Luận án Nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật thông vách nhĩ thất bán phần
Thông vách nhĩ thất bán phần (partial atrioventricular septal defect – pAVSD) chiếm 80% tổng số bệnh thông vách nhĩ thất. Đây là bệnh tim bẩm sinh có tần suất tương đối thấp, chiếm tỉ lệ 20% tổng số bệnh thông liên nhĩ. Bệnh tim bẩm sinh thông liên nhĩ đứng hàng thứ tư sau thông liên thất, còn ống động mạch và tứ chứng Fallot [5]. Tổn thương giải phẫu cơ bản thông vách nhĩ thất bán phần gồm: thông liên nhĩ lỗ nguyên phát, hai bộ máy van nhĩ thất riêng biệt nằm trên một mặt phẳng, van hai lá (van nhĩ thất trái) có khe lá trước van hai lá có thể gây hở van, van 3 lá (van nhĩ thất phải) có thể hở van do khoảng trống giữa lá vách và lá trước van ba lá rộng. Trên thế giới, bệnh được gọi với nhiều thuật ngữ khác nhau như: thông sàn nhĩ thất bán phần hay kênh nhĩ thất bán phần (pAVC: partial atrioventricular canal), thông liên nhĩ lỗ tiên phát (ostium primum atrial septal defects), khiếm khuyết gối nội mạc (endocardial cushion defects) [5],[6],[7],[16],[18],[23],[66],[77], [83],[98].
Thông vách nhĩ thất được mô tả lần đầu tiên bởi Maude Abbott (1936) với 2 thể thông liên nhĩ lỗ tiên phát và thông vách nhĩ thất toàn phần. Roger và Edwards (1948) mô tả những nét tương đồng về tổn thương của hai thể này, sau đó Wakai và Edwards (1958) thống nhất gọi 2 thể bệnh này là thông vách nhĩ thất bán phần và thông vách nhĩ thất toàn phần theo thương tổn giải phẫu đặc trưng. Theo Kirlin (2013) [54], các tác giả Lev và Bharati mô tả chi tiết nút nhĩ thất, bó His trong bệnh lý thông vách nhĩ thất, đồng thời đưa ra khái niệm thông vách nhĩ thất thể trung gian (intermediate atrioventricular septal defect). Tuy nhiên mãi tới năm 1979 Gian Piero Piccoli và cộng sự (cs) nghiên cứu trên 114 ca thông vách nhĩ thất mới mô tả một cách chi tiết về vòng van, vách liên thất buồng nhận, sự dài hơn bình thường của đường thoát thất trái và sự thiểu sản các lá van [83].
Lillehei và cs (1954) phẫu thuật thành công trường hợp thông vách nhĩ thất đầu tiên, tiếp sau đó là Kirklin và cs (1955) mặc dù tỉ lệ tử vong khi đó lên tới 50%. Các biến chứng thường gặp sau phẫu thuật là block nhĩ thất hoàn toàn, hở van hai lá nặng, hẹp đường ra thất trái [55],[56],[60],[61],[88].
Trên thế giới, thông vách nhĩ thất đã được nghiên cứu từ khá lâu và đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên cũng còn những vấn đề chưa được thống nhất giữa các nhóm tác giả. Ví dụ như: đóng khe lá van nhĩ thất trái cho tất cả các bệnh nhân hay không khi sửa van hai lá? Stephan Aubert và cs (1974 – 2001) đã đóng khe van hai lá cho tất cả các bệnh nhân nghiên cứu (208 bệnh nhân)[15], El-Najdawi (2000) chỉ đóng khe van hai lá cho những trường hợp hở vừa và nặng, không đóng khe van hai lá ở các trường hợp không hở hoặc hở nhẹ trước mổ với quan điểm không hở thì không đóng và không cần thiết phải đóng toàn bộ chiều cao khe van nếu như van đã kín [34]. Vấn đề vá thông liên nhĩ như thế nào để tránh gây tổn thương nút nhĩ thất và bó His khi giải phẫu hệ thần kinh tim trong bệnh lý này có nhiều thay đổi so với bình thường. Leca, Neveux, Vouhe đề xuất kỹ thuật vá thông liên nhĩ để xoang vành sang trái sẽ giảm được tối đa nguy cơ trên [7]. Mavroudis C và Backer C.L. (2003) lại cho rằng dù để xoang vành qua phải hay qua trái cũng không cải thiện tỷ lệ biến chứng về dẫn truyền của tim [66].
