đúng là 85%. Chỉ số hiệu 
quả cũng cao hơn so với nghiên cứu tại Bạc Liêu, can thiệp 
truyền thông sử dụng mô hình cộng tác viên và trường học tỉ lệ có 
kiến thức đúng tăng 15,8% so với trước can thiệp. 
 Chương trình can thiệp đã góp phần làm thay đổi thái độ 
đối với việc phòng chống bệnh SXHD, thái độ đúng sau can thiệp 
tăng 44,17% so với trước can thiệp (p<0,05) và hiệu quả can 
thiệp so với nhóm chứng đạt 42,02%, trong khi đó tỉ lệ này ở 
nhóm chứng trước và sau can thiệp không có sự thay đổi 
(p>0,05). Kết quả tương đương với so với nghiên cứu tại Bạc 
Liêu, tuy nhiên tác giả không tính đến hiệu quả can thiệp so với 
nhóm chứng. So với một số nghiên cứu can thiệp khác tại khu 
vực phía Nam thì kết quả nghiên cứu này cũng cao hơn. 
 Hệ quả của việc nâng cao kiến thức đúng trong phòng 
chống bệnh SXHD giúp người dân tin tưởng vào các biện pháp 
kiểm soát véc tơ, từ đó họ sẽ hành động để mang lại lợi ích cho 
chính hộ gia đình của mình. Kết quả cho thấy tỉ lệ thực hành đúng 
trong phòng chống bệnh SXHD tăng 170,21% so với trước can 
thiệp từ 32,9% tăng lên 88,9% (p<0,05) và hiệu quả can thiệp đạt 
166,85% so với xã chứng chỉ tăng 3,36% từ 35,7% tăng lên 
36,9% không có sự khác biệt về mặt ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
 Chương trình can thiệp đạt hiệu quả trong việc kiểm soát 
véc tơ thể hiện qua các chỉ số véc tơ SXHD điều tra tại hộ gia 
đình đã giảm sau can thiệp. Tại nhóm can thiệp tổng số DCCN có 
bọ gậy Aedes giảm 79,58 % và chỉ số CI% giảm 69,45% so với 
trước can thiệp (34,7% so với 10,6%) và chỉ số BI giảm 79,44% 
(107 so với 22). Trong khi cùng khoảng thời gian tại nhóm chứng 
chỉ số CI chỉ giảm 8,92% và chỉ số BI giảm 10,48%. Mặc dù, 
21 
nhóm can thiệp và nhóm chứng chỉ số CI và chỉ số BI đều giảm 
so với trước can thiệp. Tuy nhiên, kết quả so sánh giữa nhóm 
chứng và nhóm can thiệp đã chứng minh được hiệu quả thực sự 
mang lại từ chương trình can thiệp, cụ thể đối với chỉ số CI đạt 
60,53% và hiệu quả đối với chỉ số BI đạt 68,96%. So với hướng 
dẫn giám sát véc tơ SXHD của Bộ Y tế Việt Nam và hướng dẫn 
giám sát của Tổ chức Y tế Thế giới thì chỉ số BI của nghiên cứu 
(BI=22) thấp hơn nhiều so với ngưỡng cảnh báo nguy cơ xảy ra 
dịch SXHD (BI<50) và gần bằng với ngưỡng an toàn (BI<20). 
 Tổng số DCCN hữu ích được đậy nắp kín tăng 47,12% so 
với trước can thiệp và hiệu quả can thiệp so với nhóm chứng đạt 
54,91%, trong khi tại nhóm chứng tỉ lệ này chỉ giảm 7,8%. Sử 
dụng cá trong phòng chống véc tơ SXHD là một biện pháp vừa 
diệt bọ gậy vừa dự phòng nhiễm bọ gậy có hiệu quả lâu dài trong 
các dụng cụ trữ nước. Kết quả, tỉ lệ DCCN có thả cá tăng 
173,72% so với trước can thiệp và hiệu quả can thiệp đạt 
170,74% so với nhóm chứng tỉ lệ này chỉ tăng 2,99%. 
 Sau can thiệp người dân thường xuyên thực hành loại bỏ 
những DCCN không cần thiết, cũng như xử lý các DCLT và dọn 
dẹp DCPT. Nhìn chung, tổng số DCCN sau can thiệp đã giảm 
33,8% và hiệu quả can thiệp so với nhóm chứng đạt 26,3%. 
