Luận án Nghiên cứu dặc điểm lâm sàng cận lâm sàng, kết quả kết hợp quân - Dân y phát hiện và quản lý lao phổi tại tỉnh Hà Giang
Bệnh lao là nguyên nhân thứ 2 gây tử vong trong các bệnh truyền
nhiễm, chỉ đứng sau HIV/AIDS, khoảng ¼ dân số thế giới bị nhiễm lao. Năm
2013, ước tính có khoảng 9 triệu trường hợp mắc lao mới và khoảng 1,1 triệu
người chết do lao [1], [2], [3]. Bệnh lao có tỷ lệ mắc và tử vong cao ở các
nước đang phát triển. Tỷ lệ mắc và tử vong cao hơn ở vùng sâu, vùng xa, nơi
có lực lượng y tế mỏng và yếu, nơi có điều kiện giao thông không thuận lợi,
dân trí thấp, điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, sống chật chội, dinh dưỡng
kém [4], [5], [6], [7], [8].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2013, Việt Nam thuộc nhóm các
nước có gánh nặng bệnh lao cao, đứng 12/22 nước có có tình hình dịch tễ lao
cao nhất trên toàn cầu, đứng thứ 14 trong số 27 quốc gia có gánh nặng bệnh
lao kháng đa thuốc cao nhất thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương, chỉ sau Trung Quốc và Philippines [1], [2], [3].
Theo báo cáo của Chương trình chống lao Quốc gia năm 2013, tổng số
bệnh nhân lao các thể được phát hiện là 100.721 người và tỷ lệ phát hiện lao
các thể là 111,2/100.000 dân. Trong đó có 50.031 bệnh nhân lao phổi AFB
(+) mới chiếm 49,7%, tỷ lệ phát hiện lao phổi AFB (+) mới là 55,2/100.000
dân. Mục tiêu của Chương trình chống lao Quốc gia năm 2013 là tỷ lệ phát
hiện lao các thể là 110/100.000 dân và tỷ lệ điều trị khỏi cho bệnh nhân AFB
(+) mới trên 85% [9]. Phát hiện lao sớm đặc biệt quan trọng để phòng ngừa và
kiểm soát bệnh lao hiệu quả trong cộng đồng, làm giảm tỷ lệ lây lan và góp
phần thanh toán bệnh lao. Để tăng hiệu quả phát hiện lao sớm, nhiều quốc gia
trên thế giới và trong đó có Việt Nam đã triển khai mô hình phát hiện lao chủ
động thông qua chụp X- quang ngực chuẩn [10], [11], [12].
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu dặc điểm lâm sàng cận lâm sàng, kết quả kết hợp quân - Dân y phát hiện và quản lý lao phổi tại tỉnh Hà Giang
1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh lao là nguyên nhân thứ 2 gây tử vong trong các bệnh truyền nhiễm, chỉ đứng sau HIV/AIDS, khoảng ¼ dân số thế giới bị nhiễm lao. Năm 2013, ước tính có khoảng 9 triệu trường hợp mắc lao mới và khoảng 1,1 triệu người chết do lao [1], [2], [3]. Bệnh lao có tỷ lệ mắc và tử vong cao ở các nước đang phát triển. Tỷ lệ mắc và tử vong cao hơn ở vùng sâu, vùng xa, nơi có lực lượng y tế mỏng và yếu, nơi có điều kiện giao thông không thuận lợi, dân trí thấp, điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, sống chật chội, dinh dưỡng kém [4], [5], [6], [7], [8]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2013, Việt Nam thuộc nhóm các nước có gánh nặng bệnh lao cao, đứng 12/22 nước có có tình hình dịch tễ lao cao nhất trên toàn cầu, đứng thứ 14 trong số 27 quốc gia có gánh nặng bệnh lao kháng đa thuốc cao nhất thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, chỉ sau Trung Quốc và Philippines [1], [2], [3]. Theo báo cáo của Chương trình chống lao Quốc gia năm 2013, tổng số bệnh nhân lao các thể được phát hiện là 100.721 người và tỷ lệ phát hiện lao các thể là 111,2/100.000 dân. Trong đó có 50.031 bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới chiếm 49,7%, tỷ lệ phát hiện lao phổi AFB (+) mới là 55,2/100.000 dân. Mục tiêu của Chương trình chống lao Quốc gia năm 2013 là tỷ lệ phát hiện lao các thể là 110/100.000 dân và tỷ lệ điều trị khỏi cho bệnh nhân AFB (+) mới trên 85% [9]. Phát hiện lao sớm đặc biệt quan trọng để phòng ngừa và kiểm soát bệnh lao hiệu quả trong cộng đồng, làm giảm tỷ lệ lây lan và góp phần thanh toán bệnh lao. Để tăng hiệu quả phát hiện lao sớm, nhiều quốc gia trên thế giới và trong đó có Việt Nam đã triển khai mô hình phát hiện lao chủ động thông qua chụp X- quang ngực chuẩn [10], [11], [12]. Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, công tác phòng chống lao gặp nhiều khó khăn do đường xá hiểm trở, đi lại khó khăn, địa bàn rừng 2 núi, hầu hết các xã thuộc vùng sâu, vùng xa (trừ thành phố Hà Giang và một số thị trấn), địa bàn rộng, mật độ dân cư thưa, thu nhập bình quân thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, dân trí thấp [13]. Trên địa bàn tỉnh có 22 dân tộc anh em sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao (H’Mông: 32,98%; Tày: 23,15%; Dao: 4,82%, Nùng: 10%). Hệ thống y tế cơ sở mỏng, nguồn lực và trang thiết bị y tế còn thiếu, nhiều xã còn chưa có trạm y tế. Năm 2013, tỉnh Hà Giang chỉ có 177/195 xã, phường, thị trấn, cơ quan xí nghiệp có trạm y tế [13], [14]. Trên địa bàn tỉnh Hà Giang, lực lượng bộ đội đội địa phương, bộ đội biên phòng, đoàn kinh tế quốc phòng đóng quân ở các huyện, địa bàn vùng sâu, vùng xa có nhiều cán bộ quân y thường trực, có thể đảm nhiệm khám chữa bệnh cho bộ đội và nhân dân theo Thông tư liên tịch số 08 ngày 16/3/2005 giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Y tế [15]. Do đặc điểm khó khăn của tỉnh Hà Giang nên tỷ lệ phát hiện lao phổi của tỉnh còn thấp, năm 2013 lao phổi AFB (+) mới chỉ phát hiện được là 54,6/100.000 dân, thấp hơn tỷ lệ phát hiện của cả nước [9]. Để làm tăng tỷ lệ phát hiện bệnh lao phổi ở tỉnh Hà Giang, từ năm 2013, Chương trình chống lao Quốc gia đã phối hợp với Học viện Quân y triển khai dự án tăng cường phát hiện lao tại tỉnh Hà Giang và một số địa bàn vùng sâu, vùng xa khác. Vì vậy, chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả kết hợp quân- dân y phát hiện và quản lý lao phổi tại tỉnh Hà Giang” với mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh lao phổi tại tỉnh Hà Giang. 2. Đánh giá kết quả kết hợp quân- dân y trong phát hiện và quản lý bệnh lao phổi tại tỉnh Hà Giang. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. TÌNH HÌNH BỆNH LAO TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 1.1.1. Tình hình bệnh lao trên thế giới Bệnh lao là một trong 10 nguyên nhân hàng đầu gây bệnh và tàn phế. Trong các bệnh truyền nhiễm, lao là nguyên nhân tử vong thứ 2, chỉ sau HIV/AIDS. Khoảng một phần tư dân số thế giới bị nhiễm lao và có nguy cơ phát triển thành bệnh lao. Theo quy luật, một người bệnh (NB) lao có đờm AFB (+), không được điều trị thì gây ra 5-10 trường hợp nhiễm lao. Số ca lao phổi đờm AFB (+) chiếm 0,1% tỷ lệ lao toàn bộ (khoảng 100/100.000 NB lao). Khoảng 5-10% người nhiễm lao sẽ phát triển thành bệnh lao. Quá trình phát triển lao nhiễm sang lao bệnh từ 2- 4 năm, khoảng 2/3 trường hợp lao phổi đờm AFB (+) không điều trị sẽ tử vong trong vòng 5- 8 năm, chủ yếu tử vong trong 2 năm đầu tiên [16], [17]. Những người có nguy cơ mắc lao cao nhất là những người nhiễm HIV (cao gấp 28 lần người không nhiễm HIV trong vòng 25 tháng). Những nguy cơ khác là một số bệnh như đái tháo đường (ĐTĐ), bệnh bụi phổi, suy dinh dưỡng, hít khói (hút thuốc). Người Châu Á hút thuốc lá có tỷ lệ mắc lao cao, người Châu Phi suy dinh dưỡng có tỷ lệ mắc lao cao [4]. Bệnh lao đã tác động mạnh tới 70% đối tượng lao động chính của xã hội, làm giảm lực lượng sản xuất, giảm năng suất lao động. Bệnh lao là nguyên nhân chủ yếu làm đói nghèo dai dẳng và trở ngại đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Bệnh lao là bệnh của người nghèo, lây lan trong cộng đồng có điều kiện sống chật chội, thiếu vệ sinh, thông khí và dinh dưỡng kém. Các yếu tố nguy cơ của bệnh lao gồm: sức đề kháng miễn dịch, các yếu tố môi trường, kinh tế- xã hội và chủng tộc [7], [8]. 4 Bảng 1.1. Các yếu tố nguy cơ phát triển lao Các yếu tố nguy cơ nhiễm lao Nguy cơ chuyển lao nhiễm sang lao bệnh - Quốc gia tỷ lệ mắc lao cao; - Dân tộc thiểu số, người vô gia cư; - Người nghiện ma túy; - Người ở trại tập thể; - Người tiếp xúc lao; - Người cao tuổi, người du lịch đến nước có tỷ lệ mắc lao cao; - Nhân viên y tế (NVYT) tiếp xúc với người lao (bệnh lao nghề nghiệp); - Người tiếp xúc nhóm nguy cơ cao. - Người nhiễm HIV, tiêm chích ma tuý, ĐTĐ, nghiện rượu, suy giảm miễn dịch, điều trị corticoid kéo dài (>15mg prednisolon/ngày ≥ 2 tuần); - NB cắt dạ dày, suy dinh dưỡng, suy thận giai đoạn cuối ở NB lọc máu chu kỳ, bệnh bụi