Tại Việt nam, các trung tâm tim mạch như Bệnh viện Việt Đức, Viện Tim Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện tim Hà nội, Trung tâm tim mạch Bệnh viện E, Bệnh viện Trung ương Huế đã phẫu thuật thành công những trường hợp thông vách nhĩ thất bán phần đầu tiên. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào báo cáo đầy đủ về giải phẫu, sinh lý cũng như chẩn đoán và điều trị phẫu thuật bệnh lý này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật thông vách nhĩ thất bán phần” nhằm mục tiêu:
1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng thông vách nhĩ thất bán phần được phẫu thuật tại Bệnh viện Tim Hà Nội.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị thông vách nhĩ thất bán phần tại Bệnh viện Tim Hà Nội.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật thông vách nhĩ thất bán phần
ĐẶT VẤN ĐỀ Thông vách nhĩ thất bán phần (partial atrioventricular septal defect – pAVSD) chiếm 80% tổng số bệnh thông vách nhĩ thất. Đây là bệnh tim bẩm sinh có tần suất tương đối thấp, chiếm tỉ lệ 20% tổng số bệnh thông liên nhĩ. Bệnh tim bẩm sinh thông liên nhĩ đứng hàng thứ tư sau thông liên thất, còn ống động mạch và tứ chứng Fallot [5]. Tổn thương giải phẫu cơ bản thông vách nhĩ thất bán phần gồm: thông liên nhĩ lỗ nguyên phát, hai bộ máy van nhĩ thất riêng biệt nằm trên một mặt phẳng, van hai lá (van nhĩ thất trái) có khe lá trước van hai lá có thể gây hở van, van 3 lá (van nhĩ thất phải) có thể hở van do khoảng trống giữa lá vách và lá trước van ba lá rộng. Trên thế giới, bệnh được gọi với nhiều thuật ngữ khác nhau như: thông sàn nhĩ thất bán phần hay kênh nhĩ thất bán phần (pAVC: partial atrioventricular canal), thông liên nhĩ lỗ tiên phát (ostium primum atrial septal defects), khiếm khuyết gối nội mạc (endocardial cushion defects) [5],[6],[7],[16],[18],[23],[66],[77], [83],[98]. Thông vách nhĩ thất được mô tả lần đầu tiên bởi Maude Abbott (1936) với 2 thể thông liên nhĩ lỗ tiên phát và thông vách nhĩ thất toàn phần. Roger và Edwards (1948) mô tả những nét tương đồng về tổn thương của hai thể này, sau đó Wakai và Edwards (1958) thống nhất gọi 2 thể bệnh này là thông vách nhĩ thất bán phần và thông vách nhĩ thất toàn phần theo thương tổn giải phẫu đặc trưng. Theo Kirlin (2013) [54], các tác giả Lev và Bharati mô tả chi tiết nút nhĩ thất, bó His trong bệnh lý thông vách nhĩ thất, đồng thời đưa ra khái niệm thông vách nhĩ thất thể trung gian (intermediate atrioventricular septal defect). Tuy nhiên mãi tới năm 1979 Gian Piero Piccoli và cộng sự (cs) nghiên cứu trên 114 ca thông vách nhĩ thất mới mô tả một cách chi tiết về vòng van, vách liên thất buồng nhận, sự dài hơn bình thường của đường thoát thất trái và sự thiểu sản các lá van [83]. Lillehei và cs (1954) phẫu thuật thành công trường hợp thông vách nhĩ thất đầu tiên, tiếp sau đó là Kirklin và cs (1955) mặc dù tỉ lệ tử vong khi đó lên tới 50%. Các biến chứng thường gặp sau phẫu thuật là block nhĩ thất hoàn toàn, hở van hai lá nặng, hẹp đường ra thất trái [55],[56],[60],[61],[88][48],[58],[85],[93]. Trên thế giới, thông vách nhĩ thất đã được nghiên cứu từ khá lâu và đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên cũng còn những vấn đề chưa được thống nhất giữa các nhóm tác giả. Ví dụ như: đóng khe lá van nhĩ thất trái cho tất cả các bệnh nhân hay không khi sửa van hai lá? Stephan Aubert và cs (1974 – 2001) đã đóng khe van hai lá cho tất cả các bệnh nhân nghiên cứu (208 bệnh nhân)[15], El-Najdawi (2000) chỉ đóng khe van hai lá cho những trường hợp hở vừa và nặng, không đóng khe van hai lá ở các trường hợp không hở hoặc hở nhẹ trước mổ với quan điểm không hở thì không đóng và không cần thiết phải đóng toàn bộ chiều cao khe van nếu như van đã kín [34]. Vấn đề vá thông liên nhĩ như thế nào để tránh gây tổn thương nút nhĩ thất và bó His khi giải phẫu hệ thần kinh tim trong bệnh lý này có nhiều thay đổi so với bình thường. Leca, Neveux, Vouhe đề xuất kỹ thuật vá thông liên nhĩ để xoang vành sang trái sẽ giảm được tối đa nguy cơ trên [7]. Mavroudis C và Backer C.L. (2003) lại cho rằng dù để xoang vành qua phải hay qua trái cũng không cải thiện tỷ lệ biến chứng về dẫn truyền của tim [66]. Tại Việt nam, các trung tâm tim mạch như Bệnh viện Việt Đức, Viện Tim Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện tim Hà nội, Trung tâm tim mạch Bệnh viện E, Bệnh viện Trung ương Huế đã phẫu thuật thành công những trường hợp thông vách nhĩ thất bán phần đầu tiên. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào báo cáo đầy đủ về giải phẫu, sinh lý cũng như chẩn đoán và điều trị phẫu thuật bệnh lý này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật thông vách nhĩ thất bán phần” nhằm mục tiêu: 1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng thông vách nhĩ thất bán phần được phẫu thuật tại Bệnh viện Tim Hà Nội. 2. Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị thông vách nhĩ thất bán phần tại Bệnh viện Tim Hà Nội. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. Phôi thai học và tổn thương giải phẫu bệnh thông vách nhĩ thất 1.1.1. Sự phát triển của gối nội mạc (endocardial cushion) Giai đoạn phôi thai, vào tuần lễ thứ 4 thứ 5 của thai kỳ (khoảng 28 – 37 ngày) khi phôi đạt chiều dài 5 – 16mm, có sự chuyển cấu trúc dạng ống sang cấu trúc 4 buồng của tim nhờ 4 yếu tố là sự ngăn tâm nhĩ và biệt hóa vách liên nhĩ, sự ngăn tâm thất, sự phát triển gối nội mạc, và sự ngăn thân nón động mạch. Các nghiên cứu về phôi thai học thấy sự liên quan đến bệnh lý này nhiều nhất là rối loạn sự phát triển của gối nội mạc [11],[54],[59] (hình 1.1). Sự phát triển của ống nhĩ thất nhờ vào sự phát triển và biệt hóa của gối nội mạc và gối lưng phải (dextrodorsal cushion). Gối nội mạc có cấu trúc gồm 4 phần: trên, dưới, bên trái và bên phải. Phần trên và dưới của gối nội mạc phát triển sớm nhất, tiếp đến là phần trái và phải, sau đó đến gối lưng phải. Trong quá trình phát triển phôi thai các bộ phận trên phát triển tạo thành các van nhĩ thất và một phần vách ngăn buồng tim (Hình 1.1). Khi nửa trái và nửa phải của ống nhĩ thất phát triển biệt hóa riêng tạo thành cấu trúc van nhĩ thất, ống nhĩ thất chung chia thành 2 lỗ van riêng rẽ. Sau đó lá trước van 2 lá được hình thành từ phần trên và nửa trái phần dưới của ống nhĩ thất, lá sau van 2 lá hình thành từ nửa trái bên của ống nhĩ thất. Lá trước van 3 lá hình thành từ phần phải bên, lá sau van 3 lá hình thành từ phần phải bên, lá vách hình thành từ nửa phải phần dưới của ống nhĩ thất [11],[54],[66],[59],[72]. Hình 1.1. Sự phát triển của gối nội mạc 1. Venous valves: van tĩnh mạch; 2. Septum primum: vách nguyên phát; 3. Ostium secundum: lỗ thứ phát; 4. Septum secundum: vách thứ phát; 5. Pulmonary veins: tĩnh mạch phổi; 6. Endocardial cushions: gối nội mạc; 7. Interventricular foramen: lỗ liên thất; 8. Muscular interventricular septum: vách liên thất phần cơ; 9. Foramen ovale: lỗ bầu dục; 10: Membranous interventricular septum: vách liên thất phần màng. Right lateral cushion: gối bên phải; Interventricular septum: vách liên thất; Inferior endocardial cushion: gối nội mạc dưới; left lateral cushion: gối bên trái; Right dorsal conus swelling: gối lưng phải. *Nguồn: theo Atlas of Human Embryology (1995), [28] 1.1.2. Sự hình thành thương tổn giải phẫu bệnh thông vách nhĩ thất dưới góc nhìn của phôi thai học 1.1.2.1. Thông vách nhĩ thất toàn phần Thông vách nhĩ thất toàn phần được hình thành giai đoạn bào thai do sự biệt hóa và phát triển bất thường của gối nội mạc ở mức độ nặng tạo các tổn thương đặc trưng đó là: - Không có sự phân chia 2 van nhĩ thất riêng biệt, do vậy chỉ có 1 bộ máy van chung với 5 hoặc 6 lá van bất thường. - Không có sự lấp đầy lỗ thông liên nhĩ nguyên phát, do vậy tạo ra lỗ thông liên nhĩ kiểu lỗ nguyên phát. Không tiếp hợp được với phần cơ vách liên thất tạo ra thông liên thất [11],[59],[66]. 1.1.2.2. Thông vách nhĩ thất bán phần (hình 1.2) Bệnh hình thành trong giai đoạn bào thai do gối nội mạc phát triển và biệt hóa bất thường ở mức độ nhẹ hơn tạo ra các thương tổn cơ bản đặc trưng gồm: - Thông liên nhĩ lỗ nguyên phát. - Hai bộ máy van nhĩ thất riêng biệt nằm trên một mặt phẳng. Van hai lá (van nhĩ thất trái) có khe lá trước van 2 lá (cleft hay fente). - Rộng mép van giữa lá trước và lá vách van 3 lá một số tác giả gọi là khe lá vách (cleft of septal tricuspid leaflet), tùy mức độ có thể gây hở van 3 lá nhiều hay ít. Hình 1.2. Sơ đồ thông vách nhĩ thất bán phần Sup. Vena cava: tĩnh mạch chủ trên; Pulmonary veins: các tĩnh mạch phổi; L. Auricular appendage: tiểu nhĩ trái; Cleft in ant.leaflet of mitral valve: khe lá trước van hai lá; Inf.Vena cava: tĩnh mạch chủ dưới; Tricuspid valve: van ba lá. * Nguồn: theo Gahagan T. (1967) [38] 1.1.2.3 Tổn thương phối hợp khác Sự rối loạn hình thành vách liên nhĩ còn tạo ra các kiểu thông liên nhĩ khác phối hợp với thông liên nhĩ lỗ nguyên phát trong bệnh cảnh thông vách nhĩ thất bán phần. - Tồn tại lỗ bầu dục và ống động mạch: Khi trẻ ra đời tuần hoàn phổi hoạt động, áp lực trong 2 tâm nhĩ sẽ ngược lại với thời kỳ bào thai. Áp lực nhĩ trái cao lên làm cân bằng áp lực của 2 buồng nhĩ tạo thuận lợi cho vách nguyên phát đẩy sát kín lỗ nguyên phát. Thay đổi áp lực các buồng tim và động mạch sau sinh làm ống động mạch dần đóng lại. Vì một lý do nào đó có sự đóng kín không hoàn toàn cấu trúc của thời kỳ bào thai này dẫn đến còn tồn tại lỗ bầu dục và ống động mạch. - Thông liên nhĩ kiểu lỗ thứ phát: Do rối loạn phát triển của vách thứ phát không che kín được lỗ thứ phát. - Tâm nhĩ chung (common atria): Do bất sản hoàn toàn vách liên nhĩ.Tổn thương bệnh học thông vách nhĩ thất bán phần cũng như toàn phần còn có thể kèm thêm các tổn thương khác như: tồn tại tĩnh mạch chủ trên trái (persitent of left superior vena cava), tứ chứng Fallot (tetralogy of Fallot), thất phải hai đường ra (double outlet of right ventricle), hẹp van động mạch phổi (pulmonary valve stenosis), teo van ba lá (tricuspid valve atresia), hẹp eo động mạch chủ (aortic coarctation), thiểu sản thất trái (left ventricular hypoplasia) đặc biệt thường kết hợp các bệnh về nhiễm sắc thể như hội chứng Down. Có tới 40% trẻ bị hội chứng Down bị mắc các bệnh tim bẩm sinh [5],[6],[8],[54],[66],[61],[74],[77]. 1.1.3. Giải phẫu bệnh thông vách nhĩ thất bán phần 1.1.3.1. Thông liên nhĩ lỗ nguyên phát: Luôn có thông liên nhĩ lỗ nguyên phát có thể lớn hoặc nhỏ khác nhau (Hình 1.2). Thông liên nhĩ lớn thường gây tăng tuần hoàn phổi và tăng áp lực động mạch phổi (ĐMP) sớm, TLN lỗ nhỏ ít gây rối loạn huyết động trong một thời gian dài [4],[52],[54],[66],[77]. 1.1.3.2. Khe trước van nhĩ thất trái - Van nhĩ thất trái hay van hai lá thường có khe ở lá trước (Cleft of anterior mitral valve) (Hình 1.2), khe có thể chiếm hết chiều dài lá trước hoặc một phần. - Van hai lá có thể có 2 lỗ van (double orifice mitral valve) (hình 1.3): hiếm gặp khoảng 2 – 9% trường hợp thông vách nhĩ thất, tuy hiếm gặp song đây là tổn thương rất quan trọng trong chẩn đoán và điều trị phẫu thuật [11],[51],[54],[83],[84]. Hình 1.3.Van nhĩ thất trái hai lỗ PT: Thân động mạch phổi; A: Động mạch chủ; LA: Thất trái; Double orifice LAVV: van nhĩ thất trái 2 lỗ; ICV: Tĩnh mạch chủ dưới. * Nguồn: theo Allen H.D. (2008) [11] 1.1.3.3. Van nhĩ thất phải Giãn vòng van do giãn thất phải, thường có rộng khe van giữa lá trước và lá vách van 3 lá một số tác giả gọi là khe lá vách (cleft of septal tricuspid leaflet), tùy mức độ có thể gây hở van 3 lá nhiều hay ít qua chỗ này. Van nhĩ thất phải có thể có 2 lỗ (double orifice tricuspid valve) là hình thái tổn thương hiếm gặp trong bệnh thông vách nhĩ thất [11],[84],[99]. 1.1.3.4. Biến đổi về mô van Mô van 2 lá và 3 lá có thể bị thiểu sản ở nhiều mức độ khác nhau, thiểu sản càng nhiều thì phẫu thuật sửa chữa càng khó khăn. Do vậy, đây là một yếu tố để tiên lượng sự thành công hay thất bại của kỹ thuật sửa van. Mặt khác, luồng máu phụt ngược trong thì tâm thu qua chỗ khe van 2 lá cũng làm cho mép van tổn thương tăng thêm. Hậu quả mô van dày lên, mép van cuộn lại làm cho hở van càng trầm trọng hơn do vậy khi đóng khe van này dễ gây thiếu mô van [3],[29],[32],[76],[85],[99]. 1.1.3.5. Đặc điểm vòng van nhĩ thất trong bệnh thông vách nhĩ thất bán phần Đặc điểm vòng van trong bệnh thông vách nhĩ thất bán phần: Với van hai lá bình thường (van nhĩ thất trái), lá trước chiếm 1/3 chu vi vòng van. Vòng van hai lá bám về phía nhĩ trái và không cùng nằm trên mặt phẳng với vòng van ba lá. Trong bệnh thông vách nhĩ thất bán phần, lá trước chiếm tới 2/3 chu vi vòng van. Vòng van hai lá bám thấp hơn về phía mỏm tim và cùng nằm trên mặt phẳng với vòng van ba lá (hình 1.4). Do đặc điểm về giải phẫu như vậy nên khi phẫu thuật sửa van hai lá không thể dùng vòng van nhân tạo thông thường được. Nếu muốn thu nhỏ vòng van phần lá sau ta có thể dùng dải màng ngoài tim, dải gore-tex, vòng van sinh học [25],[34],[50],[83],[88],[94],[100]. Hình 1.4. Vòng van hai lá bình thường (A) và trong bệnh thông vách nhĩ thất bán phần (B) Anterrior leaflet: lá trước; Posterior leaflet: lá sau * Nguồn: theo Khonsari S. (2000) [52] 1.1.3.6. Kích thước buồng nhận và đường ra thất trái Hình 1.5. Buồng tống và buồng nhận thất trái Hình trên là của tim bình thường; Hình dưới là trong bệnh thông vách nhĩ thất. Ao: động mạch chủ, LA: nhĩ trái, LV: thất trái, RV: Thất phải; outlet: chiều dài buồng tống thất trái; inlet: chiều dài buồng nhận thất trái, Atrioventricular septal defect: thông vách nhĩ thất. * Nguồn: theo Allen H.D. (2008) [11] Bình thường, thất trái có tỷ lệ chiều dài buồng tống / buồng nhận xấp xỉ 1. Trong trường hợp thông vách nhĩ thất bán phần tỷ lệ này thay đổi do buồng nhận ngắn lại, buồng tống dài ra và hẹp lại. Về đặc điểm này các tác giả Van Mierop, Tenchkoff và Gian Piero đã mô tả rất kỹ từ những năm 60 – 70 của thế kỷ trước [59][83]. Hình 1.6. Tam giác Koch trên tim bình thường Triangle of Koch: tam giác Koch; Coronary sinus: xoang vành; Tendon of Todaro: gân Todaro; Septal leaflet: lá vách van ba lá; Atrioventricular node: nút nhĩ thất. * Nguồn: theo Anderson R.H. (2013) [13] Hình 1.7. Tam giác Koch và đường dẫn truyền trong bệnh thông vách nhĩ thất bán phần Ngôi sao đỏ: vị trí bình thường của nút nhĩ thất; Ngôi sao trắng: vị trí của nút nhĩ thất trong bệnh kênh nhĩ thất * Nguồn: theo Anderson R.H. (2013) [13] Đường thoát thất trái hẹp và dài ra cộng với van 2 lá bám thấp, dây chằng bám bất thường vào lá trước (anterior mitral leaflet) hậu quả là đường ra thất trái có nguy cơ bị hẹp tăng thêm. Do vậy, trong lúc phẫu thuật cần can thiệp một cách thỏa đáng nhằm tránh hẹp tồn lưu sau sửa van nhĩ thất bệnh thông vách nhĩ thất bán phần. Đây là một đặc điểm cần quan tâm đối với phẫu thuật viên vì khi đóng toàn bộ khe lá trước hoặc thay van 2 lá sẽ làm cản trở đường ra thất trái một cách thật sự [30],[43],[57],[82]. 1.1.3.7. Dẫn truyền thần kinh trong bệnh thông vách nhĩ thất bán phần Nút nhĩ thất và bó His (hình 1.6, 1.7) Thông thường nút nhĩ thất nằm trong đỉnh tam giác Koch (triangle of Koch) được giới hạn bởi đáy là lỗ xoang vành, 2 cạnh là vòng van 3 lá và gân Todaro (tendon of Todaro). Trong bệnh thông vách nhĩ thất bán phần, Lev đã mô tả cụ thể từ năm 1958, và theo Kirlin (2003) [54]: nút nhĩ thất nằm dịch xuống dưới phía đáy tam giác Kock (góc giữa xoang vành và vòng van ba lá). Bó His từ nút nhĩ thất chui dưới vòng van ba lá theo bờ phía tâm thất trái của vách liên thất hay mào thất trong thông vách nhĩ thất (crest of ventricular septum) đến giữa vách liên thất rồi chia nhánh đi thẳng hướng về mỏm tim (hình 1.6, 1.7) [12],[13],[45],[65],[67],[97]. Đây là đặc điểm giải phẫu rất quan trọng có vai trò quyết định giảm tỷ lệ block nhĩ thất trong phẫu thuật sửa tổn thương giải phẫu ... etween the atrioventricular node and the atrioventricular bundle", J Cardiovasc Electrophysiol, 9(2); pp. 225-8. Anderson R.H., et al. (2013), "Wilcox’s surgical anatomy of the heart", Cambridge. Angelini A., et al. (1988), "A histological study of the atrioventricular junction in hearts with normal and prolapsed leaflets of the mitral valve", Br Heart J, 59(6); pp. 712-6. Aubert S., et al. (2005), "Atypical forms of isolated partial atrioventricular septal defect increase the risk of initial valve replacement and reoperation", Eur J Cardiothorac Surg, 28(2); pp. 223-8. Barnes N. and N. Archer (2005), "Understanding congenital heart disease", Current Paediatrics, 15(5); pp. 421-428. Barnett M.G., et al. (1988), "Long-term follow-up of partial atrioventricular septal defect repair in adults", Chest, 94(2); pp. 321-4. Baufreton C., et al. (1996), "Ten-year experience with surgical treatment of partial atrioventricular septal defect: Risk factors in the early postoperative period", The Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery, 112(1); pp. 14-20. Beke D.M., et al. (2005), "Management of the pediatric postoperative cardiac surgery patient", Crit Care Nurs Clin North Am, 17(4); pp. 405-16, xi. Bergin M.L., et al. (1995), "Partial atrioventricular canal defect: long-term follow-up after initial repair in patients > or = 40 years old", J Am Coll Cardiol, 25(5); pp. 1189-94. Bowman J.L., et al. (2014), "Should repair of partial atrioventricular septal defect be delayed until later in childhood?", Am J Cardiol, 114(3); pp. 463-7. Campbell M., et al. (1957), "The prognosis of atrial septal defect", Br Med J, 1(5032): pp. 1375-83. Campbell M. (1970), "Natural history of atrial septal defect", Br Heart J, 32(6); pp. 820-6. Castro Neto, J. V., et al. (2002). "Surgical treatment of partial atrioventricular septal defect: functional analysis of the mitral valve in the postoperative period.", Arq Bras Cardiol, 79(5); pp. 446-453. Chauvaud, S., et