Trong đó, số lượng DCLT và DCPT sau can thiệp đã giảm 
32,81% so với nhóm chứng cùng thời điểm thì tỉ lệ này tăng 
5,07%. Thực hành bảo vệ DCCN của người dân đã giúp cho tỉ lệ 
DCCN hữu ích có bọ gậy Aedes giảm 86,48% và hiệu quả can 
thiệp đạt 77,77% so với nhóm chứng tỉ lệ này chỉ giảm 8,71%. 
 Trung gian truyền bệnh SXHD được phát hiện tại điểm 
nghiên cứu là muỗi Aedes aegypti chưa phát hiện sự có mặt của 
Aedes albopictus. Chỉ số nhà có muỗi Aedes đã giảm 74,48% và 
nhà có bọ gậy Aedes giảm xuống còn 19,1% so với trước can 
thiệp (p<0,05), hiệu quả can thiệp tương ứng đạt 64,21% và 
66,86%. So với nhóm chứng sau can thiệp, các tỉ lệ này chỉ giảm 
tương ứng là 10,27% và 2,53% (p>0,05). Chỉ số nhà có muỗi 
Aedes và nhà có bọ gậy Aedes cũng thấp hơn nhiều so với nghiên 
22 
cứu tại khu vực phía Nam, chỉ số nhà có muỗi Aedes trong 
khoảng 31,6% - 40% và nhà có bọ gậy Aedes từ 27,5% - 56,14%. 
Chi phí triển khai các hoạt động tại nhóm can thiệp là 50 
triệu đồng, trong đó hoạt động kiểm soát véc tơ dựa vào TTQ 
chiếm 30%, kiểm soát véc tơ dựa vào trường học 20%, chi phí 
truyền thông 30%, hoạt động chiến dịch diệt bọ gậy 10%, chi phí 
kiểm tra giám sát 5% và chi phí khác 5%. Hiện nay, tại khu vực 
phía Nam chi phí cho các hoạt động phòng chống bệnh SXHD 
bao gồm chi phí truyền thông, hoạt động cộng tác viên, chiến 
dịch diệt bọ gậy, hoạt động xử lý ổ dịch nhỏ, xử lý dịch diện rộng, 
công tác kiểm tra giám sát. Chỉ tính riêng hoạt động cộng tác 
viên, trung bình mỗi tỉnh/thành triển khai 10-12% xã với chi phí 
trả lương cho mỗi cộng tác viên là 100.000 đồng/1 tháng. Do đó, 
trung bình mỗi năm 1 xã triển khai hoạt động cộng tác viên tại 
Tiền Giang chỉ tính tiền lương cho cộng tác viên khoảng 48 triệu 
đồng (100.000 đồng/1 cộng tác viên/12 tháng), chưa tính chi phí 
khác, như tập huấn, kiểm tra giám sát và truyền thông. Như vậy, 
mô hình kiểm soát véc tơ dựa vào trường học và tổ tự quản của 
nghiên cứu này, nếu áp dụng triển khai nhân rộng cho các xã khác 
thì chi phí sẽ thấp hơn nhiều so với các mô hình có trả lương cho 
hoạt động kiểm soát véc tơ hàng tháng tại hộ gia đình. 
Phương pháp kiểm soát véc tơ hiệu quả phải huy động 
được cộng đồng tham gia, trong nghiên cứu này các hoạt động 
kiểm soát véc tơ được thực hiện bởi người dân (chủ hộ/đại diện 
cho hộ gia đình) và lực lượng học sinh. Tất cả biện pháp kiểm 
soát véc tơ được xây dựng dựa trên lựa chọn ưu tiên theo nhu cầu 
và điều kiện thực tế của địa phương nên được người dân ủng hộ 
và áp dụng. Các hoạt động triển khai đặc biệt quan tâm đến tính 
bao phủ trong cộng đồng, thực hiện ở tất cả các hộ gia đình. 
Hoạt động can thiệp đã thành công khi kết hợp với các 
hoạt động của nhà trường và TTQ. Cách thức tổ chức và triển 
khai các biện pháp kiểm soát véc tơ được chính quyền địa 
phương và ngành GD&ĐT rất quan tâm đã mang lại hiệu quả cao 
trong công tác phòng chống bệnh SXHD. 
