Luận án Ứng dụng các kỹ thuật lên men, xử lý nhiệt và nano trong chế biến và nâng cao giá trị các chất có hoạt tính sinh học trong tỏi
Ở Việt Nam, tỏi được trồng nhiều tại các vùng Hải
Dương, Hà Nội, Bắc Giang, Phan Rang, Lý Sơn, Đà Lạt,
Tỏi Phan Rang có đặc điểm củ nhỏ, vỏ lụa trắng, tinh dầu rất
thơm. Nhiều nông hộ áp dụng quy trình VIETGAP vào sản
xuất, cung cấp cho người tiêu dùng sản phẩm tỏi bảo đảm
chất lượng an toàn.
Bảo quản tỏi rất quan trọng để cung cấp sản phẩm cho
thị trường rau củ tươi và cho quá trình chế biến. Tỏi có thể
được lưu trữ khoảng 1-2 tháng trong điều kiện tốt ở nhiệt độ
môi trường xung quanh với RH thấp (< 75%).="" tuy="">
trong những điều kiện này, củ tỏi sẽ dần dần trở nên mềm,
xốp và nhăn nheo do mất nước. Khảo sát độ thuần thục và
phương pháp tồn trữ giúp duy trì ổn định nguồn nguyên liệu
cho quá trình chế biến và mua bán.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Ứng dụng các kỹ thuật lên men, xử lý nhiệt và nano trong chế biến và nâng cao giá trị các chất có hoạt tính sinh học trong tỏi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Ứng dụng các kỹ thuật lên men, xử lý nhiệt và nano trong chế biến và nâng cao giá trị các chất có hoạt tính sinh học trong tỏi
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Công nghệ Thực phẩm Mã ngành: 62540101 NGUYỄN ÁI THẠCH ỨNG DỤNG CÁC KỸ THUẬT LÊN MEN, XỬ LÝ NHIỆT VÀ NANO TRONG CHẾ BIẾN VÀ NÂNG CAO GIÁ TRỊ CÁC CHẤT CÓ HOẠT TÍNH SINH HỌC TRONG TỎI Cần Thơ, 2020 CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ Người hướng dẫn chính: PGS.TS. Nguyễn Minh Thủy Người hướng dẫn phụ: TS. Hà Phương Thư Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp cơ sở Họp tại: ., Trường Đại học Cần Thơ. Vào lúc .. giờ .. ngày .. tháng .. năm .. Phản biện 1: Phản biện 2: Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ. Thư viện Quốc gia Việt Nam. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Nguyễn Ái Thạch, Nguyễn Minh Thủy, Nguyễn Thị Mỹ Tuyền và Võ Thị Diệu. 2016. Thay đổi đặc tính lý hóa của củ tỏi trong quá trình thuần thục và tồn trữ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 45b: 16-24. ISSN 1859-2333. 2. Nguyễn Ái Thạch, Lê Thái Anh Thư và Nguyễn Minh Thủy. 2016. Ảnh hưởng của quá trình chần, mật độ Lactobacillus platarum và nồng độ muối đến các hoạt chất sinh học trong sản phẩm tỏi lên men muối chua. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chuyên đề: Nông nghiệp xanh: 161-166. ISSN 1859–4581. 3. Nguyễn Ái Thạch, Nguyễn Minh Thủy. 2017. Ảnh hưởng của nhiệt độ lão hóa đến các đặc tính lý hóa của sản phẩm tỏi đen. Tạp chí Hóa học. 55(4E23): 130-134. ISSN: 0866-7144. 4. Nguyễn Ái Thạch, Nguyễn Minh Thủy. 2017. Ảnh hưởng của nhiệt độ lão hóa đến hàm lượng các hợp chất sinh học trong tỏi đen. Tạp chí Hóa học. 55(4E23): 135-139. ISSN: 0866- 7144. 5. Nguyen Ai Thach and Nguyen Minh Thuy. 2017. Effect of extraction conditions on polyphenols, flavonoids, S-Allyl cysteine content and antioxidant activity of black garlic extract. Vietnam Journal of Science and Technology, 55(5A), 18-25. ISSN: 0866-708X. 6. Nguyễn Ái Thạch và Nguyễn Minh Thủy. 2018. Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian sấy đến các hợp chất có hoạt tính sinh học và khả năng chống oxy hóa của sản phẩm tỏi đen. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, 1(86): 59-63. ISSN: 1859-1558. 7. Nguyen Ai Thach and Nguyen Minh Thuy. 2019. Study of synthesis and characteristics of total polyphenols, total flavonoids and S-allyl cysteine-loaded alginate nanoparticles with various black garlic extracts and alginate ratios. International Journal of Engineering Sciences and Reasearch Technology, 8(6): 261-272. ISSN: 2277-9655. 8. Nguyen Ai Thach, Ha Phuong Thu and Nguyen Minh Thuy. 2019. In-vitro evaluation of cytotoxicity, antimicrobial, and enzyme inhibition activity of black garlic and its nanoparticles. International Journal of Engineering Sciences and Reasearch Technology, 8(10): 59-63. ISSN: 2277-9655. 1 Chương 1: GIỚI THIỆU 1.1 Tính cấp thiết của luận án Ở Việt Nam, tỏi được trồng nhiều tại các vùng Hải Dương, Hà Nội, Bắc Giang, Phan Rang, Lý Sơn, Đà Lạt, Tỏi Phan Rang có đặc điểm củ nhỏ, vỏ lụa trắng, tinh dầu rất thơm. Nhiều nông hộ áp dụng quy trình VIETGAP vào sản xuất, cung cấp cho người tiêu dùng sản phẩm tỏi bảo đảm chất lượng an toàn. Bảo quản tỏi rất quan trọng để cung cấp sản phẩm cho thị trường rau củ tươi và cho quá trình chế biến. Tỏi có thể được lưu trữ khoảng 1-2 tháng trong điều kiện tốt ở nhiệt độ môi trường xung quanh với RH thấp (< 75%). Tuy nhiên, trong những điều kiện này, củ tỏi sẽ dần dần trở nên mềm, xốp và nhăn nheo do mất nước. Khảo sát độ thuần thục và phương pháp tồn trữ giúp duy trì ổn định nguồn nguyên liệu cho quá trình chế biến và mua bán. Việc tiêu thụ tỏi tươi chưa qua chế biến bị hạn chế do có mùi hăng, vị cay đặc trưng và có xu hướng gây khó chịu cho dạ dày. Trong những năm gần đây, các phương pháp chế biến khác nhau như xử lý nhiệt, lão hóa (aging) và lên men đã được sử dụng để loại bỏ mùi khó chịu và cải thiện vị của tỏi (Bae et al., 2014). Tỏi đen có vị ngọt dịu và độc đáo, cấu trúc mềm dẻo như trái cây sấy, không gây mùi vị khó chịu như tỏi tươi (Wang et al., 2010). Hơn nữa, quá trình chế biến tỏi đen còn liên quan đến sự hình thành các hợp chất phenolic, S-allyl-L-cysteine (SAC) và các hợp chất hoà tan trong nước có tác dụng chống oxy hoá mạnh (Corzo- Martinez et al., 2007; Imai et al., 1994). Vì vậy đây là thực phẩm lý tưởng trong phòng ngừa và điều trị bệnh tim, Alzheimer, viêm khớp và các bệnh mãn tính như bệnh tiểu đường, đặc biệt là bệnh ung thư. Ngoài ra, quá trình lên men, ngoài việc là một phương pháp để bảo quản nguyên liệu tươi trong thời gian ngắn trước khi tiếp tục chế biến, nó có thể 2 mang lại một vài thuận lợi (cải thiện mùi, làm giàu các chất chuyển hóa mong muốn được tạo ra bởi các vi sinh vật và tăng độ an toàn) như đã được báo cáo trong các sản phẩm len men thực vật khác (Buckenhuskes et al., 1990). Hiện nay, các nghiên cứu chuyên sâu về quy trình chế biến và các biến đổi chất lượng sản phẩm tỏi đen và tỏi lên men lactic đã bắt đầu được quan tâm tại Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc tạo ra sản phẩm mới (tỏi đen), chưa quan tâm nhiều đến hoạt chất sinh học trong sản phẩm. Do đó, việc nghiên cứu, thiết lập và kiểm soát các thông số kỹ thuật