Luận án Nghiên cứu thực trạng sốt rét và đánh giá kết quả can thiệp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới của huyện Hướng hóa, tỉnh Quảng Trị
Bệnh sốt rét hiện nay vẫn còn là một vấn đề sức khoẻ lớn trên thế giới nói
chung và tại Việt Nam nói riêng. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới khoảng
40% dân số thế giới hiện nay đang sống trong vùng có nguy cơ mắc sốt rét. Hàng
năm có khoảng 350-500 triệu người mắc sốt rét và hơn 1 triệu người chết do sốt rét
[30]. Đến năm 2010 ước tính trên thế giới có 216 triệu người mắc sốt rét và 655.000
người chết do sốt rét [122].
Vấn đề sốt rét biên giới đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu.
Đã có nhiều vụ dịch sốt rét được ghi nhận ở các vùng biên giới như ở các huyện của
Uganda nơi có biên giới với Tanzania và Rwanda, vùng biên giới của các nước Ấn
Độ, Sri Lanka, Pakistan. Trong khu vực, vùng biên giới giữa các nước Thái Lan -
Campuchia, Thái Lan-Myanmar luôn có tình hình sốt rét phức tạp [30].
Tại Việt Nam, theo số liệu báo cáo hàng năm của Chương trình phòng chống
sốt rét Quốc gia nhiều tỉnh có mức độ lưu hành sốt rét cao chủ yếu thuộc khu vực
Miền Trung - Tây Nguyên hầu hết các tỉnh có các xã, huyện có đường biên giới với
Lào hoặc Campuchia đều có tỷ lệ bệnh nhân mắc sốt rét cao hơn so với các địa
phương khác trong toàn quốc [28]. Bệnh sốt rét tuy đã giảm nhưng có nguy cơ quay
trở lại lớn; đối tượng dễ mắc bệnh là những người sống ở vùng sâu, vùng xa và đặc
biệt là những người dân sống ở vùng biên giới giữa Việt Nam với Lào và
Campuchia. Tại các vùng này nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc
nhiễm bệnh sốt rét chủ yếu thông qua giao lưu tự do nên rất khó khăn trong việc
giám sát, phát hiện, điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét [42].
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu thực trạng sốt rét và đánh giá kết quả can thiệp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới của huyện Hướng hóa, tỉnh Quảng Trị
1 ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC HOÀNG HÀ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỐT RÉT VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT TẠI MỘT SỐ XÃ BIÊN GIỚI CỦA HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HUẾ - NĂM 2013 2 ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC HOÀNG HÀ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỐT RÉT VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT TẠI MỘT SỐ XÃ BIÊN GIỚI CỦA HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG Mã số: 62 77 03 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học 1. PGS TS NGUYỄN VĂN TẬP 2. PGS TS LÊ XUÂN HÙNG 3 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh sốt rét hiện nay vẫn còn là một vấn đề sức khoẻ lớn trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới khoảng 40% dân số thế giới hiện nay đang sống trong vùng có nguy cơ mắc sốt rét. Hàng năm có khoảng 350-500 triệu người mắc sốt rét và hơn 1 triệu người chết do sốt rét [30]. Đến năm 2010 ước tính trên thế giới có 216 triệu người mắc sốt rét và 655.000 người chết do sốt rét [122]. Vấn đề sốt rét biên giới đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều vụ dịch sốt rét được ghi nhận ở các vùng biên giới như ở các huyện của Uganda nơi có biên giới với Tanzania và Rwanda, vùng biên giới của các nước Ấn Độ, Sri Lanka, Pakistan. Trong khu vực, vùng biên giới giữa các nước Thái Lan - Campuchia, Thái Lan-Myanmar luôn có tình hình sốt rét phức tạp [30]. Tại Việt Nam, theo số liệu báo cáo hàng năm của Chương trình phòng chống sốt rét Quốc gia nhiều tỉnh có mức độ lưu hành sốt rét cao chủ yếu thuộc khu vực Miền Trung - Tây Nguyên hầu hết các tỉnh có các xã, huyện có đường biên giới với Lào hoặc Campuchia đều có tỷ lệ bệnh nhân mắc sốt rét cao hơn so với các địa phương khác trong toàn quốc [28]. Bệnh sốt rét tuy đã giảm nhưng có nguy cơ quay trở lại lớn; đối tượng dễ mắc bệnh là những người sống ở vùng sâu, vùng xa và đặc biệt là những người dân sống ở vùng biên giới giữa Việt Nam với Lào và Campuchia. Tại các vùng này nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc nhiễm bệnh sốt rét chủ yếu thông qua giao lưu tự do nên rất khó khăn trong việc giám sát, phát hiện, điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét [42]. Quảng Trị là một tỉnh thuộc khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tình hình sốt rét của tỉnh tuy đã được cải thiện nhiều trong những năm qua nhưng tỷ lệ mắc và nguy cơ sốt rét vẫn còn cao. Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét, ký sinh trùng sốt rét/1.000 dân; tỷ lệ tử vong do sốt rét/100.000 dân vẫn nằm trong số 6 tỉnh có tỷ lệ mắc sốt rét cao nhất trong toàn quốc [74]. Tình hình dịch tễ sốt rét vùng biên giới giữa 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savanakhet (Lào) thường diễn biến phức tạ 4 . Đặc biệt ở 12 xã thuộc vùng Lìa của huyện Hướng Hoá giáp biên giới với Lào có tỷ lệ mắc sốt rét cao, có nhiều ổ sốt rét trọng điểm như: xã Xy, xã Thanh [13], [18]. Hướng Hoá là một huyện trọng điểm sốt rét của tỉnh Quảng Trị , toàn bộ 22 xã đều nằm trong vùng sốt rét lưu hành nặng, có đường biên giới dài 156 km giáp với tỉnh Savanakhet (Lào). Theo báo cáo của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Quảng Trị số bệnh nhân sốt rét hàng năm của huyện Hướng Hoá thường chiếm trên 60% tổng số bệnh nhân sốt rét của toàn tỉnh và số ký sinh trùng sốt rét luôn trên 50% tổng số ký sinh trùng được phát hiện trong toàn tỉnh. Trong đó số bệnh nhân sốt rét được phát hiện từ các xã biên giới luôn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số bệnh nhân sốt rét toàn huyện [41]. Từ trước đến nay các nghiên cứu về bệnh sốt rét ở nước ta và ngay tại tỉnh Quảng Trị vẫn tập trung vào dịch tễ sốt rét, phòng chống véc tơ [13], [14], kháng thuốc sốt rét [42], [58], kiến thức-thái độ-thực hành [17], [41], xây dựng mạng lưới [12] và cũng đã đạt được nhiều kết quả về phòng chống bệnh sốt rét nhưng vẫn còn nhiều ổ bệnh dai dẵng chưa được giải quyết triệt để do chưa có một nghiên cứu nào về mô hình về quản lý, giám sát, phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét ngay tại hộ gia đình ở vùng biên giới. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng biên giới với 2 mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm dịch tễ sốt rét và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét tại một số xã biên giới của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị. 2. Đánh giá kết quả can thiệp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới. Điểm mới của nghiên cứu này là: Xây dựng mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng biên giới tỉnh Quảng Trị với mục tiêu phát hiện, điều trị sớm và quản lý ca bệnh sốt rét tại nhà. Phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa 2 nước Việt-Lào. Phát hiện thêm về tác nhân gây bệnh sốt rét (KSTSR) mới ở tỉnh Quảng Trị. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH SỐT RÉT VÙNG BIÊN GIỚI 1.1.1. Tình hình mắc và chết do sốt rét trên thế giới Theo số liệu thống kê của Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) đến năm 2009, bệnh SR vẫn lưu hành ở 108 quốc gia. Ước tính có khoảng 225 triệu người mắc và 781 nghìn người chết do sốt rét (SR), riêng châu Phi chiếm 91%; Đông Nam Á 6% [115]. Châu Mỹ có khoảng 1 triệu người mắc và khoảng 1 nghìn người chết. Khu vực Đông Nam Á sốt rét lưu hành ở hầu hết các nước với 88% dân số trong tổng số 1.320 triệu người. Sốt rét trầm trọng hơn ở các nước tiểu vùng sông Mê Kông như Trung Quốc, Lào, Myanmar, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam [30]; có khoảng 24 triệu người mắc và khoảng 40 nghìn người chết, tính trung bình có 3.000 trẻ chết do sốt rét ở Châu Phi mỗi năm, ước tính 125 trẻ chết trong 1 giờ và 2 đứa trẻ chết trong vòng 1 phút. Khu vực Tây Thái Bình Dương có khoảng 2 triệu người mắc và khoảng 3 nghìn người chết do sốt rét [30]. Mặc dù bệnh sốt rét đã được thanh toán ở nhiều nơi trên thế giới như Châu Âu, Bắc Mỹ, một số nước Bắc Á và bệnh SR cũng đã giảm nhiều ở một số nước trong đó có cả Việt Nam. Tuy vậy cho đến năm 2010 vẫn có 216 triệu người mắc sốt rét, 655.000 người chết do bệnh sốt rét, đặc biệt ở châu Phi (91%), Đông Nam Á (6%), Địa Trung Hải (3%), khoảng 86% trẻ em dưới 5 tuổi chết do sốt rét [115]. Ở các nước Châu Phi như Kenya, Uganda, Tanzania... bệnh sốt rét luôn ở mức cao [88]. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về sốt rét ở các dân tộc thiểu số vùng biên giới Vấn đề sốt rét biên giới đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều vụ dịch sốt rét được ghi nhận ở các vùng biên giới như ở các huyện của Uganda nơi có biên giới với Tanzania và Rwanda, vùng biên giới của các nước Ấn Độ, Sri Lanka, Pakistan [30]. Trong khu vực, vùng biên giới giữa các nước Thái Lan - Campuchia, Thái Lan - Myanmar luôn có tình hình sốt rét phức tạp, tỷ lệ mắc sốt rét trong nhóm dân di cư và gia tăng tỷ lệ P. falciparum kháng thuốc khi họ trở 6 lại Campuchia để điều trị [112] và cũng đã có nhiều vụ dịch sốt rét xảy ra. Những nghiên cứu về tình hình sốt rét của vùng biên giới giữa Thái Lan và Myanmar cho thấy tỷ lệ mắc sốt rét cao ở những người dân di cư đến làm việc ở vùng biên giới giữa 2 nước này [112] đồng thời sốt rét là một vấn đề nghiêm trọng đối với 39,6% số hộ gia đình được điều tra, người dân ở vùng này còn nghèo nên còn khó khăn, thiếu thốn các nguồn phòng chống SR vì vậy người dân còn có nguy cơ mắc sốt rét cao. Ở Thái Lan, sốt rét là một vấn đề nghiêm trọng ở biên giới [30]. Nghiên cứu cũng cho thấy nơi ở của người dân ở trong rừng có nguy cơ mắc sốt rét cao 6,29 lần, không ở trong nhà trong vòng 7 ngày trước thời điểm xét nghiệm máu có nguy cơ mắc sốt rét cao 4,34 lần. Một nghiên cứu của Xu J (1996) về sốt rét biên giới ở Trung Quốc cho thấy vùng biên giới của tỉnh Vân Nam với Việt Nam, Lào và Myanmar có một số lượng lớn bệnh nhân sốt rét ngoại lai là người dân tộc thiểu số với tỷ một tỷ lệ lớn bệnh nhân nhiễm P. faciparum là do kết quả của việc di biến động dân cư đi lại làm ăn giữa các tỉnh. Các kết quả nghiên cứu cho thấy còn tồn tại rất nhiều khó khăn, phức tạp trong vấn đề quản lý sốt rét vùng biên giới do thói quen, tập quán lao động, sinh hoạt, người dân giao lưu qua lại biên giới nhiều. Giao thông đi lại tới các vùng biên giới còn nhiều khó khăn nên việc tiếp cận với các dịch vụ y tế còn rất hạn chế và sự khác nhau về việc áp dụng các biện pháp phòng chống trong Chương trình PCSR giữa các nước có đường biên giới chung. Những kết quả và khó khăn trong phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa các nước trên thế giới hiện nay như sau: Tình hình người dân nhập cư và tỷ lệ mắc SR do qua lại vùng biên giới vẫn không giảm do nhu cầu làm ăn kinh tế, buôn bán hàng lậu qua biên giới [122]. Vùng biên giới lại là vùng rừng núi, sinh địa cảnh thuận lợi cho bệnh SR phát triển [30]. Việc phối hợp điều tra và phòng chống sốt rét (PCSR) tại vùng biên giới là rất cần thiết [30] tuy nhiên hiện nay việc phối hợp PCSR tại vùng biên giới giữa các nước gặp phải khó khăn do nhiều nguyên nhân: thủ tục xuất nhập cảnh để thực hiện các hoạt động chuyên môn về y tế; chính sách thực hiện các chương trình y tế, mạng lưới y tế khác nhau ở mỗi nước; vấn đề kinh phí chi trả cho các hoạt động y tế 7 ở nước khác... và nhiều khó khăn về chính trị, an ninh biên giới... đã làm cho việc phối hợp điều tra, đặc biệt việc phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới gần như không thể thực hiện được. Việc phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa các nước bị thất bại với các lý do nêu trên. Vì vậy các nghiên cứu về sốt rét tại vùng biên giới phần lớn chỉ thực hiện ở một một phía biên giới, các báo cáo cũng chỉ ghi nhận ở một phía và một số ít sốt rét nhập cư bên kia biên giới sang mà họ ghi nhận được. Từ trước đến nay chưa có một mô hình hợp tác phòng chống sốt rét tại vùng biên giới nào được thực hiện. Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng biên giới của nghiên cứu này là mới, nó bao gồm nội dung phối hợp phòng chống sốt rét cả 2 bên biên giới của 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào). 1.1.3. Tình hình mắc và chết do sốt rét tại Việt Nam Việt Nam được đánh giá là nước đang áp dụng và duy trì các biện pháp PCSR một cách hiệu quả. Bảng 1.1. Tình hình sốt rét tại Việt Nam trong 5 năm từ 2006-2010 [74]. Chỉ số 2006 2007 2008 2009 2010 % giảm 2006/2010 Số BNSR 91635 70910 60547 60867 54296 - 40,75 Tỷ lệ mắc SR/1000 1,08 0,83 0,70 0,69 0,62 - 42,59 Số KSTSR 22637 16389 11355 16130 17515 - 22,63 Tỷ lệ KSTSR/1000 0,27 0,19 0,13 0,18 0,20 - 25,93 Số vụ dịch SR 1 1 1 0 1 Số chết SR 41 20 25 27 21 - 48,78 Tỷ lệ chết SR/100.000 0,05 0,02 0,03 0,03 0,02 - 60,00 Kết quả thực hiện đến năm 2010, theo báo cáo của Dự án quốc gia PCSR như sau. Tỷ lệ tử vong do SR đạt 0,02/100.000 dân, giảm 60% so với năm 2006. Năm 8 2010 có 21 người chết do SR so với 41 người chế 48,7%); Số người chết do SR từ năm 2006-2009 giảm không ổn định. Tỷ lệ mắ ), giảm 42,6% so với năm 2006 [74]. Tình hình mắc và chết do sốt rét tại Miền Trung - Tây Nguyên từ 2006-2010. So sánh 2010 với 2006 giữa miền Trung và Tây Nguyên thấy các chỉ số sốt rét đều giảm, trong đó BNSR ở Tây Nguyên (-59,15%) giảm nhanh hơn miền Trung (giảm 29,07%); Tử vong sốt rét tại Tây Nguyên (2 trường hợp), miền Trung (6 trường hợp); tỷ lệ KSTSR ở Tây nguyên giảm 53%, miền Trung tăng 5,11% [67]. Tình hình mắc và chết do sốt rét tại tỉnh Quảng Trị: Xu hướng diễn biến mắc và chết do sốt rét ở Quảng Trị tương tự ở khu vực Miền Trung - Tây Nguyên. Số mắc sốt rét hàng năm từ 2006-2007 giảm chậm, năm 2009 có xu hướng tăng trở lại, chết do sốt rét không giảm. Tình trạng người giao lưu với vùng sốt rét ngày một nhiều, riêng tỉnh Quảng Trị còn có đặc thù riêng khác biệt so với các tỉnh trong toàn quốc và khu vực đó là dọc theo đường biên giới của huyện Hướng Hoá và 2 huyện Sê Pôn, Nòng của tỉnh Savannakhet (CHDCND Lào) có rất nhiều bản của cả 2 bên ở rất gần nhau, giao lưu qua lại để buôn bán thường xuyên, nhiều người mắc sốt rét do qua lại biên giới, hàng trăm BNSR từ Lào sang điều trị tại các xã biên giới của huyện Hướng Hoá. 1.1.4. Tình hình nghiên cứu và phòng chống sốt rét tại vùng biên giới Việt Nam Việt Nam hiện nay có 25 tỉnh có biên giới đất liền với 3 nước là Trung Quốc, Lào và Campuchia. Hàng năm, số bệnh nhân mắc và chết do sốt rét tại các tỉnh có biên giới đều cao hơn so với các tỉnh khác trong toàn quốc, trong đó tỷ lệ mắc sốt rét ở các tỉnh giáp Campuchia là cao, sau đó đến các tỉnh giáp Lào [28]. Theo số liệu thống kê năm 2007 của chương trình Quốc gia PCSR cho thấy số BNSR của các tỉnh biên giới tỷ lệ 63,7% tổng số BNSR của toàn quốc (45.191/70.910). Số bệnh nhân chết do sốt rét ở các tỉnh này khoảng 70% tổng số chết do sốt rét toàn quốc (14/20). Một nghiên cứu của Lê Xuân Hùng (2007) về thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng và biện pháp can thiệp sốt rét ở biên giới Việt Nam từ năm 2002 đến 2006 cho thấy 9 tỷ lệ mắc sốt rét hàng năm ở các tỉnh biên giới cao hơn so với các tỉnh không có biên giới và so với cả nước, tỷ lệ hiểu biết của người dân về bệnh sốt rét chỉ từ 63,3 đến 64,5% và số hộ dân có đủ màn nằm còn thấp từ 57% đến 65% [28]. Tại các vùng biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, giao lưu biên giới làm cho nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc kiểm dịch biên giới tập trung tại các cửa khẩu, nhưng sự giao lưu và nhiễm bệnh lại chủ yếu thông qua nhiều đường tiểu ngạch dọc theo biên giới nên rất khó khăn trong việc quản lý BNSR. Hoàng Hà (2004) trong một điều tra cắt ngang tại xã Thanh cho thấy tỷ lệ mắc sốt rét chung là 4,0% [16] và một điều tra khác tại 2 xã biên giới của huyện Hướng Hoá tỉnh Quảng Trị (2006) cho thấy tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét tại xã Xy còn cao 10,8% [18]. Kết quả nghiên cứu của Đoàn Hạnh Nhân (2007) về thực trạng sốt rét dai dẳng ở 2 huyện Hướng Hoá, Đakrông tỉnh Quảng Trị cho thấy bệnh sốt rét lan truyền quanh năm đặc biệt tại các xã biên giới có lan truyền mạnh vào mùa mưa và tỷ lệ mắc sốt rét hàng năm luôn cao từ 17,1 - 38,7/1.000 dân [41], [42]. Những khó khăn trong phòng