23 
KẾT LUẬN 
Kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống bệnh sốt xuất 
huyết Dengue và các chỉ số véc tơ trước can thiệp: 
Đánh giá thực trạng trước can thiệp cho thấy kiến thức, 
thái độ và thực hành trong phòng chống bệnh sốt xuất huyết 
Dengue không có sự khác biệt giữa nhóm can thiệp và nhóm 
chứng và thấp hơn 65% (tương ứng là 57,1%; 64,3%; 32,9% so 
với 56,3%; 60,5%; 35,7%). Việc thực hiện các biện pháp phòng 
chống véc tơ qua kiểm tra thực tế còn thấp hơn với tỉ lệ dụng cụ 
chứa nước được đậy nắp kín chiếm 20,5% và tỉ lệ thả cá diệt bọ 
gậy là 9% (nhóm chứng tương ứng là 19,7% và 8,9%). 
Tại điểm nghiên cứu, chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy 
Aedes là 34,7% và chỉ số Breateau là 107 (nhóm chứng tương 
ứng là 37% và 105), chỉ số nhà có bọ gậy Aedes và nhà có muỗi 
Aedes là 62,4% và 57,6% (nhóm chứng tương ứng là 63,2% và 
51,6%). 
Hiệu quả biện pháp kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết Dengue: 
Mô hình kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết Dengue dựa vào 
cộng đồng đã giúp nâng cao ý thức của người dân và đã giảm có 
ý nghĩa các chỉ số vec tơ. 
Sau can thiệp, tỉ lệ dụng cụ chứa nước được đậy nắp kín 
tăng 47,12% và tỉ lệ thả cá diệt bọ gậy tăng 137,72%, hiệu quả 
can thiệp tương ứng đạt 54,91% và 170,74%. 
Chỉ số DCCN có bọ gậy Aedes giảm 69,45% và chỉ số 
Breateau giảm 79,44%, hiệu quả can thiệp tương ứng đạt 60,53% 
và 68,98%. Tỉ lệ nhà có bọ gậy Aedes giảm 69,39% và nhà có 
muỗi Aedes giảm 74,48%, hiệu quả can thiệp tương ứng đạt 
66,86% và 64,21%. 
24 
KIẾN NGHỊ 
1. Chính quyền địa phương cần quan tâm, chỉ đạo và giám 
sát chặt chẽ các hoạt động phối hợp của “Trường học - Trạm Y tế 
- Tổ tự quản”, đưa chỉ tiêu kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết 
Dengue vào hoạt động chung của tổ tự quản và trường học, lồng 
ghép với các hoạt động của các ban ngành đoàn thể, trong đó nêu 
rõ nhiệm vụ và quyền hạn của tổ tự quản và trường học, đồng 
thời nêu cao vai trò của cộng đồng trong việc xây dựng và triển 
khai kế hoạch kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết Dengue. 
2. Đối với các xã đã triển khai chương trình can thiệp cần 
duy trì các hoạt động kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết Dengue tại 
cộng đồng, tăng cường công tác xã hội hóa, huy động nhiều 
nguồn lực khác nhau để duy trì các biện pháp kiểm soát véc tơ. 
3. Các nghiên cứu tiếp theo có thể tham khảo kết quả đạt 
được và bài học kinh nghiệm của nghiên cứu này để xây dựng và 
triển khai các biện pháp can thiệp đạt được kết quả tốt hơn. 
i 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC 
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN 
1. Kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết Dengue trong 
trường học tại tỉnh Tiền Giang, 2012-2013. 
Đăng trên Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XXIII, số 
10 (146) 2013, trang 132-135, số đặc biệt “Hội nghị 
khoa học Y tế Dự phòng khu vực phía Nam năm 
2013 - Nghiên cứu vì sức khỏe cộng đồng”. 
2. Kiểm soát véc tơ sốt xuất huyết Dengue dựa vào tổ 
tự quản tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, năm 
2012-2013. 
Đăng trên Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XXIV, số 3 
(152) 2014, trang 56-60. 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_hieu_qua_bien_phap_kiem_soat_vec_to_sot_xuat_huyet_d.pdf