trong chế biến là điều cần thiết và cấp bách nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị sinh học và khả năng phòng ngừa bệnh cao tại Việt Nam. Khả năng hấp thu các dược chất quý trong tỏi vào cơ thể đến nay công bố vẫn còn hạn chế, tuy nhiên có thể khẳng định rằng khi nano hóa các hoạt chất trên thì khả năng hấp thu sẽ tăng lên gấp hàng chục lần (Shaikh et al., 2009). Quy trình chế tạo hạt nano tỏi đen khá phức tạp bởi chúng chỉ được hình thành khi đáp ứng các tiêu chí về tính chất vật lý và hóa học đặc trưng. Hạt nano tỏi đen cũng chưa được chế tạo và công bố ở các nghiên cứu trong nước và quốc tế. Vì vậy, nghiên cứu chế biến các sản phẩm từ tỏi với hàm lượng cao các hoạt chất sinh học, đồng thời cùng với việc trích ly hiệu quả các hoạt chất này và ứng dụng công nghệ nano để tăng cường hoạt tính của chúng là cấp thiết. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Nâng cao và cải thiện sinh khả dụng của các chất có hoạt tính sinh học trong tỏi thông qua quy trình chế biến sản phẩm tỏi (tỏi đen và tỏi len men lactic) và công nghệ nano. 1.3 Nội dung nghiên cứu Nội dung 1: Khảo sát sự thay đổi đặc tính lý học và hợp chất có hoạt tính sinh học của củ tỏi (Allium sativum L.) trong quá trình thuần thục và tồn trữ. 3 Nội dung 2: Nâng cao các chất có hoạt tính sinh học trong củ tỏi thông qua quy trình chế biến sản phẩm tỏi đen và tỏi lên men lactic. Nội dung 3: Ứng dụng công nghệ nano nhằm cải thiện sinh khả dụng của các hợp chất sinh học từ sản phẩm tỏi đen. 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nguyên liệu tỏi tươi cổ mềm, giống địa phương được thu hoạch và chọn lựa vào thời điểm mùa vụ năm 2014, 2015, 2016 và 2017 tại phường Văn Hải, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Sản phẩm tỏi đen và tỏi lên men lactic được chế biến và nghiên cứu tại Bộ môn Công nghệ Thực phẩm, Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ. Hạt nano tỏi đen được chế tạo bằng cách sử dụng polymer alginate mạch ngắn và thử nghiệm hoạt tính kháng sinh, gây độc tế bào ung thư, ức chế enzyme -glucosidase và AChE, khả năng hạ đường huyết trên chuột nhắt trắng bị tiểu đường tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. 1.5 Ý nghĩa của luận án 1.5.1 Ý nghĩa khoa học Luận án đã cung cấp nhiều kết quả nghiên cứu về độ thuần thục, thời gian thu hoạch và điều kiện bảo quản tỏi tươi. Ngoài ra, cơ chế hình thành tỏi đen và tỏi lên men lactic trong suốt quá trình chế biến cũng được làm rõ. Các mô hình đề xuất và các thiết lập liên quan đến các giá trị tham số động học được đánh giá nhằm có các hiểu hiết chính xác về sự thay đổi của các hợp chất có hoạt tính sinh học trong sản phẩm thực phẩm trong quá trình chế biến. Hạt nano tỏi đen được chế tạo và thử nghiệm thành công ở kỹ thuật in-vitro và in-vivo góp phần làm đa dạng cơ sở dữ liệu thuốc phục vụ hỗ trợ và điều trị bệnh. 1.5.2 Ý nghĩa thực tế 4 Thông qua quy trình chế biến tỏi đen và tỏi lên men lactic sẽ làm tăng lượng tiêu thụ tỏi cho người nông dân. Nghiên cứu đồng thời quy trình sản xuất hai dạng sản phẩm này cũng nhằm tạo ra nguồn thực phẩm mới có giá trị sinh học cao và là công việc có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Tỏi