phổi silic, xạ trị; - Có thai, sau giai đoạn sinh nở; - Người cao tuổi, không được điều trị; - Chuyển test da với tuberculosis từ (-) sang (+). *Nguồn: Theo Long R. và cs (1999) [7]. Trên thế giới, bệnh lao đang có xu hướng giảm với tỷ lệ mới mắc giảm khoảng 2%/năm. Trong kế hoạch chiến lược giai đoạn 2011-2015, Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) đã đề ra mục tiêu phát là đến năm 2015 giảm 50% số người bệnh lao hiện mắc và tử vong so với năm 1990. Mục tiêu này có thể đạt được ở một số khu vực trên thế giới, tuy nhiên sẽ không đạt được ở khu vực Châu Phi vì liên quan đến tình hình dịch tễ HIV cao. Đối với khu vực Tây Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, mục tiêu này được đặt ra ở mức cao hơn do lấy chỉ số tham chiếu vào năm 2000 [2]. Trên toàn cầu, năm 2018, ước tính có 10,0 triệu người (9,0- 11,1 triệu người) bị bệnh lao, tương đương với 132 (118- 146)/100.000 dân. Hầu hết các trường hợp mắc mới năm 2018 là ở khu vực Đông Nam Á (44%), Châu Phi (24%) và Tây Thái Bình Dương (18%); chiếm tỷ lệ thấp hơn là ở Địa Trung Hải (8,0%), Châu Mỹ (3,0%) và Châu Âu (3,0%) (bảng 1.2) [8]. 5 Bảng 1.2. Tình hình bệnh lao trên thế giới năm 2018 Khu vực Tỷ lệ hiện mắc lao (/100.000 dân) Tỷ lệ lao/HIV (/100.000 dân) Tỷ lệ KTC 95% Tỷ lệ KTC 95% Châu Phi 231 206–257 25 23–27 Châu Mỹ 29 27–31 10 7,7–13 Địa Trung Hải 115 91–142 0,86 0,36–1,6 Châu Âu 28 24–32 12 7,5–16 Đông Nam Á 220 175–271 3,2 2,4–4,1 Tây Thái Bình Dương 96 79–114 2,2 1,2–3,5 Toàn cầu 132 118–146 8,6 7,4–9,9 *Nguồn: Theo Tổ chức Y tế Thế giới (2019) [8] Tỷ lệ bệnh lao giảm dần trong vòng hai thập kỷ qua là do giảm nguy cơ lây lan, giảm khả năng tiếp xúc của con người với bệnh lao và giảm độc tính của vi khuẩn. Theo TCYTTG, mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong công tác phòng chống lao (PCL), nhưng bệnh lao vẫn đang là một trong các vấn đề sức khoẻ cộng đồng trên toàn cầu. Tình hình dịch tễ lao kháng thuốc đang diễn biến phức tạp và đã xuất hiện ở hầu hết các quốc gia [3], [4]. Năm 2018, trên thế giới có 30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao, chiếm 87% các trường hợp mắc lao trên toàn thế giới và có 8 quốc gia có tỷ lệ bệnh lao chiếm 2/3 toàn cầu là Ấn Độ (27%), Trung Quốc (9%), Indonesia (8%), Philippines (6%), Pakistan (6%), Nigeria (4%), Bangladesh (4%) và Nam Phi (3%) (bảng 1.3) [8]. 6 Bảng 1.3. Tình hình bệnh lao ở 30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao Quốc gia Tỷ lệ hiện mắc lao (/100.000 dân) Tỷ lệ lao/HIV (/100.000 dân) Tỷ lệ KTC 95% Tỷ lệ KTC 95% Angola 355 230 –507 9,6 9,4–9,8 Bangladesh 221 161–291 0,20 0,11– 0,32 Brazil 45 39–52 11 11–12 Cam Pu Chia 302 169–473 2,1 2,0 –2,3 Cộng hòa Trung Phi 540 349–771 26 25–27 Trung Quốc 61 52–70 2,0 1,2–3,2 Congo 375 238–543 29 18–41 CHDCND Triều Tiên 513 446–584 0,17 0,093– 0,27 Cộng hòa Congo 321 208–458 11 3,9–22 Ethiopia 151 107–204 4,6 4,5–4,7 Ấn Độ 199 136–273 3,4 3,4–3,4 Indonesia 316 288–345 2,5 1,1–4,5 Kenya 292 179–432 27 27–27 Lesotho 611 395–872 65 64–66 Liberia 308 199–440 17 16–18 Mozambique 551 356–787 36 35–36 Myanmar 338 222–477 8,5 8,4–8,7 Namibia 524 375–697 35 34–36 Nigeria 219 143–311 12 12–12 Pakistan 265 188–355 0,68 0,55– 0,82 Papua New Guinea 432 352–521 7,3 7,0 –7,6 Philippines 554 311–866 1,7 0,94–2,7 Liên bang Nga 54 35–77 20 20 –20 Sierra Leone 298 191–427 13 12–13 Nam Phi 520 373–691 59 59–59 Thái Lan 153 116–195 10 9,9–10 Tanzania 253 119–435 28 28–28 Việt Nam 182 116–263 3,4 3,3–3,5 Zambia 346 225–493 59 59–60 Zimbabwe 210 155–272 62 61–63 Các nước có gánh nặng bệnh lao cao 180 159–202 8,2 7,1–9,3 *Nguồn: Theo Tổ chức Y tế Thế giới (2019) [8]. 