Luận án Nghiên cứu dặc điểm lâm sàng cận lâm sàng, kết quả kết hợp quân - Dân y phát hiện và quản lý lao phổi tại tỉnh Hà Giang

Bệnh lao là nguyên nhân thứ 2 gây tử vong trong các bệnh truyền

nhiễm, chỉ đứng sau HIV/AIDS, khoảng ¼ dân số thế giới bị nhiễm lao. Năm

2013, ước tính có khoảng 9 triệu trường hợp mắc lao mới và khoảng 1,1 triệu

người chết do lao [1], [2], [3]. Bệnh lao có tỷ lệ mắc và tử vong cao ở các

nước đang phát triển. Tỷ lệ mắc và tử vong cao hơn ở vùng sâu, vùng xa, nơi

có lực lượng y tế mỏng và yếu, nơi có điều kiện giao thông không thuận lợi,

dân trí thấp, điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, sống chật chội, dinh dưỡng

kém [4], [5], [6], [7], [8].

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2013, Việt Nam thuộc nhóm các

nước có gánh nặng bệnh lao cao, đứng 12/22 nước có có tình hình dịch tễ lao

cao nhất trên toàn cầu, đứng thứ 14 trong số 27 quốc gia có gánh nặng bệnh

lao kháng đa thuốc cao nhất thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực Châu Á-

Thái Bình Dương, chỉ sau Trung Quốc và Philippines [1], [2], [3].

Theo báo cáo của Chương trình chống lao Quốc gia năm 2013, tổng số

bệnh nhân lao các thể được phát hiện là 100.721 người và tỷ lệ phát hiện lao

các thể là 111,2/100.000 dân. Trong đó có 50.031 bệnh nhân lao phổi AFB

(+) mới chiếm 49,7%, tỷ lệ phát hiện lao phổi AFB (+) mới là 55,2/100.000

dân. Mục tiêu của Chương trình chống lao Quốc gia năm 2013 là tỷ lệ phát

hiện lao các thể là 110/100.000 dân và tỷ lệ điều trị khỏi cho bệnh nhân AFB

(+) mới trên 85% [9]. Phát hiện lao sớm đặc biệt quan trọng để phòng ngừa và

kiểm soát bệnh lao hiệu quả trong cộng đồng, làm giảm tỷ lệ lây lan và góp

phần thanh toán bệnh lao. Để tăng hiệu quả phát hiện lao sớm, nhiều quốc gia

trên thế giới và trong đó có Việt Nam đã triển khai mô hình phát hiện lao chủ

động thông qua chụp X- quang ngực chuẩn [10], [11], [12].

pdf 132 trang dienloan 6940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu dặc điểm lâm sàng cận lâm sàng, kết quả kết hợp quân - Dân y phát hiện và quản lý lao phổi tại tỉnh Hà Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu dặc điểm lâm sàng cận lâm sàng, kết quả kết hợp quân - Dân y phát hiện và quản lý lao phổi tại tỉnh Hà Giang