al. (1991). "Valve extension with glutaraldehyde-preserved autologous pericardium. Results in mitral valve repair." J Thorac Cardiovasc Surg, 102(2); pp. 171-177. Cheitlin M.D., et al. (2003), "ACC/AHA/ASE 2003 Guideline Update for the Clinical Application of Echocardiography", ACC/AHA practice guidelines. Chowdhury U.K., et al. (2009), "Specific issues after surgical repair of partial atrioventricular septal defect: Actuarial survival, freedom from reoperation, fate of the left atrioventricular valve, prevalence of left ventricular outflow tract obstruction, and other events", J Thorac Cardiovasc Surg, 137(3); pp. 548-555. Chronolab A.G. (1995), Atlas of human embryology, David I., et al. (1982), "Potentially parachute mitral valve in common atrioventricular canal: pathological anatomy and surgical importance", J Thorac Cardiovasc Surg, 84(2); pp. 178-86. DeLeon S.Y., et al. (1991), "Surgical options in subaortic stenosis associated with endocardial cushion defects", Ann Thorac Surg, 52(5); pp. 1076-82; discussion 1082-3. Dong L., et al. (2011), "Cyanosis in a primum atrial septal defect without pulmonary hypertension", J Am Coll Cardiol, 57(22); pp. 2290. Draulans-Noe H.A., et al. (1990), "Single papillary muscle ("parachute valve") and double-orifice left ventricle in atrioventricular septal defect convergence of chordal attachment: surgical anatomy and results of surgery", Pediatr Cardiol, 11(1); pp. 29-35. Ebels T., et al. (1986), "The surgical anatomy of the left ventricular outflow tract in atrioventricular septal defect", Ann Thorac Surg, 41(5); pp. 483-8. El-Najdawi E.K., et al. (2000), "Operation for partial atrioventricular septal defect: a forty-year review", The Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery, 119(5); pp. 880-890. Falcao S., et al. (1999), "Cross sectional echocardiographic assessment of the extent of the atrial septum relative to the atrioventricular junction in atrioventricular septal defect", Heart, 81(2); pp. 199-205. Faletra F.F., et al. (2011), "Real-time 3-dimensional transesophageal echocardiography of the atrioventricular septal defect", Circ Cardiovasc Imaging, 4(3); pp. e7-9. Fasting H., et al. (1980), "Atrial septal defect, primum type. Results of surgical closure in 46 patients", Scand J Thorac Cardiovasc Surg, 14(2); pp. 165-8. Gahagan T. and a.R.F. Ziegler (1967), "Triatrial heart with pessistent astrium prinum and cleft mitral vale.", Ann Thorac Surg, 3; pp. 231-234. Gatzoulis M.A., et al. (1999), "Surgery for Partial Atrioventricular Septal Defect in the Adult", Ann Thorac Surg 67; pp. 504-10. Gauer I.C., et al. (2003), "Seventy-five years' survival in partial atrioventricular septal defect", J Heart Valve Dis, 12(4); pp. 538-42. Gong Q.H., et al. (2005), "Surgical treatment of partial atrioventricular septal defect", Zhong Nan Da Xue Xue Bao Yi Xue Ban, 30(3); pp. 328-30. Gurbuz, A. T., et al. (1999). "Left ventricular outflow tract obstruction after partial atrioventricular septal defect repair." Ann Thorac Surg, 68(5); pp. 1723-1726. Heydarian M., et al. (1985), "Partial atrioventricular canal associated with discrete subaortic stenosis", Am Heart J, 109(4); pp. 915-7. Hill N.S., et al. (2009), "Postoperative Pulmonary Hypertension: Etiology and Treatment of a Dangerous Complication", Respiratorycare, 54(7); pp. 958-68. Ho S.Y., et al. (1985), "Heart block and atrioventricular septal defect", Thorac Cardiovasc Surg, 33(6); pp. 362-5. Ho S.Y., et al. (1992), "Morphology of the posterior junctional area in atrioventricular septal defects", Ann Thorac Surg, 54(2); pp. 264-70. Hsu D.T. and G.D. Pearson (2009), "Heart failure in children: part I: history, etiology, and pathophysiology", Circ Heart Fail, 2(1); pp. 63-70. Hynes J.K., et al. (1982), "Partial atrioventricular canal defect in elderly patients (aged 60 years or older)", Am J Cardiol, 50(1); pp. 59-62. Jacobstein M.D., et al. (1985), "Evaluation of atrioventricular septal defect by magnetic resonance imaging", Am J Cardiol, 55(9); pp. 1158-61. Jerbi S., et al. (2009), "Surgery of 56 patients having a partial atrioventricular septal defect", Ann Cardiol Angeiol (Paris), 58(2); pp. 129-33. Kamesui T., et al. (1997), "A case of Ellis-van Creveld syndrome with partial atrioventricular septal defect and double orifice mitral valve", Nihon Kyobu Geka Gakkai Zasshi, 45(4); pp. 589-93. Khonsari S. (2000), "Atrioventricular