7 Mức độ nghiêm trọng của dịch lao (tỷ lệ mới mắc) có sự khác nhau giữa các quốc gia. Có dưới 10/100.000 dân ở hầu hết các quốc gia có thu nhập cao, 150-400/100.000 dân ở các quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao và trên 500/100.000 dân ở Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Lesotho, Mozambique, Namibia, Philippines và Nam Phi. Trong số 30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao, có ba quốc gia có tỷ lệ hiện mắc thấp là Brazil, Trung Quốc và Liên bang Nga, ước tính là 45; 61 và 54/100.000 dân (bảng 1.3) [8]. Như vậy, trong nhiều năm qua, số người bệnh lao mới mắc giữa các khu vực trên thế giới có sự khác nhau rõ rệt, điều này phản ánh đến mức độ lưu hành, khả năng thanh toán bệnh lao giữa các khu vực là rất khác nhau. 1.1.2. Tình hình bệnh lao ở Việt Nam Việt Nam còn nằm trong nhóm các nước có gánh nặng bệnh lao trên toàn cầu, bệnh lao còn phổ biến ở mức độ trung bình cao. Ở phía Bắc, trong những năm từ 1957- 1975, theo điều tra dịch tễ của Bệnh viện (BV) Phổi Trung ương phối hợp với các địa phương: tỷ lệ nhiễm lao chung 40,29%. Năm 1986, điều tra nguy cơ nhiễm lao đã được tiến hành ở nhiều tỉnh cho thấy chỉ số nguy cơ nhiễm lao của cả nước khoảng 1,5% (1% cho các tỉnh phía Bắc, 2% cho các tỉnh phía Nam). Năm 2006- 2007, Chương trình chống lao Quốc gia (CTCLQG) đã tiến hành điều tra mắc lao trên toàn quốc (VINCOTB- 06- 07) thấy dịch tễ lao ở Việt Nam cao hơn 1,6 lần so với ước tính trước đây. Tỷ lệ mắc lao là 280/100.000 dân, tỷ lệ mắc lao các thể là 200, tỷ lệ mắc lao phổi AFB (+) mới là 99. Tỷ lệ hiện mắc lao phổi AFB (+) trên toàn quốc là 197 và tỷ lệ này ở khu vực miền núi là 134/100.000 dân. Lưu Thị Liên (2007) nghiên cứu phát hiện chủ động bệnh lao ở 20 xã, phường (11.624 người ≥15 tuổi) ở Hà Nội (10/2003- 3/2004), đã phát hiện được 22 trường hợp lao phổi, trong đó 20 NB là lao phổi mới (LPM) (15 NB là lao phổi AFB (+) và 5 NB là lao phổi AFB (-)); chỉ có 2 NB lao phổi tái 8 phát, không phát hiện được bệnh lao ngoài phổi. Tỷ lệ lao phổi là 189/100.000 dân; Lao phổi AFB (+) là 146/100.000 dân; Lao phổi AFB (-) là 43/100.000 dân. Về phương diện XQ phổi: tỷ lệ phát hiện có tổn thương nghi lao là 2,72%. LPM ở nam nhiều hơn nữ, khu vực ngoại thành cao hơn nội thành, mức độ vi khuẩn dương tính 1+ chiếm tỷ lệ cao nhất (68,29%) ở những NB LPM AFB (+). Theo dõi trong thời gian 1 năm đã ghi nhận được 8 NB lao tử vong. Ước tính tỷ lệ tử vong là: 4/100.000 dân [18]. Theo Lê Thanh Hải (2010), chỉ số nguy cơ nhiễm lao ở ngưỡng phản ứng Tuberculin trong da từ 10 mm trở lên (kể cả các trẻ có tiêm BCG) của nhóm trẻ 6- 8 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh là 3,30% (ngoại thành là 3,57% và nội thành là 3,13%). Học sinh nam có nguy cơ mắc lao chỉ bằng 94% so với học sinh nữ. Số trẻ được tiêm BCG có tỷ lệ nhiễm lao chỉ bằng 60% so với số trẻ không tiêm BCG, đặc biệt tại nội thành tỷ lệ này là 35% [19]. Năm 2011, theo báo cáo của TCYTTG, Việt Nam là nước đứng thứ 12/22 nước có số NB lao mới mắc hàng năm cao nhất thế giới, đứng thứ 3 ở khu vực Tây Thái Bình Dương sau Trung Quốc và Philippines. Ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 145.000 NB lao các loại, tương đương 189/100.000 dân, trong đó NB lao AFB (+) là 65.000, tương đương 85/100.000 dân. Thực tế mỗi năm phát hiện được khoảng 90.000 NB lao các loại, trong đó khoảng 60.000 NB ho khạc ra vi khuẩn lao, tương đương 70/100.000 dân. Lao phổi kết hợp với HIV ngày càng gia tăng. Từ trường hợp lao/HIV phát hiện đầu tiên vào năm 1998 cho đến nay tỷ lệ bệnh lao/HIV chiếm khoảng 3% tổng số NB lao. Việt Nam thuộc nhóm các nước có gánh nặng bệnh lao cao đã đạt được mục tiêu của TCYTTG là phát hiện trên 70% và điều trị khỏi trên 85% số NB là nguồn lây được phát hiện [9], [20], [21], [22], [23]. Việt Nam đã 9 năm liên tục đạt mục tiêu của TCYTTG về phát hiện và điều trị bệnh lao [24], [25]. 9 Nghiên cứu gần đây của Dương Đình Đức (2018) ở 213 người mắc lao phổi được quản lý tại Chương trình chống lao (CTCL) tỉnh Lai Châu (2011- 2012) thấy tỷ lệ lao phổi có AFB (+) là 70%; đồng nhiễm lao/HIV (8,0%). Chủ yếu (97,6%) người mắc lao phổi được quản lý điều trị tại trạm y tế (TYT) [26]. 