Luận án Nghiên cứu dặc điểm lâm sàng cận lâm sàng, kết quả kết hợp quân - Dân y phát hiện và quản lý lao phổi tại tỉnh Hà Giang
1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh lao là nguyên nhân thứ 2 gây tử vong trong các bệnh truyền 
nhiễm, chỉ đứng sau HIV/AIDS, khoảng ¼ dân số thế giới bị nhiễm lao. Năm 
2013, ước tính có khoảng 9 triệu trường hợp mắc lao mới và khoảng 1,1 triệu 
người chết do lao [1], [2], [3]. Bệnh lao có tỷ lệ mắc và tử vong cao ở các 
nước đang phát triển. Tỷ lệ mắc và tử vong cao hơn ở vùng sâu, vùng xa, nơi 
có lực lượng y tế mỏng và yếu, nơi có điều kiện giao thông không thuận lợi, 
dân trí thấp, điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, sống chật chội, dinh dưỡng 
kém [4], [5], [6], [7], [8]. 
 Theo Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2013, Việt Nam thuộc nhóm các 
nước có gánh nặng bệnh lao cao, đứng 12/22 nước có có tình hình dịch tễ lao 
cao nhất trên toàn cầu, đứng thứ 14 trong số 27 quốc gia có gánh nặng bệnh 
lao kháng đa thuốc cao nhất thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực Châu Á- 
Thái Bình Dương, chỉ sau Trung Quốc và Philippines [1], [2], [3]. 
Theo báo cáo của Chương trình chống lao Quốc gia năm 2013, tổng số 
bệnh nhân lao các thể được phát hiện là 100.721 người và tỷ lệ phát hiện lao 
các thể là 111,2/100.000 dân. Trong đó có 50.031 bệnh nhân lao phổi AFB 
(+) mới chiếm 49,7%, tỷ lệ phát hiện lao phổi AFB (+) mới là 55,2/100.000 
dân. Mục tiêu của Chương trình chống lao Quốc gia năm 2013 là tỷ lệ phát 
hiện lao các thể là 110/100.000 dân và tỷ lệ điều trị khỏi cho bệnh nhân AFB 
(+) mới trên 85% [9]. Phát hiện lao sớm đặc biệt quan trọng để phòng ngừa và 
kiểm soát bệnh lao hiệu quả trong cộng đồng, làm giảm tỷ lệ lây lan và góp 
phần thanh toán bệnh lao. Để tăng hiệu quả phát hiện lao sớm, nhiều quốc gia 
trên thế giới và trong đó có Việt Nam đã triển khai mô hình phát hiện lao chủ 
động thông qua chụp X- quang ngực chuẩn [10], [11], [12]. 
 Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, công tác phòng chống 
lao gặp nhiều khó khăn do đường xá hiểm trở, đi lại khó khăn, địa bàn rừng 
2 
núi, hầu hết các xã thuộc vùng sâu, vùng xa (trừ thành phố Hà Giang và một số 
thị trấn), địa bàn rộng, mật độ dân cư thưa, thu nhập bình quân thấp, tỷ lệ hộ 
nghèo cao, dân trí thấp [13]. Trên địa bàn tỉnh có 22 dân tộc anh em sinh sống, 
trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao (H’Mông: 32,98%; Tày: 
23,15%; Dao: 4,82%, Nùng: 10%). Hệ thống y tế cơ sở mỏng, nguồn lực và 
trang thiết bị y tế còn thiếu, nhiều xã còn chưa có trạm y tế. Năm 2013, tỉnh Hà 
Giang chỉ có 177/195 xã, phường, thị trấn, cơ quan xí nghiệp có trạm y tế [13], 
[14]. Trên địa bàn tỉnh Hà Giang, lực lượng bộ đội đội địa phương, bộ đội biên 
phòng, đoàn kinh tế quốc phòng đóng quân ở các huyện, địa bàn vùng sâu, 
vùng xa có nhiều cán bộ quân y thường trực, có thể đảm nhiệm khám chữa 
bệnh cho bộ đội và nhân dân theo Thông tư liên tịch số 08 ngày 16/3/2005 giữa 
Bộ Quốc phòng và Bộ Y tế [15]. 
Do đặc điểm khó khăn của tỉnh Hà Giang nên tỷ lệ phát hiện lao phổi 
của tỉnh còn thấp, năm 2013 lao phổi AFB (+) mới chỉ phát hiện được là 
54,6/100.000 dân, thấp hơn tỷ lệ phát hiện của cả nước [9]. Để làm tăng tỷ 
lệ phát hiện bệnh lao phổi ở tỉnh Hà Giang, từ năm 2013, Chương trình 
chống lao Quốc gia đã phối hợp với Học viện Quân y triển khai dự án tăng 
cường phát hiện lao tại tỉnh Hà Giang và một số địa bàn vùng sâu, vùng xa 
khác. Vì vậy, chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận 
lâm sàng, kết quả kết hợp quân- dân y phát hiện và quản lý lao phổi tại 
tỉnh Hà Giang” với mục tiêu: 
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh lao phổi tại tỉnh 
Hà Giang. 
2. Đánh giá kết quả kết hợp quân- dân y trong phát hiện và quản 
lý bệnh lao phổi tại tỉnh Hà Giang. 
3 
CHƯƠNG 1 
TỔNG QUAN 
1.1. TÌNH HÌNH BỆNH LAO TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 
1.1.1. Tình hình bệnh lao trên thế giới 
Bệnh lao là một trong 10 nguyên nhân hàng đầu gây bệnh và tàn phế. 
Trong các bệnh truyền nhiễm, lao là nguyên nhân tử vong thứ 2, chỉ sau 
HIV/AIDS. Khoảng một phần tư dân số thế giới bị nhiễm lao và có nguy cơ 
phát triển thành bệnh lao. Theo quy luật, một người bệnh (NB) lao có đờm 
AFB (+), không được điều trị thì gây ra 5-10 trường hợp nhiễm lao. Số ca lao 
phổi đờm AFB (+) chiếm 0,1% tỷ lệ lao toàn bộ (khoảng 100/100.000 NB 