đen và tỏi lên men lactic trải qua quá trình chế biến có hàm lượng các chất có hoạt tính sinh học (S-allyl cysteine, polyphenol, flavonoid,) và hoạt động chống oxy hóa cao hơn so với tỏi tươi. Đặc biệt, các hợp chất này có khả năng ứng dụng cao trong việc bảo vệ sức khỏe và là một liệu pháp phòng ngừa bệnh ung thư cho người tiêu thụ chúng. Tỏi đen và tỏi lên men lactic cũng góp phần làm đa dạng hơn các sản phẩm từ tỏi ngoài thị trường và cung cấp nguồn thực phẩm giàu “giá trị dược liệu” trong bữa ăn hàng ngày. Công nghệ nano được áp dụng đồng thời sẽ tăng giá trị sinh học của sản phẩm và mở hướng mới cho việc sử dụng các sản phẩm của tỏi Việt Nam ở mức độ cao và hiệu quả hơn. Ngoài ra, sự ra đời của hệ nano tỏi đen sẽ là niềm hy vọng mới cho các bệnh nhân ung thư, tiểu đường và một số loại bệnh khác. 1.6 Những điểm mới của luận án Luận án cung cấp thông tin thời điểm thuần thục và điều kiện bảo quản tỏi tươi liên quan đến đặc tính lý học và các hợp chất có hoạt tính sinh học trong suốt quá trình tồn trữ. Xây dựng được quy trình chế biến tỏi đen và tỏi lên men lactic nhằm tạo ra sản phẩm tỏi có chất lượng cao vượt trội so với tỏi tươi (tăng cường hàm lượng các hoạt chất sinh học và khả năng chống oxy hóa trong tỏi đen). Xây dựng quy trình trích ly các hợp chất sinh học từ tỏi đen và ứng dụng công nghệ nano chế tạo thành công hạt nano tỏi đen mang các chất có hoạt tính sinh học với kích 5 thước 100 nm, hình dạng gần với hình cầu và độ ổn định cao. Hiệu quả thu nhận được từ thử nghiệm hoạt tính của hệ nano tỏi đen ở kỹ thuật in-vitro và in-vivo cũng được xác định. 1.7 Kết cấu của luận án Luận án gồm 5 chương: Chương 1-Giới thiệu (trang 1-5); Chương 2-Tổng quan tài liệu (trang 6-30); Chương 3- Phương tiện và phương pháp (trang 31-47); Chương 4-Kết quả và thảo luận (trang 48-135); Chương 5-Kết luận và đề nghị (trang 136-137). Trong nội dung chính có 36 bảng và 84 hình. Trong bài viết sử dụng 282 tài liệu tham khảo (263 tài liệu tiếng Anh và 19 tài liệu tiếng Việt). Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Tổng quát về tỏi Tỏi (Allium sativum L.), một trong những loại thực vật lâu đời nhất được sử dụng trong y học, đã trở thành một phần quan trọng trong của sống của con người qua nhiều thế kỷ. Tỏi được sử dụng như gia vị thực phẩm, tăng cường sức khỏe cho người lính trong chiến tranh, chữa cảm lạnh, nhiễm trùng và điều trị nhiều loại bệnh khác nhau, từ bệnh tim mạch đến ung thư và thậm chí cả bệnh dịch hạch (Amagase, 2006). Thành phần của tỏi rất phức tạp, với hơn 200 hợp chất khác nhau góp phần vào hiệu quả có lợi của tỏi. Những tính năng quan trọng và độc đáo nhất của tỏi là hàm lượng hợp chất lưu huỳnh hữu cơ cao. Tỏi có chứa nhiều lưu huỳnh hơn (ít nhất gấp 4 lần) so với nhiều loại rau chứa lưu huỳnh cao khác: hành tây, bông cải xanh và súp lơ. Tỏi cũng chứa nhiều carbohydrate chứa fructose, protein, xơ, saponin, phospho, kali, kẽm, lượng selen vừa phải và vitamin C, steroid glycoside, lectin, prostaglandin, tinh dầu, adenosine, vitamins B1, B2, B6, và E, biotin, acid nicotinic, acid béo, glycolipid, phospholipid, anthocyanin, flavonoid, phenol, và 6 acid amin thiết yếu (Borek, 2001; Imai et al., 1994; Amagase et al., 2001; Ide et al., 1999; Borek, 2006; Rahman, 2003). 