1.1.3. Tình hình bệnh và hoạt động phòng chống lao tại Hà Giang Hà Giang là một tỉnh miền núi nằm ở cực bắc Việt Nam, là tỉnh có vị trí địa lý chính trị, quân sự chiến lược trọng yếu về quốc phòng và an ninh, diện tích 7.884 km2, có đường biên giới với Trung Quốc dài trên 277 km, có 10 huyện, 1 thành phố, 195 xã phường, thị trấn. Dân số 778.958 người (năm 2013), có 22 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc H’Mông chiếm đa số. Điều kiện tự nhiên rất khắc nghiệt, địa hình hiểm trở và chia cắt phức tạp nên giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn, điều kiện canh tác, tập quán sinh hoạt, trình độ dân trí ở mức thấp, hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao nên ảnh hưởng rất nhiều đến việc giáo dục truyền thông trong phòng chống, phát hiện và điều trị bệnh lao [13], [14]. CTCL tỉnh được thành lập từ năm 1991, nhưng lực lượng hoạt động PCL của tỉnh trong giai đoạn 2011- 2013 còn mỏng, trang thiết bị phục vụ cho chẩn đoán còn thô sơ, cán bộ phụ trách ở tuyến huyện là y sỹ nên càng gặp khó khăn cho công tác phát hiện và điều trị ... iệp (NVYT của các phòng khám huyện hoặc BV sàng lọc, phát hiện những người tiếp xúc 123 trong HGĐ kết hợp với phát hiện lao thụ động) và nhóm đối chứng (phát hiện lao thụ động đơn thuần). Ở các huyện can thiệp, những người tiếp xúc trong gia đình của NB có AFB (+) được khám lâm sàng, chụp XQ ngực kể từ khi phát hiện và các thời điểm 6, 12 và 24 tháng. Kết quả cho thấy tại 70 quận, huyện nghiên cứu đã sàng lọc 25.707 người trong gia đình của 10.964 NB lao phổi AFB (+). Trong 36 quận, huyện ở nhóm can thiệp phát hiện 180/10.069 người mắc bệnh lao (1788/100.000 dân), so với 110/15.638 người mắc bệnh lao (703/100.000 dân) ở nhóm đối chứng (OR= 2,5; KTC 95%: 2,0- 3,2; p<0,001); nguy cơ tương đối AFB (+) ở những người tiếp xúc trong HGĐ trong nhóm can thiệp là 6,4 (KTC 95%: 4,5- 9,0; p<0,001). Các tác giả cho rằng điều tra tiếp xúc với HGĐ kết hợp với phát hiện lao thụ động có hiệu quả hơn so với phát hiện lao thụ động đơn thuần trong phát hiện bệnh lao [77]. Tại Philippines, dự án sàng lọc, phát hiện lao chủ động đã được triển khai bằng các đơn vị sàng lọc di động (mobile screening unit) được trang bị các thiết bị chẩn đoán như XQ ngực và Gene Xpert/MTB/RIF. Đích của dự án là người nghèo nông thôn, người nghèo thành thị, tù nhân, người bản địa và học sinh trung học. Morishita F. và cs (2017) hồi cứu dữ liệu sàng lọc bệnh lao từ 25.103 người thấy tỷ lệ được sàng lọc cao nhất và số lượng người tối thiểu cần phải sàng lọc (needed to screen) là tù nhân (6,2%; số người cần sàng lọc: 16), tiếp đến người bản địa (2,9%, số người cần sàng lọc: 34), người nghèo ở nông thôn (2,2%, số người cần sàng lọc: 45), người nghèo thành thị (2,1%, số người cần sàng lọc: 48) và học sinh trung học (0,2%, số người cần sàng lọc: 495). Tỷ lệ điều trị thành công cao (89,5%) ở những NB nhậy cảm với Rifampicin và (83,3%) ở những NB kháng Rifampicin. Triệu chứng ho >2 tuần có mối liên quan với kết quả chẩn đoán lao ở (OR: 1,71- 6,73). Tỷ lệ XN đờm AFB (+) ở những người có triệu chứng ho >2 tuần cao nhất ở nhóm người nghèo thành thị (72,0%). Tỷ lệ XN đờm AFB (-) (Gene Xpert dương tính) ở nhóm NB không ho > hai tuần cao nhất ở người bản địa (39,3%), tiếp 124 theo là tù nhân (27,7%) và người nghèo ở nông thôn (22,8%). Các tác giả cho rằng chiến lược sử dụng các đơn vị sàng lọc di động đã phát hiện được số lượng đáng kể NB lao và đạt được kết quả điều trị thành công. Sàng lọc bệnh lao cho các tù nhân, người dân bản địa và cộng đồng nghèo ở thành thị và nông thôn là có hiệu quả. Sử dụng kết hợp XQ ngực và Gene Xpert đã góp phần làm tăng khả năng phát hiện các trường hợp bệnh lao [70]. Westhuizen G. V. và cs (2018) phân tích XQ ngực của QY Nam Phi trên 2.371 quân nhân không có triệu chứng ở độ tuổi trên 40 thấy 29 người (1,2%) mắc bệnh lao [71]. Codlin A. J. và cs (2018) sàng lọc các trường hợp có triệu chứng XQ ngực bất thường bằng XN Gene Xpert MTB/RIF cho 2.068 người thấy tỷ lệ NB có AFB (+) là 319 người (15,4%) và có 574 người được chẩn đoán lâm sàng mắc bệnh lao. Trong các khu vực được sàng lọc phát hiện chủ động, tỷ lệ AFB (+) mới tăng +119,2% ở mọi lứa tuổi và tăng +262,7% ở những người từ 55 tuổi trở lên so với dự báo [72]. Nadiah Z. và cs (2020) sàng