lao). Khoảng 5-10% người nhiễm lao sẽ phát triển thành bệnh lao. Quá trình 
phát triển lao nhiễm sang lao bệnh từ 2- 4 năm, khoảng 2/3 trường hợp lao 
phổi đờm AFB (+) không điều trị sẽ tử vong trong vòng 5- 8 năm, chủ yếu tử 
vong trong 2 năm đầu tiên [16], [17]. 
Những người có nguy cơ mắc lao cao nhất là những người nhiễm HIV 
(cao gấp 28 lần người không nhiễm HIV trong vòng 25 tháng). Những nguy 
cơ khác là một số bệnh như đái tháo đường (ĐTĐ), bệnh bụi phổi, suy dinh 
dưỡng, hít khói (hút thuốc). Người Châu Á hút thuốc lá có tỷ lệ mắc lao cao, 
người Châu Phi suy dinh dưỡng có tỷ lệ mắc lao cao [4]. Bệnh lao đã tác động 
mạnh tới 70% đối tượng lao động chính của xã hội, làm giảm lực lượng sản 
xuất, giảm năng suất lao động. Bệnh lao là nguyên nhân chủ yếu làm đói 
nghèo dai dẳng và trở ngại đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Bệnh lao là 
bệnh của người nghèo, lây lan trong cộng đồng có điều kiện sống chật chội, 
thiếu vệ sinh, thông khí và dinh dưỡng kém. Các yếu tố nguy cơ của bệnh lao 
gồm: sức đề kháng miễn dịch, các yếu tố môi trường, kinh tế- xã hội và chủng 
tộc [7], [8]. 
4 
Bảng 1.1. Các yếu tố nguy cơ phát triển lao 
Các yếu tố nguy cơ 
nhiễm lao 
Nguy cơ chuyển lao nhiễm 
sang lao bệnh 
- Quốc gia tỷ lệ mắc lao cao; 
- Dân tộc thiểu số, người vô gia cư; 
- Người nghiện ma túy; 
- Người ở trại tập thể; 
- Người tiếp xúc lao; 
- Người cao tuổi, người du lịch đến 
nước có tỷ lệ mắc lao cao; 
- Nhân viên y tế (NVYT) tiếp xúc 
với người lao (bệnh lao nghề 
nghiệp); 
- Người tiếp xúc nhóm nguy cơ cao. 
- Người nhiễm HIV, tiêm chích ma tuý, 
ĐTĐ, nghiện rượu, suy giảm miễn dịch, 
điều trị corticoid kéo dài (>15mg 
prednisolon/ngày ≥ 2 tuần); 
- NB cắt dạ dày, suy dinh dưỡng, suy 
thận giai đoạn cuối ở NB lọc máu chu 
kỳ, bệnh bụi phổi silic, xạ trị; 
- Có thai, sau giai đoạn sinh nở; 
- Người cao tuổi, không được điều trị; 
- Chuyển test da với tuberculosis từ (-) 
sang (+). 
*Nguồn: Theo Long R. và cs (1999) [7]. 
Trên thế giới, bệnh lao đang có xu hướng giảm với tỷ lệ mới mắc giảm 
khoảng 2%/năm. Trong kế hoạch chiến lược giai đoạn 2011-2015, Tổ chức Y 
tế Thế giới (TCYTTG) đã đề ra mục tiêu phát là đến năm 2015 giảm 50% số 
người bệnh lao hiện mắc và tử vong so với năm 1990. Mục tiêu này có thể đạt 
được ở một số khu vực trên thế giới, tuy nhiên sẽ không đạt được ở khu vực 
Châu Phi vì liên quan đến tình hình dịch tễ HIV cao. Đối với khu vực Tây 
Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, mục tiêu này được đặt ra ở mức cao 
hơn do lấy chỉ số tham chiếu vào năm 2000 [2]. 
Trên toàn cầu, năm 2018, ước tính có 10,0 triệu người (9,0- 11,1 triệu 
người) bị bệnh lao, tương đương với 132 (118- 146)/100.000 dân. Hầu hết các 
trường hợp mắc mới năm 2018 là ở khu vực Đông Nam Á (44%), Châu Phi 
(24%) và Tây Thái Bình Dương (18%); chiếm tỷ lệ thấp hơn là ở Địa Trung 
Hải (8,0%), Châu Mỹ (3,0%) và Châu Âu (3,0%) (bảng 1.2) [8]. 
5 
Bảng 1.2. Tình hình bệnh lao trên thế giới năm 2018 
Khu vực 
Tỷ lệ hiện mắc lao 
(/100.000 dân) 
Tỷ lệ lao/HIV 
(/100.000 dân) 
Tỷ lệ KTC 95% Tỷ lệ 
KTC 95% 
Châu Phi 231 206–257 25 23–27 
Châu Mỹ 29 27–31 10 7,7–13 
Địa Trung Hải 115 91–142 0,86 0,36–1,6 
Châu Âu 28 24–32 12 7,5–16 
Đông Nam Á 220 175–271 3,2 2,4–4,1 
Tây Thái Bình Dương 96 79–114 2,2 1,2–3,5 
Toàn cầu 132 118–146 8,6 7,4–9,9 
*Nguồn: Theo Tổ chức Y tế Thế giới (2019) [8] 
Tỷ lệ bệnh lao giảm dần trong vòng hai thập kỷ qua là do giảm nguy cơ 
lây lan, giảm khả năng tiếp xúc của con người với bệnh lao và giảm độc tính 
của vi khuẩn. Theo TCYTTG, mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng kể 
trong công tác phòng chống lao (PCL), nhưng bệnh lao vẫn đang là một trong 
các vấn đề sức khoẻ cộng đồng trên toàn cầu. Tình hình dịch tễ lao kháng 
thuốc đang diễn biến phức tạp và đã xuất hiện ở hầu hết các quốc gia [3], [4]. 
Năm 2018, trên thế giới có 30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao, 
chiếm 87% các trường hợp mắc lao trên toàn thế giới và có 8 quốc gia có tỷ lệ 
bệnh lao chiếm 2/3 toàn cầu là Ấn Độ (27%), Trung Quốc (9%), Indonesia 
(8%), Philippines (6%), Pakistan (6%), Nigeria (4%), Bangladesh (4%) và 
Nam Phi (3%) (bảng 1.3) [8]. 
6 
Bảng 1.3. Tình hình bệnh lao ở 30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao 
Quốc gia 
Tỷ lệ hiện mắc lao 
(/100.000 dân) 
Tỷ lệ lao/HIV 
(/100.000 dân) 
Tỷ lệ KTC 95% Tỷ lệ KTC 95% 