2.2 Các nghiên cứu liên quan đến điều kiện thu hoạch và tồn trữ củ tỏi sau thu hoạch Tại Thổ Nhĩ Kỳ, tỏi có thể được bảo quản tại 0-5oC, 60-70% RH trong ít nhất 3-4 tuần trong kho. Đến năm 2012, chưa có phương pháp xử lý nào được thực hiện ở trước và sau thu hoạch tỏi bảo quản tại Thổ Nhĩ Kỳ. Bảo quản tỏi trong điều kiện kiểm soát khí quyển và điều chỉnh khí quyển được sử dụng phổ biến với phương pháp chiếu xạ, hóa chất và gia nhiệt khác nhau ở nước ngoài (Selen and Nilgün, 2012). Geraldine et al. (2008) đánh giá tính chất vật lý của agar-agar (1%) dựa trên lớp màng phủ kết hợp với 0,2% chitosan và 0,2% acid acetic, cũng như ảnh hưởng của chúng đến lớp màng phủ của tỏi chế biến. Tổn thất ẩm trung bình của tỏi phủ màng thấp hơn 3 lần so với mẫu đối chứng (không phủ màng). Có sự gia tăng đáng kể sự khác biệt về màu sắc (DE*) của mẫu đối chứng so với cách xử lý khác. Tỏi bao màng có cường độ hô hấp (30 mg CO2/kg.giờ) giảm một nửa so với tỏi đối chứng. Hiện nay, ở Việt Nam, củ tỏi sau khi thu hoạch từ ruộng tỏi sẽ được nông dân xử lý, phơi nắng nhiều ngày và lưu kho. Quy trình đơn giản này sẽ làm tỏi dễ bị thối hỏng, mất nước và dẫn đến giảm giá trị kinh tế. Ngoài ra, các nghiên cứu sau thu hoạch củ tỏi vẫn chưa được công bố nhiều ở nước ta. 2.3 Các nghiên cứu nâng cao hoạt chất sinh học trong tỏi liên quan đến chế biến tỏi đen và tỏi lên men lactic Ở Việt Nam trước đó, tỏi đen chỉ được nghiên cứu tại Học viện Quân y ở quy mô cấp Nhà nước mã số KC10.TN05/11-15. Theo chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu lên men tỏi đen từ tỏi Lý Sơn và đánh giá tác động sinh học của 7 sản phẩm tạo ra” cho biết quá trình lên men, các hoạt tính sinh học của tỏi Lý Sơn tăng đáng kể, trong đó hàm lượng đường tổng tăng khoảng 13 lần, fructose tăng khoảng 52 lần và SAC tăng gấp 6 lần. Tỏi đen được chế biến từ tỏi tươi thu hoạch ở xã Quảng Hòa, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình để ủ và lên men tỏi đen sau 35-55 ngày.Nồi ủ sử dụng có phần nắp trong là viền cao su giữ kín nhiệt, lỗ thông hơi gắn với một nhiệt kế 100oC để theo dõi nhiệt độ trong nồi (Nguyễn Đức Vượng và ctv., 2015). Ngoài ra, Nguyễn Đức Vượng và ctv. (2017) cũng đã sử dụng quy trình lên men tự nhiên bằng nhiệt để chuyển tỏi trắng thành tỏi đen. Tiến hành lên men trong điều kiện 70oC và thời gian lên men từ 35-45 ngày. Hàm lượng S-allyl cysteine (SAC) tăng lên cũng là một thay đổi quan trọng trong tiến trình chế biến tỏi đen. Tỏi tươi chứa 20-30 g/g SAC (Kodera et al., 2002) và lượng SAC trong tỏi đen cao gấp 5-6 lần so với tỏi tươi (Bae et al., 2012; Wang et al., 2010). SAC được hình thành bởi quá trình thủy phân của -glutamyl-S-allyl cysteine (GSAC) bởi - glutamyl transpeptidase (-GTP, EC 2.3.2.2) (Kodera et al., 2002). SAC là một trong những hợp chất amino acid chứa lưu huỳnh chính và là chất có nhiều lợi ích nhất của tỏi, như chống oxy hóa, chống ung thư, chống các bệnh lý về gan và thần kinh (Kodera et al., 2002). Tỏi muối chua từ năm công ty ở Tây Ban Nha được phân tích về các đặc tính hóa lý, thành phần gần đúng, acid a ... hơn các mẫu tỏi đã qua xử lý nhiệt ở nhiệt độ cao. Hàm lượng SAC của mẫu tỏi lão hóa ở nhiệt độ 60oC trong 45 ngày là 135,5 mg/kg, trong khi đó lượng SAC trong các mẫu tỏi lão hóa 90oC là 90,8 mg/kg. Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian sấy đến chất lượng sản phẩm tỏi đen Bảng 4.1 Giá trị tối ưu của các hợp chất có hoạt tính sinh học Hàm lượng các hợp chất có hoạt tính sinh học và khả năng loại bỏ DPPH Nhân tố Giá trị đạt được/Thông số tối ưu 18,97 Nhiệt độ (oC) 65,38 Hàm lượng TPC (mgGAE/g) Thời gian (giờ) 10,38 8,67 Nhiệt độ (oC) 57,61 Hàm lượng TFC (mgQE/g) Thời gian (giờ) 11,11 85,06 Nhiệt độ (oC) 55,51 Khả năng loại bỏ gốc tự do DPPH (%) Thời gian (giờ) 13,14 28 Đồ thị bề mặt đáp ứng và contour cũng đồng thời thể hiện nhiệt độ và thời gian sấy cần thiết để thu nhận được sản phẩm tỏi đen chứa các hoạt chất sinh học đạt hàm lượng tối ưu. Các điểm giá trị này cũng được thể hiện ở Bảng 4.1. 4.2.2 Nâng cao các chất có hoạt tính sinh học trong tỏi thông qua quy trình chế biến sản phẩm tỏi lên men lactic Ảnh hưởng của phương pháp chần nguyên liệu tỏi đến hoạt chất sinh học và hoạt tính chống oxy hóa trong tỏi a Polyphenol tổng số Kết quả khảo sát cho thấy hàm lượng polyphenol tổng số (TPC) có khuynh hướng giảm dưới tác dụng của nhiệt độ chần. Khi chần tỏi ở các nhiệt độ khác nhau (70, 80 và 90oC) thì hàm lượng polyphenol khác biệt có ý nghĩa thống kê P<0,05. Cụ thể, hàm lượng polyphenol cao nhất được xác định trong mẫu tỏi nguyên liệu 4,47 mgGAE/g d.w, hàm lượng polyphenol giảm khi chần ở 70oC là 3,70 mgGAE/g d.w; ở 80oC là 3,93 mgGAE/g d.w và ở nhiệt độ 90oC là 3,16 mgGAE/g d.w. b Flavonoid tổng số Quá trình xử lý nhiệt bằng phương pháp chần có thể gây thiệt hại các hợp chất flavonoid. Kết quả thu được cho thấy có sự tổn thất nhỏ hàm lượng flavonoid khi chần tỏi ở 80oC trong 90 giây. Hàm lượng flavonoid tổng số trong tỏi chịu ảnh hưởng bởi nhiệt độ và thời gian chần. Hàm lượng flavonoid của mẫu nguyên liệu không qua quá trình chần là 1,67±0,05 mgQE/g d.w và giảm ở các mẫu chần ở nhiệt độ 70, 80 và 90oC. Khi nhiệt độ chần tăng từ 70 đến 80oC thì hàm lượng flavonoid cũng tăng lần lượt từ 1,21 mgQE/g d.w và 1,31 mg QE/g d.w. Tuy nhiên, khi nhiệt độ tăng quá cao thì hàm lượng flavonoid lại giảm, ở 90oC là 1,04 mgQE/g d.w. Điều này cho thấy hàm lượng flavonoid của tỏi phụ thuộc vào nhiệt độ chần (Litaiem et al., 2013). 29 Ảnh hưởng của nồng độ NaCl và mật số vi khuẩn Lactobacillus plantarum bổ sung vào dịch lên men đến hoạt chất sinh học và hoạt tính chống oxy hóa trong tỏi lên men a Polyphenol tổng số Khi tăng mật số vi khuẩn (từ 105 đến 107 CFU/mL) và nồng độ NaCl (từ 0,5 đến 2%), hàm lượng polyphenol thay đổi theo mô hình đường cong. Kết quả d ṭ ḿ từ đồ thị được giá trị TPC cao nhất đạt 17,70 mgGAE/g d.w ứng với mật số vi khuẩn 106 CFU/mL, nồng độ muối 1% (sau 6 ngày lên men). Hàm lượng polyphenol tăng lên sau quá trình lên men có thể được giải thích là do giải phóng các hợp chất phenol đơn giản bởi acid và enzyme thủy phân. b Flavonoid tổng số Khi tăng mật số vi khuẩn (từ 105 đến 107 CFU/mL) và nồng độ NaCl (từ 0,5 đến 2%) thì hàm lượng flavonoid thay đổi theo mô hình đường cong. Kết quả dò tìm từ đồ thị tìm được giá trị TFC cao nhất đạt 6,1 mg QE/g d.w ứng với mật số vi khuẩn 106 CFU/mL, nồng độ muối 1% (sau 6 ngày lên men). Enzyme glucosidase, amylase, cellulase, tannase, esterase, invertase và các enzyme khác có nguồn gốc từ vi khuẩn trong quá tŕnh lên men lactic có thể thủy phân các hợp chất glucoside. Các enzyme này đóng vai trò trong việc phá hủy thành tế bào thực vật và do đó làm tăng hàm lượng flavonoid. 