chống sốt rét tại vùng biên giới của Việt Nam với các nước Trung Quốc, Lào và Campuchia Hầu hết dân có nguy cơ mắc sốt rét của nước ta, gần 16 triệu người (khoảng 40% dân số nguy cơ của cả nước) đều sống ở các vùng rừng núi và có biên giới với Trung Quốc, Lào và Campuchia [28]. Cũng như trên thế giới, việc nghiên cứu và phòng chống SR do qua lại biên giới, tại vùng biên giới ở Việt Nam cũng gặp phải những khó khăn, thất bại nói trên. Các kết quả nghiên cứu cũng mới chỉ dừng ở mức báo cáo số liệu tỷ lệ mắc sốt rét của mỗi nước, không được nghiên cứu cùng một thời điểm, hoàn cảnh và cùng một nội dung, phương pháp; không thực hiện việc phối hợp PCSR tại vùng biên giới, chính vì vậy tình hình sốt rét tại các vùng này vẫn cứ diễn biến phức tạp và dai dẳng không giải quyết được. Việc phối hợp phòng chống sốt rét vùng biên giới cũng thực hiện ở Việt Nam và trên thế giới. Chính vì ... lại biên giới). Tại nhóm can thiệp, do được thường xuyên tác động về hộ gia đình nên có sự thay đổi rõ về kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống sốt rét theo hướng tốt hơn có sự thay đổi về phong tục, tập quán: Thái độ ứng xử với bệnh sốt rét đã theo hướng tốt hơn, khi bị sốt đã đến trạm y tế, thái độ ứng xử với phong tục tập quán cũng theo hướng tiến bộ như: ít cúng thầy mo, nhiều hộ gia đình đã dời chuồng gia súc ra xa nhà, dời bếp lửa ra khỏi nhà và tỷ lệ ngủ màn tăng lên. Vệ sinh môi trường phòng chống sốt rét Tại nhóm can thiệp các hoạt động vệ sinh môi trường PCSR được thực hiện tại hộ gia đình có kế hoạch chủ động, có sự tổ chức, kết quả được cải thiện tốt và nhanh chóng, có ảnh hưởng đến kết quả PCSR. Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở nhóm can thiệp Số người có kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt rét đúng của nhóm can thiệp sau can thiệp tăng lên nhiều lần, có sự khác biệt so với trước can 124 thiệp. So sánh với nghiên cứu trước đây của chúng tôi tại xã Thanh, huyện Hướng Hoá tỷ lệ hiểu đúng nguyên nhân và triệu chứng của bệnh sốt rét 86,8 và 88,2% [17], nghiên cứu của Lê Xuân Hùng & cs trên nhóm dân tộc Raglei tỉnh Ninh Thuận tỷ lệ hiểu biết đúng về nguyên nhân và cách phòng bệnh sốt rét 72,6 và 78,2% [26] và nghiên cứu của Nguyễn Văn Tập ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế tỷ lệ hiểu biết đúng là 78,13% [50] thì kết quả nghiên cứu hiện nay là cao hơn. So sánh giữa 2 nhóm Kết quả truyền thông giáo dục PCSR của nhóm can thiệp đạt kết quả cao hơn nhóm chứng. Số người có kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt rét đúng giữa 2 nhóm có sự khác biệt. Có những hoạt động chỉ được thực hiện ở nhóm can thiệp: Thảo luận nhóm trọng tâm Vệ sinh môi trường được đẩy mạnh toàn diện, có sự phối hợp của chính quyền, các ban ngành ở xã một cách đồng bộ. Kết quả vệ sinh môi trường PCSR nhóm can thiệp đạt kết quả cao hơn nhiều lần so với nhóm chứng. Tỷ suất chênh giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng từ 6,3 - 15,6, có sự khác biệt. 4.3.3.3. Đánh giá hiệu quả can thiệp của mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở biên giới Đánh giá hiệu quả can thiệp của mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở nhóm can thiệp. Tại nhóm này thực hiện cả 2 biện pháp: Phát hiện và điều trị sốt rét tại hộ gia đình và tại trạm y tế xã do đó tỷ lệ mắc sốt rét giảm tốt. Quản lý được đối tượng giao lưu qua biên giới, phát hiện và điều trị sớm những người mắc sốt rét trong nhóm đối tượng này. Nhóm can thiệp đạt hiệu quả can thiệp về tỷ lệ hiện mắc sốt rét 68,2% và tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét 70,6% cao hơn nhóm chứng. Có kết quả tốt ở nhóm can thiệp sau can thiệp so với trước. Sự thay đổi có ý nghĩa ở nhóm can thiệp, sau can thiệp tỷ lệ mắc sốt rét giảm 3,3 lần (0,7/2,2) so với trước can thiệp. Truyền thông giáo dục trực tiếp về hộ gia đình, chủ động, thường xuyên, với nhiều đối tượng, nhiều biện pháp thích hợp: CSHQ = 91,0% Đánh giá hiệu quả ở nhóm chứng Tại nhóm này chỉ có 1 biện pháp: phát hiện và điều trị tại trạm y tế theo 125 thường quy do