Angola 355 230 –507 9,6 9,4–9,8 
Bangladesh 221 161–291 0,20 0,11– 0,32 
Brazil 45 39–52 11 11–12 
Cam Pu Chia 302 169–473 2,1 2,0 –2,3 
Cộng hòa Trung Phi 540 349–771 26 25–27 
Trung Quốc 61 52–70 2,0 1,2–3,2 
Congo 375 238–543 29 18–41 
CHDCND Triều Tiên 513 446–584 0,17 0,093– 0,27 
Cộng hòa Congo 321 208–458 11 3,9–22 
Ethiopia 151 107–204 4,6 4,5–4,7 
Ấn Độ 199 136–273 3,4 3,4–3,4 
Indonesia 316 288–345 2,5 1,1–4,5 
Kenya 292 179–432 27 27–27 
Lesotho 611 395–872 65 64–66 
Liberia 308 199–440 17 16–18 
Mozambique 551 356–787 36 35–36 
Myanmar 338 222–477 8,5 8,4–8,7 
Namibia 524 375–697 35 34–36 
Nigeria 219 143–311 12 12–12 
Pakistan 265 188–355 0,68 0,55– 0,82 
Papua New Guinea 432 352–521 7,3 7,0 –7,6 
Philippines 554 311–866 1,7 0,94–2,7 
Liên bang Nga 54 35–77 20 20 –20 
Sierra Leone 298 191–427 13 12–13 
Nam Phi 520 373–691 59 59–59 
Thái Lan 153 116–195 10 9,9–10 
Tanzania 253 119–435 28 28–28 
Việt Nam 182 116–263 3,4 3,3–3,5 
Zambia 346 225–493 59 59–60 
Zimbabwe 210 155–272 62 61–63 
Các nước có gánh nặng 
bệnh lao cao 
180 159–202 8,2 7,1–9,3 
*Nguồn: Theo Tổ chức Y tế Thế giới (2019) [8]. 
7 
Mức độ nghiêm trọng của dịch lao (tỷ lệ mới mắc) có sự khác nhau 
giữa các quốc gia. Có dưới 10/100.000 dân ở hầu hết các quốc gia có thu nhập 
cao, 150-400/100.000 dân ở các quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao và trên 
500/100.000 dân ở Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều 
Tiên, Lesotho, Mozambique, Namibia, Philippines và Nam Phi. Trong số 30 
quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao, có ba quốc gia có tỷ lệ hiện mắc thấp là 
Brazil, Trung Quốc và Liên bang Nga, ước tính là 45; 61 và 54/100.000 dân 
(bảng 1.3) [8]. 
Như vậy, trong nhiều năm qua, số người bệnh lao mới mắc giữa các 
khu vực trên thế giới có sự khác nhau rõ rệt, điều này phản ánh đến mức độ 
lưu hành, khả năng thanh toán bệnh lao giữa các khu vực là rất khác nhau. 
1.1.2. Tình hình bệnh lao ở Việt Nam 
 Việt Nam còn nằm trong nhóm các nước có gánh nặng bệnh lao trên 
toàn cầu, bệnh lao còn phổ biến ở mức độ trung bình cao. Ở phía Bắc, trong 
những năm từ 1957- 1975, theo điều tra dịch tễ của Bệnh viện (BV) Phổi 
Trung ương phối hợp với các địa phương: tỷ lệ nhiễm lao chung 40,29%. 
Năm 1986, điều tra nguy cơ nhiễm lao đã được tiến hành ở nhiều tỉnh cho 
thấy chỉ số nguy cơ nhiễm lao của cả nước khoảng 1,5% (1% cho các tỉnh 
phía Bắc, 2% cho các tỉnh phía Nam). Năm 2006- 2007, Chương trình chống 
lao Quốc gia (CTCLQG) đã tiến hành điều tra mắc lao trên toàn quốc 
(VINCOTB- 06- 07) thấy dịch tễ lao ở Việt Nam cao hơn 1,6 lần so với ước 
tính trước đây. Tỷ lệ mắc lao là 280/100.000 dân, tỷ lệ mắc lao các thể là 200, 
tỷ lệ mắc lao phổi AFB (+) mới là 99. Tỷ lệ hiện mắc lao phổi AFB (+) trên 
toàn quốc là 197 và tỷ lệ này ở khu vực miền núi là 134/100.000 dân. 
Lưu Thị Liên (2007) nghiên cứu phát hiện chủ động bệnh lao ở 20 xã, 
phường (11.624 người ≥15 tuổi) ở Hà Nội (10/2003- 3/2004), đã phát hiện 
được 22 trường hợp lao phổi, trong đó 20 NB là lao phổi mới (LPM) (15 NB 
là lao phổi AFB (+) và 5 NB là lao phổi AFB (-)); chỉ có 2 NB lao phổi tái 
8 
phát, không phát hiện được bệnh lao ngoài phổi. Tỷ lệ lao phổi là 
189/100.000 dân; Lao phổi AFB (+) là 146/100.000 dân; Lao phổi AFB (-) là 
43/100.000 dân. Về phương diện XQ phổi: tỷ lệ phát hiện có tổn thương nghi 
lao là 2,72%. LPM ở nam nhiều hơn nữ, khu vực ngoại thành cao hơn nội 
thành, mức độ vi khuẩn dương tính 1+ chiếm tỷ lệ cao nhất (68,29%) ở những 
NB LPM AFB (+). Theo dõi trong thời gian 1 năm đã ghi nhận được 8 NB 
lao tử vong. Ước tính tỷ lệ tử vong là: 4/100.000 dân [18]. 
Theo Lê Thanh Hải (2010), chỉ số nguy cơ nhiễm lao ở ngưỡng phản 
ứng Tuberculin trong da từ 10 mm trở lên (kể cả các trẻ có tiêm BCG) của 
nhóm trẻ 6- 8 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh là 3,30% (ngoại thành là 3,57% 
và nội thành là 3,13%). Học sinh nam có nguy cơ mắc lao chỉ bằng 94% so 
với học sinh nữ. Số trẻ được tiêm BCG có tỷ lệ nhiễm lao chỉ bằng 60% so 
với số trẻ không tiêm BCG, đặc biệt tại nội thành tỷ lệ này là 35% [19]. 
Năm 2011, theo báo cáo của TCYTTG, Việt Nam là nước đứng thứ 
12/22 nước có số NB lao mới mắc hàng năm cao nhất thế giới, đứng thứ 3 ở 
khu vực Tây Thái Bình Dương sau Trung Quốc và Philippines. Ước tính mỗi 
năm Việt Nam có khoảng 145.000 NB lao các loại, tương đương 189/100.000 