lọc 1.690 NB lao phổi bằng bảng câu hỏi, chụp XQ ngực, soi đờm, nuôi cấy vi khuẩn lao cho 74% số NB và Gene Xpert MTB/RIF cho 17,2% số NB thấy có 943 NB (55,8%) chẩn đoán mắc bệnh lao, trong đó 870 NB (92,3%) được chẩn đoán vi khuẩn học và 73 NB (7,7%) được chẩn đoán lâm sàng trên cơ sở XQ ngực. Các tác giả cho rằng sử dụng XQ ngực trước khi nuôi cấy hoặc XN Gene Xpert đã làm giảm số lượng NB cần phải sàng lọc từ 7,6 đến 5,0 lần, giảm số lượng các trường hợp bỏ lỡ và tăng hiệu quả của nuôi cấy vi khuẩn và XN Gene Xpert [76]. Để cải thiện việc chăm sóc bệnh lao cho các NB ở khu vực y tế tư nhân, Đỗ Thu Thương và cs (2020) đã triển khai huy động nguồn lực y tế tư nhân, bao gồm: (1) Sàng lọc chủ động các triệu chứng bệnh lao ở tất cả người trưởng thành (và chụp XQ ngực cho những người có triệu chứng lao), XN đờm tại chỗ hoặc vận chuyển mẫu đờm về nơi XN (2) sử dụng ứng dụng điện thoại di động để giảm tình trạng bỏ trị trong quá trình điều trị và (3) tăng cường theo dõi, 125 chăm sóc do NVYT cộng đồng. Các tác giả triển khai huy động nguồn lực y tế tư nhân để sàng lọc, chẩn đoán và điều trị lao ở 52.078 người thấy có 368 người (0,7%) có các triệu chứng bệnh lao và các tổn thương trên XQ ngực. Trong số đó, có 299 người (81%) được XN và 103 người (34,4%) được chẩn đoán mắc bệnh lao. Ngoài ra, có 195 người có XQ ngực bình thường được chỉ định XN lao thì có 07 người được chẩn đoán mắc bệnh lao [112]. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 5 năm triển khai KHQDY, tỷ lệ phát hiện LPM ở các huyện can thiệp tăng từ 24,5 20,3/100.000 dân/năm (giai đoạn 2011- 2013) lên 32,3 26,7/100.000 dân/năm (giai đoạn 2014- 2018), (p<0,05). Tỷ lệ phát hiện LPM ở các huyện không can thiệp biến đổi không có ý nghĩa thống kê và dao động từ 5,5% đến 5,8%, (p>0,05). So sánh tỷ lệ phát hiện LPM ở hai giai đoạn thấy CSHQ của KHQDY đạt 31,8% và HQCT của KHQDY là 26,3% (bảng 3.45). Kết quả đạt được của KHQDY cũng tương tự như hiệu quả đạt được của một số mô hình can thiệp khác [26], [95], [110], [111]. Trịnh Hữu Hùng (2010) đánh giá HQCT bằng mô hình TT- GDSK tại tỉnh Thanh Hóa thấy tỷ lệ phát hiện lao cải thiện rõ rệt. Số người nghi lao đi khám bệnh: tại huyện Tĩnh Gia (nhóm can thiệp) tăng gấp 1,7 lần, trong khi đối tượng nghi lao đến khám tại huyện Nga Sơn (nhóm đối chứng) có tăng nhưng không đáng kể. Tỷ lệ người nghi lao đến khám/1000 dân tại huyện Tĩnh Gia tăng nhanh trong quá trình tiến hành can thiệp (1,8 lần), và tăng đều, ổn định đến sau quá trình can thiệp. Nhưng ở huyện Nga Sơn thì tỷ lệ này tăng giảm thất thường. Số người được thử đờm/1000 dân sau can thiệp của huyện Tĩnh Gia gấp 2,1 lần huyện Nga Sơn. Số NB LPM AFB (+) phát hiện sau can thiệp, ở Tĩnh Gia tăng 11%, trong khi ở Nga Sơn lại giảm 8,4%. Tỷ lệ NB có thay đổi về kiến thức và nhận thức tại huyện can thiệp đều cao hơn huyện đối chứng ở các mức độ khác nhau. Tỷ lệ NB có thay đổi về hành vi tìm kiếm DVYT theo chiều hướng tích cực tại huyện can thiệp đều cao hơn 126 huyện đối chứng. Thời gian chậm trễ được rút ngắn: đối tượng sau can thiệp của huyện Tĩnh Gia không chậm trễ trong tiếp cận DVYT tăng cao hơn 2 lần so với huyện Nga Sơn. Tỷ lệ chậm trễ dài của huyện Tĩnh Gia cũng giảm nhiều hơn huyện Nga Sơn 1,9 lần [95]. Nguyễn Trung Hòa và cs (2015) can thiệp cộng đồng bởi nhóm cộng tác viên qua biện pháp tiếp cận chủ động tại các HGĐ để tư vấn và tầm soát bệnh lao, KHYTC-T trong phát hiện, điều trị và theo dõi bệnh lao tại cộng đồng thấy tỷ lệ XN đờm tăng 75,1%, tỷ lệ phát hiện bệnh lao tăng 17,3%, tỷ lệ điều trị thành công tăng 9%, CSHQ: 10,8%, tỷ lệ bỏ trị giảm còn 0,5%, CSHQ: 93%, tỷ lệ tử vong giảm 0,3%, CSHQ: 10,3%). Như vậy, tăng cường tiếp cận chủ động để tư vấn và tầm soát bệnh lao, quản lý NB tại cộng đồng sẽ gia tăng phát hiện bệnh và điều trị thành công, giảm tỷ lệ bỏ trị từ đó sẽ giảm tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong vì bệnh lao [110]. Dương Đình Đức (2018) triển khai các giải pháp và hoạt động can thiệp nâng cao năng lực PCL của y tế cơ sở tỉnh Lai Châu thấy sau 