đó tỷ lệ mắc sốt rét giảm ít. Không quản lý đối tượng giao lưu qua lại biên giới tại hộ gia đình. Truyền thông giáo dục chỉ thực hiện mỗi năm 1 đợt theo thường quy. Nhóm chứng chỉ đạt hiệu quả can thiệp 41,5% Tỷ lệ hiện mắc sốt rét ở nhóm chứng có giảm, nhưng không có sự khác biệt trước và sau can thiệp [24]. Đánh giá hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp so với nhóm chứng Tỷ lệ hiện mắc sốt rét giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng có sự khác biệt với. CSHQ của nhóm can thiệp đạt cao hơn nhóm chứng 26,3%. Tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét của nhóm can thiệp giảm nhiều hơn nhóm chứng. HQCT của nhóm can thiệp đạt cao hơn nhóm chứng 28,9%. Mô hình mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình thực hiện ở nhóm can thiệp có hiệu quả tốt hơn mô hình phòng chống sốt rét thường quy 26,3%. Sự thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống sốt rét của nhóm can thiệp tốt hơn nhóm chứng. HQCT của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng 30,2%. Có sự khác nhau về hiệu quả can thiệp phòng chống sốt rét của nhóm can thiệp so với nhóm chứng với D = 28,9%. So sánh với các nghiên cứu trước đây của chúng tôi thường chỉ tác động đến một lĩnh vực: hoặc là tăng cường biện pháp phòng chống véc tơ, hoặc tăng cường biện pháp phát hiện và điều trị hoặc tăng cường biện pháp truyền thông thì nghiên cứu này áp dụng tổng hợp một loạt các biện pháp trên một cách toàn diện. Khác với các nghiên cứu trước đây về biện pháp phòng chống sốt rét tại 2 xã trọng điểm vùng biên giới Việt-Lào [18] và của tác giả khác [28], nghiên cứu này đã áp dụng biện pháp phát hiện và điều trị về đến tận thôn bản, hộ gia đình nhờ vậy đã phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét, giảm nguồn lây một cách chủ động. Người dân cả hai bên biên giới thường qua lại qua con đường giao lưu tự do, chính quyền và y tế xã ít khi kiểm soát được nên nhiều người bị sốt rét đã bị bỏ sót. Tại nhóm can thiệp do tiến hành quản lý sốt rét tại hộ gia đình nên YTTB đã nắm được hết những người trong thôn sang Lào và những người trở về bị mắc sốt rét, 126 bên cạnh đó người Lào sang thôn chơi bị sốt rét cũng được ghi chép, xét nghiệm và điều trị kịp thời nên ít bỏ sót bệnh nhân. Chỉ số hiệu quả can thiệp về tỷ lệ phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét do giao lưu biên giới tại nhóm can thiệp so với trước can thiệp đạt 66,7% và hiệu quả can thiệp so với nhóm chứng đạt 56,5%. Lần đầu tiên trong phòng chống sốt rét ở Việt Nam đã có sự phối hợp trong việc điều tra, đánh giá tình hình sốt rét tại vùng biên giới giữa 2 nước, có sự phối hợp phòng chống sốt rét cho vùng biên giới giữa 2 quốc gia. Sự hợp tác mang tính quốc tế và góp phần cũng cố tình hữu nghị giữa 2 dân tộc, có hướng cho tương lai phối hợp PCSR cho vùng biên giới giữa 2 quốc gia và đã xây dựng một sự hợp tác có tính bền vững [97]. Tính khả thi của mô hình Qua các kết quả trên cho thấy mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình phối hợp với mở rộng phòng chống sốt rét ở vùng biên giới giữa 2 nước được áp dụng trong nghiên cứu này là có hiệu quả, khả thi có thể áp dụng rộng rãi ở nhiều địa phương, bổ sung thêm cho chương trình quốc gia phòng chống sốt rét. Mô hình này có thể áp dụng cho nhiều tỉnh của Việt Nam có chung đường biên giới với các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia và các quốc gia có chung đường biên giới. Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình có thể thực hiện có hiệu quả nếu xây dựng được mạng lưới y tế xã, thôn bản hoạt động tốt, nhiệt tình. Có hỗ trợ thêm nguồn lực: kinh phí, vật tư... Tính thực tiễn và đóng góp của mô hình mới Người dân được phát hiện bệnh sốt rét, được tư vấn và điều trị sốt rét sớm ngay tại nhà. Quản lý được đối tượng giao lưu qua biên giới và người giao lưu bị sốt ngay tại hộ gia đình. Kết quả đã giảm được số bệnh nhân có ký sinh trùng sôt rét lưu hành; giảm số bệnh nhân sốt rét tại các xã biên giới của huyện Hướng Hoá. Kết quả nghiên cứu đưa ra mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam)-Savannakhet (Lào) và sẽ trở thành mô hình để bổ sung cho chương trình phòng chống sốt rét quốc gia áp dụng vào các địa phương trong nước có chung đường biên giới như tỉnh Quảng Trị. 127 Điểm mới của mô hình Từ trước đến nay công tác phòng chống sốt rét chỉ mới thực hiện đầy đủ ở trạm y tế xã, chưa có mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình. Chưa có mô hình quản lý và phòng chống sốt rét tại vùng biên giới. - Với phạm vi đề tài này, chúng tôi xây dựng mô hình quản lý và phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng biên giới tỉnh Quảng Trị đạt được các kết quả: + Quản lý đối tượng có nguy cơ mắc sốt rét cao do giao lưu qua biên giới, đi rừng, ngủ rẫy. Chẩn đoán, điều trị sớm cho những người bị mắc sốt rét ngay tại hộ gia đình, góp phần giảm lây lan cho cộng đồng. + Áp dụng biện pháp truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình ở các xã biên giới, tập trung vào đối tượng đích là giao lưu vào rừng và qua lại biên giới. - Phối hợp khảo sát tình hình sốt rét và phòng chống sốt rét cả hai bên biên giới của 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào). - Phát hiện thêm loài KSTSR mới P.knowlesi ở tỉnh Quảng Trị. Những bài học kinh nghiệm thực hiên mô hình can thiệp Phải có sự nhất trí thực hiện giữa y tế và chính quyền, ban ngành các cấp; Xây dựng đội ngũ y tế xã, thôn bản nhiệt tình hoạt động; Có kinh phí hỗ trợ, có kiểm tra, giám sát, có thi đua khen thưởng để động viên liên tục kịp thời của chính quyền địa phương, y tế tuyến trên. Tính duy trì và nhân rộng Điều kiện duy trì được mô hình: Có sự nhất trí và chỉ đạo thực hiện của Sở y tế, có sự nhiệt tình của y tế cơ sở, có đội ngũ y tế thôn bản có trình độ cơ bản tốt. Có sự phối hợp giữa Sở y tế của 2 tỉnh có chung đường biên giới, ở mức cao hơn là phối hợp chỉ đạo giữa Bộ Y tế của 2 quốc gia. Điều kiện nhân rộng Có sự thống nhất chỉ đạo của Bộ Y tế, Sở Y tế tỉnh. Đưa mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình trở thành mô hình PCSR chính thức của Bộ Y tế. Có thêm nguồn kinh phí hỗ trợ cho y tế thôn bản để thực hiện mô hình. Mô hình phòng chống mới này như vậy đã đạt được kết quả rất tốt, có thể nhân 128 rộng ra các địa phương khác có điều kiện địa lý , kinh tế xã hội và y tế tương tự. Những điểm hạn chế của nghiên cứu 1) Nghiên cứu chọn 4 xã mắc sốt rét cao nhất có tình hình sốt rét luôn luôn biến động phức tạp rất cần có các can thiệp có hiệu quả để làm giảm mắc sốt rét. Chính vì vậy nếu xét về điều tra dịch tễ thì sẽ không đại diện được cho toàn huyện Hướng Hoá, tuy nhiên sẽ áp dụng thuận lợi cho mô hình PCSR tại hộ gia đình ở biên giới có hiệu quả và có ý nghĩa thực tiễn về PCSR tại tỉnh Quảng Trị. 2) Nghiên cứu tuân thủ các quy trình của điều tra, điều tra viên được tập huấn và điều tra thử. Tuy vậy vẫn còn một số hạn chế khi xác định sốt rét do đi rừng, qua Lào vì có thể bệnh nhân đã bị nhiễm sốt rét trước đó nhưng chưa có biểu hiện sốt và không được xét nghiệm. 3) Xác định bệnh nhân mắc sốt rét do đi Lào (mắc tại Lào) trên thực tế đã thấy rõ do tỷ lệ mắc sốt rét tại Lào là cao hơn ở Quảng Trị nhiều lần, tuy nhiên việc xác định chứng cớ còn gặp nhiều khó khăn do thời gian ủ bệnh của ký sinh trùng sốt rét ít nhất là 8 ngày (P.falciparum) nên có thể đã mắc ở một trong hai bên biên giới. 4) Ước lượng khoảng cách từ nhà đến rừng bằng: chiều dài của ngôi nhà = 1 lần x số lần = số mét (m) cũng chỉ cho ta độ chính xác tương đối theo khuynh hướng trội nghĩa là trên thực tế khoảng cách này có thể ngắn hơn. 129 KẾT LUẬN 1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét tại huyện Hƣớng Hoá trong 5 năm từ 2005-2009, năm 2010 và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét tại 4 xã biên giới 1.1. Đặc điểm dịch tễ sốt rét tại huyện Hƣớng Hoá trong 5 năm từ 2005-2009 Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét trung bình 19,9‰ dân số, xu hướng giảm từ 22,7‰ xuống 13,6‰. Tử vong 3 ca do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum. Tỷ lệ người có ký sinh trùng (+) trung bình 14,5‰ dân số, xu hướng dao động từ 10,2‰; 18,8‰; xuống 14,7‰. P.falcifarum tỷ lệ 91,6%. Tại 4 xã biên giới: xã Thuận, Xy, Thanh và A xing tỷ lệ mắc sốt rét trung bình là 66,1‰; trong đó, bệnh nhân mắc sốt rét có đi Lào về, tỷ lệ 22,4- 47,8%; bệnh nhân dưới 5 tuổi sốt rét tỷ lệ từ 14,8-18,2%. 