dân, trong đó NB lao AFB (+) là 65.000, tương đương 85/100.000 dân. Thực 
tế mỗi năm phát hiện được khoảng 90.000 NB lao các loại, trong đó khoảng 
60.000 NB ho khạc ra vi khuẩn lao, tương đương 70/100.000 dân. Lao phổi 
kết hợp với HIV ngày càng gia tăng. Từ trường hợp lao/HIV phát hiện đầu 
tiên vào năm 1998 cho đến nay tỷ lệ bệnh lao/HIV chiếm khoảng 3% tổng số 
NB lao. 
Việt Nam thuộc nhóm các nước có gánh nặng bệnh lao cao đã đạt được 
mục tiêu của TCYTTG là phát hiện trên 70% và điều trị khỏi trên 85% số NB 
là nguồn lây được phát hiện [9], [20], [21], [22], [23]. Việt Nam đã 9 năm liên 
tục đạt mục tiêu của TCYTTG về phát hiện và điều trị bệnh lao [24], [25]. 
9 
Nghiên cứu gần đây của Dương Đình Đức (2018) ở 213 người mắc lao 
phổi được quản lý tại Chương trình chống lao (CTCL) tỉnh Lai Châu (2011- 
2012) thấy tỷ lệ lao phổi có AFB (+) là 70%; đồng nhiễm lao/HIV (8,0%). Chủ 
yếu (97,6%) người mắc lao phổi được quản lý điều trị tại trạm y tế (TYT) [26]. 
1.1.3. Tình hình bệnh và hoạt động phòng chống lao tại Hà Giang 
Hà Giang là một tỉnh miền núi nằm ở cực bắc Việt Nam, là tỉnh có vị 
trí địa lý chính trị, quân sự chiến lược trọng yếu về quốc phòng và an ninh, 
diện tích 7.884 km2, có đường biên giới với Trung Quốc dài trên 277 km, có 
10 huyện, 1 thành phố, 195 xã phường, thị trấn. Dân số 778.958 người (năm 
2013), có 22 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc H’Mông chiếm đa 
số. Điều kiện tự nhiên rất khắc nghiệt, địa hình hiểm trở và chia cắt phức tạp 
nên giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn, điều kiện canh tác, tập quán sinh 
hoạt, trình độ dân trí ở mức thấp, hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao nên ảnh hưởng rất 
nhiều đến việc giáo dục truyền thông trong phòng chống, phát hiện và điều trị 
bệnh lao [13], [14]. CTCL tỉnh được thành lập từ năm 1991, nhưng lực lượng 
hoạt động PCL của tỉnh trong giai đoạn 2011- 2013 còn mỏng, trang thiết bị 
phục vụ cho chẩn đoán còn thô sơ, cán bộ phụ trách ở tuyến huyện là y sỹ nên 
càng gặp khó khăn cho công tác phát hiện và điều trị  ... iệp (NVYT của 
các phòng khám huyện hoặc BV sàng lọc, phát hiện những người tiếp xúc 
123 
trong HGĐ kết hợp với phát hiện lao thụ động) và nhóm đối chứng (phát hiện 
lao thụ động đơn thuần). Ở các huyện can thiệp, những người tiếp xúc trong gia 
đình của NB có AFB (+) được khám lâm sàng, chụp XQ ngực kể từ khi phát 
hiện và các thời điểm 6, 12 và 24 tháng. Kết quả cho thấy tại 70 quận, huyện 
nghiên cứu đã sàng lọc 25.707 người trong gia đình của 10.964 NB lao phổi 
AFB (+). Trong 36 quận, huyện ở nhóm can thiệp phát hiện 180/10.069 người 
mắc bệnh lao (1788/100.000 dân), so với 110/15.638 người mắc bệnh lao 
(703/100.000 dân) ở nhóm đối chứng (OR= 2,5; KTC 95%: 2,0- 3,2; 
p<0,001); nguy cơ tương đối AFB (+) ở những người tiếp xúc trong HGĐ 
trong nhóm can thiệp là 6,4 (KTC 95%: 4,5- 9,0; p<0,001). Các tác giả cho 
rằng điều tra tiếp xúc với HGĐ kết hợp với phát hiện lao thụ động có hiệu quả 
hơn so với phát hiện lao thụ động đơn thuần trong phát hiện bệnh lao [77]. 
Tại Philippines, dự án sàng lọc, phát hiện lao chủ động đã được triển 
khai bằng các đơn vị sàng lọc di động (mobile screening unit) được trang bị 
các thiết bị chẩn đoán như XQ ngực và Gene Xpert/MTB/RIF. Đích của dự 
án là người nghèo nông thôn, người nghèo thành thị, tù nhân, người bản địa 
và học sinh trung học. Morishita F. và cs (2017) hồi cứu dữ liệu sàng lọc bệnh 
lao từ 25.103 người thấy tỷ lệ được sàng lọc cao nhất và số lượng người tối 
thiểu cần phải sàng lọc (needed to screen) là tù nhân (6,2%; số người cần sàng 
lọc: 16), tiếp đến người bản địa (2,9%, số người cần sàng lọc: 34), người 
nghèo ở nông thôn (2,2%, số người cần sàng lọc: 45), người nghèo thành thị 
(2,1%, số người cần sàng lọc: 48) và học sinh trung học (0,2%, số người cần 
sàng lọc: 495). Tỷ lệ điều trị thành công cao (89,5%) ở những NB nhậy cảm 
với Rifampicin và (83,3%) ở những NB kháng Rifampicin. Triệu chứng ho >2 
tuần có mối liên quan với kết quả chẩn đoán lao ở (OR: 1,71- 6,73). Tỷ lệ XN 
đờm AFB (+) ở những người có triệu chứng ho >2 tuần cao nhất ở nhóm 
người nghèo thành thị (72,0%). Tỷ lệ XN đờm AFB (-) (Gene Xpert dương 
tính) ở nhóm NB không ho > hai tuần cao nhất ở người bản địa (39,3%), tiếp 
124 
theo là tù nhân (27,7%) và người nghèo ở nông thôn (22,8%). Các tác giả cho 
rằng chiến lược sử dụng các đơn vị sàng lọc di động đã phát hiện được số 