septal defect", Cardiac surgery safeguards and pitfalls in operative technique 4th edition; pp. 263-271 King R.M., et al. (1986), "Prognostic factors and surgical treatment of partial atrioventricular canal", Circulation, 74(3 Pt 2); pp. I42-6. Kirklin J.W., Kouchokos N.T, Blackstone E.H (2013), "Atrioventricular Septal Defect", Cardiac Surgery 4rd edition; pp. 1227-1274 Kirklin J.W., et al. (1955), "Repair of the partial form of persistent common atrioventricular canal; so-called ostium primum type of atrial septal defect with interventricular communication", Ann Surg, 142(5); pp. 858-62. Kuralay E., et al. (1999), "Left atrioventricular valve repair technique in partial atrioventricular septal defects", Ann Thorac Surg, 68(5); pp. 1746-50. Lappen R.S., et al. (1983), "Masked subaortic stenosis in ostium primum atrial septal defect: recognition and treatment", Am J Cardiol, 52(3); pp. 336-40. Levy S., et al. (1974), "Long-term follow-up after surgical correction of the partial form of common atrioventricular canal (ostium primum)", J Thorac Cardiovasc Surg, 67(3); pp. 353-63. Van Mierop L.H., et al. (1962), "The anatomy and embryology of endocardial cushion defects", J Thorac Cardiovasc Surg 43; pp. 71- 83. Lillehei C.W., et al. (1955), "The direct-vision intracardiac correction of congenital anomalies by controlled cross circulation; results in thirty-two patients with ventricular septal defects, tetralogy of Fallot, and atrioventricularis communis defects", Surgery, 38(1); pp. 11-29. Lozano C., et al. (1990), "Surgery of atrioventricular septal defects. Review of the first 100 cases", Eur J Cardiothorac Surg, 4(7); pp. 359-64. Lukacs L.L., et al. (1992), "Late results after repair of partial atrioventricular septal defect in adolescents and adults", Tex Heart Inst J, 19(4); pp. 265-9. Manning P.B. (2007), "Partial atrioventricular canal: pitfalls in technique", Semin Thorac Cardiovasc Surg Pediatr Card Surg Annu; pp. 42-6. Matsuyama T.A., et al. (2012), "Anatomic assessment of variations in myocardial approaches to the atrioventricular node", J Cardiovasc Electrophysiol, 23(4); pp. 398-403. Mavroudis C., et al. (2013), "Operative techniques in association with arrhythmia surgery in patients with congenital heart disease", World J Pediatr Congenit Heart Surg, 4(1); pp. 85-97. Mavroudis C., Backer C.L. (2013), "Atrioventricular Canal Defects", Pediatric Cardiac Surgery 4th edition; pp. 342-360. Mazgalev T.N., et al. (2001), "Anatomic-electrophysiological correlations concerning the pathways for atrioventricular conduction", Circulation, 103(22); pp. 2660-7. McMullan M.H., et al. (1973), "Surgical treatment of partial atrioventricular canal", Arch Surg, 107(5); pp. 705-10. Meijboom E.J., et al. (1986), "Left atrioventricular valve after surgical repair in atrioventricular septal defect with separate valve orifices (ostium primum atrial septal defect): an echo-Doppler study", Am J Cardiol, 57(6); pp. 433-6. Meimoun P., et al. (2002), "Frequency, predictors, and consequences of atrioventricular block after mitral valve repair", Am J Cardiol, 89(9); pp. 1062-6. Miller A., et al. (2010), "Long-term survival of infants with atrioventricular septal defects", J Pediatr, 156(6); pp. 994-1000. Milo S., et al. (1979), "Straddling and overriding atrioventricular valves: morphology and classification", Am J Cardiol, 44(6); pp. 1122-34. Minich L.L., et al. (2010), "Partial and transitional atrioventricular septal defect outcomes", Ann Thorac Surg, 89(2); pp. 530-6. Moroi M., et al. (1995), "Partial type of common atrioventricular canal defect associated with mitral stenosis", Intern Med, 34(5); pp. 441-5. Murashita T., et al. (2004), "Left atrioventricular valve regurgitation after repair of incomplete atrioventricular septal defect", Ann Thorac Surg, 77(6); pp. 2157-62. Pacifico A.D. (1989), "Surgical treatment of complex atrioventricular septal defects", Cardiol Clin, 7(2); pp. 399-410. Pacifico A.D. (2006), "Atrioventricular Septal Defects", Surgery for Congenital Heart Defects, 3rd edition; pp. 373-386. Padala S.M. (2010), "Mechanics of the mitralvalve after surgical repair - aninvitro study", A Dissertation Presented to The Academic Faculty; pp. 46-56 Paladini D., et al. (2009),"Partial atrioventricular septal defect in the fetus: diagnostic features and associations in a multicenter series of 30 cases",Ultrasound