1.2. Đặc điểm dịch tễ sốt rét và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét năm 2010 Tỷ lệ hiện mắc sốt rét là 2,6%; tỷ lệ mắc ký sinh trùng sốt rét là 2,2%. Bệnh nhân sốt rét có ký sinh trùng tỷ lệ 76,6%, gồm P.falciparum 46,9%; P.vivax 46,9%; phối hợp 6,2%. Véc tơ truyền bệnh sốt rét có 18 loài Anophelles (An.minimus và An.dirus); mật độ 5,0 con/đèn/đêm Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng 69,0%; có thái độ đúng 51%, có thực hành đúng 50%; Người dân có nằm màn tỷ lệ 57,1 %; Mắc sốt rét có liên quan với một số yếu tố sau: Đi rừng ngủ rẫy, không ngủ màn, có đi Lào, nhà gần rừng, mùa mưa, p<0,05. Người dân ngủ màn mắc sốt rét 4,7%; không ngủ màn mắc sốt rét 28,5%; Tỷ lệ 4,5% người dân đi rừng, ngủ rẫy mắc sốt rét; không đi rừng, ngủ rẫy mắc sốt rét 2,3%; Người dân có đi sang Lào ngủ lại mắc sốt rét 5,6%; không đi sang Lào mắc sốt rét 4,3%. Người dân sống gần rừng mắc sốt rét tỷ lệ 3,7%, người dân ở xa rừng mắc sốt rét tỷ lệ 2,1%. 2. Đánh giá hiệu quả can thiệp mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình vùng biên giới Sau 2 năm can thiệp tại hộ gia đình: Người dân chủ động thực hiện các hoạt động phòng chống sốt rét: Phát hiện sớm bệnh; khai báo sớm; xét nghiệm lam máu 130 tại nhà; ngủ màn khi đi rẫy và ở lại Lào; tham gia các buổi tư vấn, truyền thông giáo dục sức khỏe tại hộ gia đình. Kết quả: Giảm tỷ lệ mắc sốt rét tại nhóm can thiệp từ 2,2% giảm xuống 0,7% ; so nhóm chứng, từ 3,1% giảm 1,8%; Hiệu quả can thiệp là 26,3% (p<0,05) Giảm tỷ lệ người bệnh có ký sinh trùng sốt rét tại nhóm can thiệp từ 1,7% giảm xuống 0,5%; so nhóm chứng từ 2,4% giảm 1,4%; Hiệu quả can thiệp là 28,9%. Tăng tỷ lệ phát hiện và điều trị người bệnh sốt rét tại hộ gia đình của nhóm can thiệp đạt 25%, so nhóm chứng 0%. Phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét do giao lưu biên giới: Nhóm can thiệp: Tỷ lệ mắc sốt rét giảm từ 7,8% xuống 2,6%. So xã chứng hiệu quả can thiệp là 56,5%; p<0,05. Tăng tỷ lệ người dân thực hành phòng chống sốt rét đúng tại nhóm can thiệp. Trong đó 81,5% hộ có nằm màn; 91,7% hộ không có nước đọng; 74,4% hộ dời chuồng gia súc xa nhà: 75% hộ không có bụi rậm quanh nhà: 90% hộ dời bếp lửa ra ngoài nhà; So với nhóm chứng: Hiệu quả can thiệp là 30,2%. Phát hiện loài ký sinh trùng sốt rét mới Plasmodium knowlesi, là loài ký sinh trùng sốt rét thứ 5 trên thế giới, lây từ khỉ sang người ở vùng biên giới của tỉnh Quảng Trị. Véc tơ truyền bệnh sốt rét: Trước can thiệp có 18 loài Anophelles, mật độ An chung 5,0 con/đèn/đêm. Sau can thiệp còn 10 loài, mật độ 0,81 con/đèn/đêm. Phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới. Tại nhóm can thiệp: Quản lý, phát hiện, điều trị sớm người Việt Nam qua biên giới và mắc sốt rét: 13,8% bệnh nhân sốt rét của 2 xã. Điều trị bệnh nhân sốt rét người Lào/số người Lào sang 2 xã: 20,2%. Phun hoá chất cho 10/10 thôn giáp biên giới của Lào. 131 KIẾN NGHỊ 1. Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình là có hiệu quả, có tính khả thi và có thể nhân rộng cho các vùng dịch tễ sốt rét khác có cùng đặc điểm vùng sinh thái ở biên giới. Cần tổ chức quản lý, giám sát hoạt động mạng lưới y tế xã, YTTB xét nghiệm và điều trị các trường hợp KSTSR (+) về đến hộ gia đình. 2. Tiếp tục điều tra về tỷ lệ hiện mắc và vai trò gây bệnh của Plasmodium knowlesi tại tỉnh Quảng Trị. 3. Tiếp tục các nghiên cứu sinh học phân tử, dịch tễ bệnh sốt rét tại tỉnh Quảng Trị để có thể tìm thêm một số yếu tố liên quan đến bệnh sốt rét, nhất là khi bệnh sốt rét có đặc thù ở vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi ở biên giới.
File đính kèm:
- luan_an_nghien_cuu_thuc_trang_sot_ret_va_danh_gia_ket_qua_ca.pdf
- 1.HoangHa_Tom tat.doc.pdf
- 3.HoangHa_Dong gop moi.doc.pdf