lượng đáng kể NB lao và đạt được kết quả điều trị thành công. Sàng lọc bệnh 
lao cho các tù nhân, người dân bản địa và cộng đồng nghèo ở thành thị và 
nông thôn là có hiệu quả. Sử dụng kết hợp XQ ngực và Gene Xpert đã góp 
phần làm tăng khả năng phát hiện các trường hợp bệnh lao [70]. 
Westhuizen G. V. và cs (2018) phân tích XQ ngực của QY Nam Phi trên 
2.371 quân nhân không có triệu chứng ở độ tuổi trên 40 thấy 29 người (1,2%) 
mắc bệnh lao [71]. Codlin A. J. và cs (2018) sàng lọc các trường hợp có triệu 
chứng XQ ngực bất thường bằng XN Gene Xpert MTB/RIF cho 2.068 người 
thấy tỷ lệ NB có AFB (+) là 319 người (15,4%) và có 574 người được chẩn 
đoán lâm sàng mắc bệnh lao. Trong các khu vực được sàng lọc phát hiện chủ 
động, tỷ lệ AFB (+) mới tăng +119,2% ở mọi lứa tuổi và tăng +262,7% ở 
những người từ 55 tuổi trở lên so với dự báo [72]. 
Nadiah Z. và cs (2020) sàng lọc 1.690 NB lao phổi bằng bảng câu hỏi, 
chụp XQ ngực, soi đờm, nuôi cấy vi khuẩn lao cho 74% số NB và Gene 
Xpert MTB/RIF cho 17,2% số NB thấy có 943 NB (55,8%) chẩn đoán mắc 
bệnh lao, trong đó 870 NB (92,3%) được chẩn đoán vi khuẩn học và 73 NB 
(7,7%) được chẩn đoán lâm sàng trên cơ sở XQ ngực. Các tác giả cho rằng sử 
dụng XQ ngực trước khi nuôi cấy hoặc XN Gene Xpert đã làm giảm số lượng 
NB cần phải sàng lọc từ 7,6 đến 5,0 lần, giảm số lượng các trường hợp bỏ lỡ 
và tăng hiệu quả của nuôi cấy vi khuẩn và XN Gene Xpert [76]. 
Để cải thiện việc chăm sóc bệnh lao cho các NB ở khu vực y tế tư nhân, 
Đỗ Thu Thương và cs (2020) đã triển khai huy động nguồn lực y tế tư nhân, 
bao gồm: (1) Sàng lọc chủ động các triệu chứng bệnh lao ở tất cả người trưởng 
thành (và chụp XQ ngực cho những người có triệu chứng lao), XN đờm tại chỗ 
hoặc vận chuyển mẫu đờm về nơi XN (2) sử dụng ứng dụng điện thoại di động 
để giảm tình trạng bỏ trị trong quá trình điều trị và (3) tăng cường theo dõi, 
125 
chăm sóc do NVYT cộng đồng. Các tác giả triển khai huy động nguồn lực y tế 
tư nhân để sàng lọc, chẩn đoán và điều trị lao ở 52.078 người thấy có 368 
người (0,7%) có các triệu chứng bệnh lao và các tổn thương trên XQ ngực. 
Trong số đó, có 299 người (81%) được XN và 103 người (34,4%) được chẩn 
đoán mắc bệnh lao. Ngoài ra, có 195 người có XQ ngực bình thường được chỉ 
định XN lao thì có 07 người được chẩn đoán mắc bệnh lao [112]. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 5 năm triển khai KHQDY, tỷ lệ phát 
hiện LPM ở các huyện can thiệp tăng từ 24,5 20,3/100.000 dân/năm (giai 
đoạn 2011- 2013) lên 32,3 26,7/100.000 dân/năm (giai đoạn 2014- 2018), 
(p<0,05). Tỷ lệ phát hiện LPM ở các huyện không can thiệp biến đổi không có 
ý nghĩa thống kê và dao động từ 5,5% đến 5,8%, (p>0,05). So sánh tỷ lệ phát 
hiện LPM ở hai giai đoạn thấy CSHQ của KHQDY đạt 31,8% và HQCT của 
KHQDY là 26,3% (bảng 3.45). 
Kết quả đạt được của KHQDY cũng tương tự như hiệu quả đạt được 
của một số mô hình can thiệp khác [26], [95], [110], [111]. 
Trịnh Hữu Hùng (2010) đánh giá HQCT bằng mô hình TT- GDSK tại 
tỉnh Thanh Hóa thấy tỷ lệ phát hiện lao cải thiện rõ rệt. Số người nghi lao đi 
khám bệnh: tại huyện Tĩnh Gia (nhóm can thiệp) tăng gấp 1,7 lần, trong khi 
đối tượng nghi lao đến khám tại huyện Nga Sơn (nhóm đối chứng) có tăng 
nhưng không đáng kể. Tỷ lệ người nghi lao đến khám/1000 dân tại huyện 
Tĩnh Gia tăng nhanh trong quá trình tiến hành can thiệp (1,8 lần), và tăng đều, 
ổn định đến sau quá trình can thiệp. Nhưng ở huyện Nga Sơn thì tỷ lệ này 
tăng giảm thất thường. Số người được thử đờm/1000 dân sau can thiệp của 
huyện Tĩnh Gia gấp 2,1 lần huyện Nga Sơn. Số NB LPM AFB (+) phát hiện 
sau can thiệp, ở Tĩnh Gia tăng 11%, trong khi ở Nga Sơn lại giảm 8,4%. Tỷ lệ 
NB có thay đổi về kiến thức và nhận thức tại huyện can thiệp đều cao hơn 
huyện đối chứng ở các mức độ khác nhau. Tỷ lệ NB có thay đổi về hành vi 
tìm kiếm DVYT theo chiều hướng tích cực tại huyện can thiệp đều cao hơn 
126 
huyện đối chứng. Thời gian chậm trễ được rút ngắn: đối tượng sau can thiệp 
của huyện Tĩnh Gia không chậm trễ trong tiếp cận DVYT tăng cao hơn 2 lần 
so với huyện Nga Sơn. Tỷ lệ chậm trễ dài của huyện Tĩnh Gia cũng giảm 
nhiều hơn huyện Nga Sơn 1,9 lần [95]. 
Nguyễn Trung Hòa và cs (2015) can thiệp cộng đồng bởi nhóm cộng 
tác viên qua biện pháp tiếp cận chủ động tại các HGĐ để tư vấn và tầm soát 
bệnh lao, KHYTC-T trong phát hiện, điều trị và theo dõi bệnh lao tại cộng 