Obstet Gynecol, 34(3): pp. 268-73. Permut L.C. and V. Mehta (1997), "Late results and reoperation after repair of complete and partial atrioventricular canal defect", Semin Thorac Cardiovasc Surg, 9(1); pp. 44-54. Piatkowski R., et al. (2009), "Transesophageal real time three-dimensional echocardiography in assessment of partial atrioventricular septal defect", Echocardiography, 26(9); pp. 1092-4. Piccoli G.P., et al. (1982), "Left-sided obstructive lesions in atrioventricular septal defects: an anatomic study", J Thorac Cardiovasc Surg, 83(3); pp. 453-60. Picoli G.P., et al. (1979), "Morphology and classification of atrioventricular defects", Br Heart J, (42); pp. 621-632. Prendergast B., et al. (1996), "Double-orifice right atrioventricular valve associated with partial atrioventricular septal defect", Ann Thorac Surg, 62(3); pp. 893-5. Puga F.J. (1998), "Reoperation after repair of atrioventricular canal defects", Semin Thorac Cardiovasc Surg Pediatr Card Surg Annu, (1); pp. 123-128. Rizzoli G., et al. (1984), "Operative risk of correction of atrioventricular septal defects", Br Heart J, 52(3); pp. 258-65. Sanchez-Quintana D., et al. (1997), "Architecture of the atrial musculature in and around the triangle of Koch: its potential relevance to atrioventricular nodal reentry", J Cardiovasc Electrophysiol, 8(12); pp. 1396-407. Sellors T.H. and W. Somerville (1961), "The persistent ostium primum atrial septal defect. (Partial persistent common atrioventricular canal)", Postgrad Med J, 37; pp. 646-52. Seo J.W., et al. (1992), "Surgical significance of morphological variations in the atrial septum in atrioventricular septal defect for determination of the site of penetration of the atrioventricular conduction axis", J Card Surg, 7(4); pp. 324-32. Shuhaiber J.H., et al. (2009), "Current options and outcomes for the management of atrioventricular septal defect", Eur J Cardiothorac Surg, 35(5); pp. 891-900. Silverman N.H., et al. (1986), "Atrioventricular septal defects: cross-sectional echocardiographic and morphologic comparisons", Int J Cardiol, 13(3); pp. 309-31. Soufflet, V., et al. (2005). "Repair for partial and complete atrioventricular septal defect: single centre experience and long-term results.", Acta Clin Belg60(5); 236-242. Spanos P.K., et al. (1977), "Repair of atrioventricular canal associated with membranous subaortic stenosis", Mayo Clin Proc, 52(2); pp. 121-4. Stewart S., et al. (1987), "Partial Atrioventricular Canal Defect: The Early and Late Results of Operation", Ann Thorac Surg (43); pp. 527-529. Stoyanov M.K., et al. (2010), "Selective slow pathway ablation using transseptal approach in a patient with surgically corrected partial atrioventricular canal defect and atrioventricular nodal reentrant tachycardia of the common type", Europace, 12(5); pp. 756-7. Stulak J.M., et al. (2010), "Reoperations After Repair of Partial Atrioventricular Septal Defect: A 45-Year Single-Center Experience", The Annals of Thoracic Surgery, 89(5); pp. 1352-1359. Thiene G., et al. (1981), "Surgical anatomy and pathology of the conduction tissues in atrioventricular defects", J Thorac Cardiovasc Surg, 82(6); pp. 928-37. Towbin R. and D. Schwartz (1981), "Endocardial cushion defects: embryology, anatomy, and angiography", AJR Am J Roentgenol, 136(1); pp. 157-62. Vazquez-Antona C.A., et al. (2008), "Anatomic spectrum between complete and partial atrioventricular septal defect. Two and three-dimensional echocardiography approach", Arch Cardiol Mex, 78(1); pp. 40-51. Warnes C.A., et al. (1984), "Atrioventricular septal defect (primum atrial septal defect) with prolonged survival (despite severe mitral regurgitation and pulmonary hypertension) and associated cardiac calcification (mitral anulus, coronary artery and pulmonary trunk)", Am J Cardiol, 54(6); pp. 689-91. Woods W.A., et al. (2003), "Care of children who have had surgery for congenital heart disease", The American Journal of Emergency Medicine, 21(4); pp. 318-327. Yu Y., et al. (1997), "Surgical consideration in congenital partial atrioventricular septal defect in 59 patients", Zhonghua Wai Ke Za Zhi, 35(7); pp. 428-30.
File đính kèm:
- luan_an_nghien_cuu_danh_gia_ket_qua_dieu_tri_phau_thuat_thon.docx
- INFORMATION OF THE THESIS DAOQUANGVINH.doc
- Tom tat bang tieng anh.docx
- tomtat luan an.doc
- TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN.docx