01 năm can thiệp đã tăng khả năng khám phát hiện, điều trị lao phổi: Ở tuyến huyện: Số người nghi lao phổi đến khám tăng 1,2 lần, số lam XN đờm tăng 1,5 lần, số NB lao phổi AFB (+) mới tăng 1,2 lần và AFB (-) tăng 1,5 lần. Tỷ lệ điều trị khỏi tăng 34,5%. Ở tuyến xã: số người đến khám lao tại TYT tăng 1,2 lần; tỷ lệ điều trị khỏi tăng 39,5% [26]. Nguyễn Đình Tuấn và cs (2019) triển khai mô hình KHYTC-T để phát hiện lao phổi tại tỉnh Nam Định giai đoạn 2013- 2014 thấy tỷ lệ phát hiện lao phổi/100.000 dân tăng 14,1%, trong đó tỷ lệ phát hiện tại huyện tăng 47,7% so với trước can thiệp. Thời gian phát hiện bệnh giảm từ 1,27 tháng trước can thiệp xuống còn 0,64 tháng, trong đó tỷ lệ phát hiện < 1 tháng tăng từ 22,9% trước can thiệp lên 43,3%, CSHQ đạt 89,3%. Trước can thiệp, tổng số người bệnh lao phổi được phát hiện là 343 ca (46,0/100.000 dân). Sau can thiệp, tổng số người bệnh lao phổi được phát hiện tăng lên 395 ca (52,5/100.000 127 dân), CSHQ đạt 14,1%. Số người bệnh lao phổi được phát hiện tại huyện trước can thiệp là 183 ca, tương ứng tỷ lệ phát hiện 24,6/100.000 dân. Sau can thiệp, số NB lao phổi được phát hiện tại huyện tăng lên 273 ca, tương ứng tỷ lệ 36,3/100.000 dân, CSHQ đạt 47,7%. Các tác giả cho rằng mô hình KHYTC-T trong công tác PCL giúp tăng tỷ lệ phát hiện lao phổi và thời gian phát hiện bệnh sớm hơn; tỷ lệ phát hiện lao phổi (tổng số) lên 14,1%, đặc biệt tăng tỷ lệ phát hiện lao phổi tại huyện lên 47,7% so với trước can thiệp [111]. Để tăng cường hiệu quả sàng lọc phát hiện lao chủ động, Luan Nguyen Quang Vo và cs (2018) đã kết hợp công nghệ Geographic Information Systems (GIS) nhằm xác định khu vực địa lý có NB mắc lao để triển khai sàng lọc lao chủ động tại thành phố Hồ Chí Minh và thấy hiệu quả đáng kể trong phát hiện NB lao trong cộng đồng [75]. Sàng lọc bệnh lao trong cộng đồng có thể tạo ra kết quả cao, nhưng phụ thuộc vào việc NB hiểu biết tự bảo vệ sức khỏe thường trong giai đoạn tiến triển của bệnh và do đó có thể có tác động hạn chế đến việc lây truyền. Ngược lại, việc sàng lọc toàn bộ dân cư một cách bừa bãi và sàng lọc XQ ngực hàng loạt tạo ra phạm vi bao phủ rộng, nhưng thông thường mang lại kết quả chẩn đoán bệnh thấp [74], [93], [94]. Chúng tôi cho rằng XQ ngực là phương pháp sàng lọc lao trong cộng đồng phổ biến nhất được sử dụng. Ở các khu vực vùng sâu, vùng xa, nơi hạn chế về điều kiện phương tiện kỹ thuật thì XQ ngực chủ động thường là công cụ chẩn đoán hiệu quả nhất nhằm phát hiện các NB mắc lao mà không có điều kiện tiếp cận với các kỹ thuật y tế hiện đại. Tuy nhiên cũng có những thách thức liên quan đến việc sử dụng XQ ngực để chẩn đoán bệnh lao được thừa nhận rộng rãi nhưng không được ghi nhận rõ ràng. Đầu tiên là chất lượng của XQ ngực thường thấp trong bối cảnh điều kiện cơ sở vật chất khó khăn và có thể dẫn đến việc diễn giải sai kết quả chụp XQ. Thứ hai là sự nhận biết và giải thích các bất thường của XQ ngực là khác nhau và thường không nhất quán. 128 Thứ ba, các bất thường nhu mô trên XQ ngực thường không rõ ràng với bệnh lao và có thể chồng chéo với các bất thường do nhiễm trùng đường hô hấp dưới khác. Cuối cùng, XQ lồng ngực ít nhậy hơn trong việc phát hiện các bất thường bên trong lồng ngực liên quan đến bệnh lao so với các phương thức chẩn đoán hình ảnh khác [12], [76]. Tuy nhiên, trong điều kiện hạn chế về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, đi lại, trình độ dân trí còn thấp, việc đưa XQ ngực đến với người dân thực hiện phát hiện lao chủ động vẫn có những giá trị nhất định. Tại các khu vực biên giới, vùng núi cao như tỉnh Hà Giang, cộng đồng dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc, trình độ dân trí còn hạn chế, việc đi lại rất khó khăn, việc người dân chủ động tiếp cận các DVYT để KCB rất hạn chế. Đặc biệt đối với bệnh lao, các triệu chứng thường tiến triển âm thầm, mạn tính, người dân sẽ không đến các CSYT khi bệnh ở mức độ nhẹ và là nguồn lây cho cộng đồng. Tại khu vực này, các cơ sở chống lao dân y còn mỏng và cần sự hỗ trợ chuyên môn nhiều, do đó, KHQDY phát hiện lao chủ động bằng XQ ngực có ý nghĩa nhất định, góp phần hạn chế nguồn lây bệnh lao trong cộng đồng. 129 KẾT LUẬN Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi xin rút ra kết luận như sau: 1. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng bệnh lao phổi ở tỉnh Hà Giang giai đoạn 2014- 2018 Đặc điểm dịch tễ: - Tuổi: Tuổi trung bình là 38,45 13,22 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 3,16/1,0. Dân tộc H’Mông 52,2%, Dân tộc Tày, Nùng, Dao 31,3%, Dân tộc Kinh và các DTTS lần lượt là 5,9% và 10,6%. - Nghề nghiệp: làm ruộng, nội trợ, tự do 92,5% - Trình độ học vấn: mù chữ 40,3%. Đặc điểm lâm sàng: - Lao phổi AFB (+) mới 70,3%, lao phổi AFB (-) mới 18,9%, lao phổi AFB (+) mới /HIV 0,3%, lao phổi ĐTL 10,6%. - Thời gian chậm trễ chẩn đoán là 6,41 4,80 tuần. Các yếu tố liên quan là phát hiện chủ động, nghề nghiệp, dân tộc và TĐHV (p<0,05- 0,01). - Các triệu chứng cơ năng thường gặp là gầy sút cân (94,6%), sốt (87,9%), đau ngực (87,1%), ho kéo dài (85,3%), ho có đờm (78,0%). Ho kéo dài ở nhóm LPM nhiều hơn so với nhóm lao phổi ĐTL. Ran ẩm, nổ kết hợp chiếm tỷ lệ nhiều nhất (50,9%). Đặc điểm cận lâm sàng: - 100% NB được soi đờm trực tiếp lần 1, trong đó AFB (+) là 67,2% và AFB (-) là 32,8%. Ở các lần soi trực tiếp lần 1 và lần 2, tỷ lệ AFB (+) ở các nhóm dân tộc H’Mông, nhóm Tày, Nùng, Dao và nhóm DTTS khác đều cao hơn so với nhóm dân tộc Kinh (p<0,05). - Trên XQ thấy đa số tổn thương hai phổi 74,2%, ở vùng đỉnh và vùng giữa phổi lần lượt là 66,8% và 73,2%, dạng thâm nhiễm 95,1%, xơ 55,4% và hang 48,0%. Tổn thương xơ ở nhóm lao phổi ĐTL cao hơn nhóm LPM (p<0,05). 130 - 26,6% NB giảm số lượng hồng cầu, 47,5% NB giảm hàm lượng Hemoglobin và 42,1% tăng số lượng bạch cầu. 2. Kết quả kết hợp quân- dân y phát hiện lao chủ động giai đoạn 2014- 2018 - KHQDY chụp XQ cho 7.206 người/15.232 người và phát hiện được 79 trường hợp LPM. Tỷ lệ phát hiện phát hiện lao chủ động trên tổng số người chụp XQ trung bình trong 5 năm là (1,09%). Ước tính tỷ lệ phát hiện LPM ở người có triệu chứng ho, khạc đờm kéo dài > 2 tuần là 518,6/100.000 dân. - Tỷ lệ LPM phát hiện tại các huyện là 24,0/100.000 dân/năm. Tỷ lệ phát hiện LPM ở các huyện triển khai KHQDY (33,4/100.000 dân/năm) cao hơn so với các huyện không triển khai KHQDY (6,2/100.000 dân/năm). - Tỷ lệ LPM phát hiện chủ động so với tỷ lệ LPM tại tỉnh Hà Giang giai đoạn 2014- 2018 là 5,5%. - Sau 5 năm triển khai KHQDY, tỷ lệ phát hiện LPM ở các huyện can thiệp tăng từ 24,5 20,3/100.000 dân (2011- 2013) lên 32,3 26,7/100.000 dân, với (p<0,05). CSHQ của KHQDY là 31,8% và HQCT của KHQDY là 26,3%. 131 KIẾN NGHỊ 1. Tiếp tục triển khai kết hợp quân- dân y trong phòng chống lao tại tỉnh Hà Giang và áp dụng cho các tỉnh vùng sâu, vùng xa và biên giới hải đảo khác nhằm tăng hiệu quả phát hiện lao phổi chủ động. Chú trọng công tác truyền thông- giáo dục sức khỏe và phối hợp y tế công tư trong phòng chống lao. 2. Cần quan tâm hơn nữa đến người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người dân tộc H’Mông. Người có TĐHV thấp, nông dân vì đây là nhóm người dễ bị tổn thương. 132 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 1. (2020). Diagnostic delay and associated factors in pulmonary tuberculosis patients in Ha Giang province from 2014 to 2018, Journal of Military Pharmaco - medicine. 45(7): 102-107. 2. (2020). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng lao phổi tại tỉnh Hà Giang giai đoạn 2014-2018, Tạp chí Y học Việt Nam. 495(1): 52-55.
File đính kèm:
- luan_an_nghien_cuu_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_ket_qua_ke.pdf
- 2020.09.04.LA Le Huu Thang-PL1-5.pdf
- Bia luan an.pdf
- Danh muc cac bang.pdf
- Danh muc cac bieu do.pdf
- Danh muc cac chu viet tat.pdf
- Danh muc cac hinh, so do.pdf
- Loi cam doan.pdf
- Muc luc.pdf
- Phu luc 6. Mau Benh an nghien cuu.pdf
- Phụ lục 8.pdf
- Tai lieu tham khao day du.pdf
- The new main finding of the thesis.doc
- Thesis abstract Thang.pdf
- Tom tat LA Thang.pdf
- Trang phu bia.pdf
- Trang thong tin luan an Thang.doc