đồng thấy tỷ lệ XN đờm tăng 75,1%, tỷ lệ phát hiện bệnh lao tăng 17,3%, tỷ 
lệ điều trị thành công tăng 9%, CSHQ: 10,8%, tỷ lệ bỏ trị giảm còn 0,5%, 
CSHQ: 93%, tỷ lệ tử vong giảm 0,3%, CSHQ: 10,3%). Như vậy, tăng cường 
tiếp cận chủ động để tư vấn và tầm soát bệnh lao, quản lý NB tại cộng đồng 
sẽ gia tăng phát hiện bệnh và điều trị thành công, giảm tỷ lệ bỏ trị từ đó sẽ 
giảm tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong vì bệnh lao [110]. 
Dương Đình Đức (2018) triển khai các giải pháp và hoạt động can thiệp 
nâng cao năng lực PCL của y tế cơ sở tỉnh Lai Châu thấy sau 01 năm can 
thiệp đã tăng khả năng khám phát hiện, điều trị lao phổi: Ở tuyến huyện: Số 
người nghi lao phổi đến khám tăng 1,2 lần, số lam XN đờm tăng 1,5 lần, số 
NB lao phổi AFB (+) mới tăng 1,2 lần và AFB (-) tăng 1,5 lần. Tỷ lệ điều trị 
khỏi tăng 34,5%. Ở tuyến xã: số người đến khám lao tại TYT tăng 1,2 lần; tỷ 
lệ điều trị khỏi tăng 39,5% [26]. 
Nguyễn Đình Tuấn và cs (2019) triển khai mô hình KHYTC-T để phát 
hiện lao phổi tại tỉnh Nam Định giai đoạn 2013- 2014 thấy tỷ lệ phát hiện lao 
phổi/100.000 dân tăng 14,1%, trong đó tỷ lệ phát hiện tại huyện tăng 47,7% 
so với trước can thiệp. Thời gian phát hiện bệnh giảm từ 1,27 tháng trước can 
thiệp xuống còn 0,64 tháng, trong đó tỷ lệ phát hiện < 1 tháng tăng từ 22,9% 
trước can thiệp lên 43,3%, CSHQ đạt 89,3%. Trước can thiệp, tổng số người 
bệnh lao phổi được phát hiện là 343 ca (46,0/100.000 dân). Sau can thiệp, 
tổng số người bệnh lao phổi được phát hiện tăng lên 395 ca (52,5/100.000 
127 
dân), CSHQ đạt 14,1%. Số người bệnh lao phổi được phát hiện tại huyện 
trước can thiệp là 183 ca, tương ứng tỷ lệ phát hiện 24,6/100.000 dân. Sau can 
thiệp, số NB lao phổi được phát hiện tại huyện tăng lên 273 ca, tương ứng tỷ 
lệ 36,3/100.000 dân, CSHQ đạt 47,7%. Các tác giả cho rằng mô hình 
KHYTC-T trong công tác PCL giúp tăng tỷ lệ phát hiện lao phổi và thời gian 
phát hiện bệnh sớm hơn; tỷ lệ phát hiện lao phổi (tổng số) lên 14,1%, đặc biệt 
tăng tỷ lệ phát hiện lao phổi tại huyện lên 47,7% so với trước can thiệp [111]. 
Để tăng cường hiệu quả sàng lọc phát hiện lao chủ động, Luan Nguyen 
Quang Vo và cs (2018) đã kết hợp công nghệ Geographic Information 
Systems (GIS) nhằm xác định khu vực địa lý có NB mắc lao để triển khai 
sàng lọc lao chủ động tại thành phố Hồ Chí Minh và thấy hiệu quả đáng kể 
trong phát hiện NB lao trong cộng đồng [75]. 
Sàng lọc bệnh lao trong cộng đồng có thể tạo ra kết quả cao, nhưng phụ 
thuộc vào việc NB hiểu biết tự bảo vệ sức khỏe thường trong giai đoạn tiến 
triển của bệnh và do đó có thể có tác động hạn chế đến việc lây truyền. Ngược 
lại, việc sàng lọc toàn bộ dân cư một cách bừa bãi và sàng lọc XQ ngực hàng 
loạt tạo ra phạm vi bao phủ rộng, nhưng thông thường mang lại kết quả chẩn 
đoán bệnh thấp [74], [93], [94]. 
Chúng tôi cho rằng XQ ngực là phương pháp sàng lọc lao trong cộng 
đồng phổ biến nhất được sử dụng. Ở các khu vực vùng sâu, vùng xa, nơi hạn 
chế về điều kiện phương tiện kỹ thuật thì XQ ngực chủ động thường là công 
cụ chẩn đoán hiệu quả nhất nhằm phát hiện các NB mắc lao mà không có điều 
kiện tiếp cận với các kỹ thuật y tế hiện đại. Tuy nhiên cũng có những thách 
thức liên quan đến việc sử dụng XQ ngực để chẩn đoán bệnh lao được thừa 
nhận rộng rãi nhưng không được ghi nhận rõ ràng. Đầu tiên là chất lượng của 
XQ ngực thường thấp trong bối cảnh điều kiện cơ sở vật chất khó khăn và có 
thể dẫn đến việc diễn giải sai kết quả chụp XQ. Thứ hai là sự nhận biết và giải 
thích các bất thường của XQ ngực là khác nhau và thường không nhất quán. 
128 
Thứ ba, các bất thường nhu mô trên XQ ngực thường không rõ ràng với bệnh 
lao và có thể chồng chéo với các bất thường do nhiễm trùng đường hô hấp 
dưới khác. Cuối cùng, XQ lồng ngực ít nhậy hơn trong việc phát hiện các bất 
thường bên trong lồng ngực liên quan đến bệnh lao so với các phương thức 
chẩn đoán hình ảnh khác [12], [76]. 
Tuy nhiên, trong điều kiện hạn chế về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, đi 
lại, trình độ dân trí còn thấp, việc đưa XQ ngực đến với người dân thực hiện 
phát hiện lao chủ động vẫn có những giá trị nhất định. Tại các khu vực biên 
giới, vùng núi cao như tỉnh Hà Giang, cộng đồng dân cư chủ yếu là đồng bào 
dân tộc, trình độ dân trí còn hạn chế, việc đi lại rất khó khăn, việc người dân 
chủ động tiếp cận các DVYT để KCB rất hạn chế. Đặc biệt đối với bệnh lao, 
các triệu chứng thường tiến triển âm thầm, mạn tính, người dân sẽ không đến 
các CSYT khi bệnh ở mức độ nhẹ và là nguồn lây cho cộng đồng. Tại khu 
vực này, các cơ sở chống lao dân y còn mỏng và cần sự hỗ trợ chuyên môn 
nhiều, do đó, KHQDY phát hiện lao chủ động bằng XQ ngực có ý nghĩa nhất 
định, góp phần hạn chế nguồn lây bệnh lao trong cộng đồng. 
129 
KẾT LUẬN 
 Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi xin rút ra kết luận như sau: 
1. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng bệnh lao phổi ở tỉnh 
Hà Giang giai đoạn 2014- 2018 
Đặc điểm dịch tễ: 
- Tuổi: Tuổi trung bình là 38,45 13,22 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 3,16/1,0. 
Dân tộc H’Mông 52,2%, Dân tộc Tày, Nùng, Dao 31,3%, Dân tộc Kinh và 
các DTTS lần lượt là 5,9% và 10,6%. 
- Nghề nghiệp: làm ruộng, nội trợ, tự do 92,5% 
- Trình độ học vấn: mù chữ 40,3%. 
Đặc điểm lâm sàng: 
- Lao phổi AFB (+) mới 70,3%, lao phổi AFB (-) mới 18,9%, lao phổi 
AFB (+) mới /HIV 0,3%, lao phổi ĐTL 10,6%. 
- Thời gian chậm trễ chẩn đoán là 6,41 4,80 tuần. Các yếu tố liên quan là 
phát hiện chủ động, nghề nghiệp, dân tộc và TĐHV (p<0,05- 0,01). 
- Các triệu chứng cơ năng thường gặp là gầy sút cân (94,6%), sốt 
(87,9%), đau ngực (87,1%), ho kéo dài (85,3%), ho có đờm (78,0%). Ho kéo 
dài ở nhóm LPM nhiều hơn so với nhóm lao phổi ĐTL. Ran ẩm, nổ kết hợp 
chiếm tỷ lệ nhiều nhất (50,9%). 
Đặc điểm cận lâm sàng: 
- 100% NB được soi đờm trực tiếp lần 1, trong đó AFB (+) là 67,2% và 
AFB (-) là 32,8%. Ở các lần soi trực tiếp lần 1 và lần 2, tỷ lệ AFB (+) ở các 
nhóm dân tộc H’Mông, nhóm Tày, Nùng, Dao và nhóm DTTS khác đều cao 
hơn so với nhóm dân tộc Kinh (p<0,05). 
- Trên XQ thấy đa số tổn thương hai phổi 74,2%, ở vùng đỉnh và vùng giữa 
phổi lần lượt là 66,8% và 73,2%, dạng thâm nhiễm 95,1%, xơ 55,4% và hang 
48,0%. Tổn thương xơ ở nhóm lao phổi ĐTL cao hơn nhóm LPM (p<0,05). 
130 
- 26,6% NB giảm số lượng hồng cầu, 47,5% NB giảm hàm lượng 
Hemoglobin và 42,1% tăng số lượng bạch cầu. 
2. Kết quả kết hợp quân- dân y phát hiện lao chủ động giai đoạn 
2014- 2018 
- KHQDY chụp XQ cho 7.206 người/15.232 người và phát hiện được 79 
trường hợp LPM. Tỷ lệ phát hiện phát hiện lao chủ động trên tổng số người 
chụp XQ trung bình trong 5 năm là (1,09%). Ước tính tỷ lệ phát hiện LPM ở 
người có triệu chứng ho, khạc đờm kéo dài > 2 tuần là 518,6/100.000 dân. 
- Tỷ lệ LPM phát hiện tại các huyện là 24,0/100.000 dân/năm. Tỷ lệ phát 
hiện LPM ở các huyện triển khai KHQDY (33,4/100.000 dân/năm) cao hơn so 
với các huyện không triển khai KHQDY (6,2/100.000 dân/năm). 
- Tỷ lệ LPM phát hiện chủ động so với tỷ lệ LPM tại tỉnh Hà Giang giai 
đoạn 2014- 2018 là 5,5%. 
- Sau 5 năm triển khai KHQDY, tỷ lệ phát hiện LPM ở các huyện can 
thiệp tăng từ 24,5 20,3/100.000 dân (2011- 2013) lên 32,3 26,7/100.000 dân, 
với (p<0,05). CSHQ của KHQDY là 31,8% và HQCT của KHQDY là 26,3%. 
131 
KIẾN NGHỊ 
1. Tiếp tục triển khai kết hợp quân- dân y trong phòng chống lao tại tỉnh 
Hà Giang và áp dụng cho các tỉnh vùng sâu, vùng xa và biên giới hải đảo khác 
nhằm tăng hiệu quả phát hiện lao phổi chủ động. Chú trọng công tác truyền 
thông- giáo dục sức khỏe và phối hợp y tế công tư trong phòng chống lao. 
2. Cần quan tâm hơn nữa đến người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người 
dân tộc H’Mông. Người có TĐHV thấp, nông dân vì đây là nhóm người dễ bị 
tổn thương. 
132 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 
1. (2020). Diagnostic delay and associated factors in pulmonary 
tuberculosis patients in Ha Giang province from 2014 to 2018, Journal of 
Military Pharmaco - medicine. 45(7): 102-107. 
2. (2020). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng lao phổi tại tỉnh Hà Giang 
giai đoạn 2014-2018, Tạp chí Y học Việt Nam. 495(1): 52-55. 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_ket_qua_ke.pdf
  • pdf2020.09.04.LA Le Huu Thang-PL1-5.pdf
  • pdfBia luan an.pdf
  • pdfDanh muc cac bang.pdf
  • pdfDanh muc cac bieu do.pdf
  • pdfDanh muc cac chu viet tat.pdf
  • pdfDanh muc cac hinh, so do.pdf
  • pdfLoi cam doan.pdf
  • pdfMuc luc.pdf
  • pdfPhu luc 6. Mau Benh an nghien cuu.pdf
  • pdfPhụ lục 8.pdf
  • pdfTai lieu tham khao day du.pdf
  • docThe new main finding of the thesis.doc
  • pdfThesis abstract Thang.pdf
  • pdfTom tat LA Thang.pdf
  • pdfTrang phu bia.pdf
  • docTrang thong tin luan an Thang.doc