4.3 Ứng dụng công nghệ nano nhằm cải thiện sinh khả dụng của các hợp chất sinh học từ các sản phẩm tỏi chế biến 4.3.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình trích ly các chất có hoạt tính sinh học trong tỏi đen Ảnh hưởng của tỷ lệ nguyên liệu tỏi đen/dung môi và loại dung môi đến các chất có hoạt tính sinh học và hoạt tính chống oxy hóa của tỏi đen 30 Hàm lượng polyphenol của các dịch trích thu được theo tỷ lệ nguyên liệu tỏi đen/dung môi và loại dung môi trích ly khác nhau cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05). Hàm lượng polyphenol cao nhất (7,94 mg GAE/g) thu được với dung môi ethanol 50%, tiếp theo là ethanol 100% và thấp nhất là nước (4,97 mg GAE/g) ở tỷ lệ trích ly 1/10. Hàm lượng polyphenol thu được trong dung dịch ethanol cao hơn so với nước. Điều này có thể do sự hiện diện của các tạp chất (acid hữu cơ, glucid, protein hòa tan). Tạp chất làm ảnh hưởng đến việc xác định các hợp chất phenol. a. b. Hình 4.1 Sắc ký đồ của dung dịch SAC chuẩn (a) và SAC trong tỏi đen (b) 31 Hàm lượng SAC được phân tích bằng phương pháp HPLC (Hình 4.1). SAC là một hợp chất có hoạt tính sinh học tan trong nước được hình thành trong quá trình thủy phân γ- glutamyl-S-allylcysteine do γ-glutamyl transpeptidase. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng SAC thu được trong dịch trích nước (76,0 mg/kg) cao hơn đáng kể so với so với dung dịch ethanol (50% và 100%) (62,6 mg/kg và 20,3 mg/kg, tương ứng) ở tỷ lệ trích 1/10. Dung môi ethanol không thích hợp để trích ly SAC. Tỷ lệ trích 1/5 cho thấy hàm lượng SAC thu được là thấp nhất; tỷ lệ trích 1/10 và 1/15 cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa (p>0,05) ở cả 3 loại dung môi. 4.3.2 Đặc trưng và tính chất của hệ nano tỏi đen Hình thái và kích thước Các ảnh FE-SEM cho thấy hạt nano tỏi đen được chế tạo ở các tỷ lệ khác nhau đều có hình dạng gần với hình cầu, kích thước nằm trong khoảng 60-80 nm và ít kết tụ (Hình 4.2). Riêng Hình 4.2a thể hiện hình thái của tỏi đen khi chưa được nano hóa, các hợp chất tạo thành khối không có hình dạng xác định và kích thước khá lớn. Kết quả cho thấy sự phân bố kích thước của hệ nano tỏi đen cho thấy kích thước hạt trung bình là 109-178 nm, tất cả đều phân tán tốt (100%). Đường kính đo được trong DLS là đường kính thủy động lực học nên kết quả là kích thước lớn hơn hạt được đo bằng kính hiển vi điện tử quét. Kích thước hạt nhỏ (< 200 nm) có thể đảm bảo làm tăng tính thấm qua thành mạch, mức độ thấp hơn sự hấp thu của hệ thống lưới nội mô và nâng cao tỷ lệ sử dụng vật liệu bọc (Lu et al., 2014). Do đó, phạm vi kích thước của hệ nano tỏi đen được chuẩn bị trong nghiên cứu này là hoàn toàn phù hợp trong thử nghiệm in vivo. 32 (a) (b) (c) (d) (e) (f) Hình 4.2 Ảnh FE-SEM của hệ dịch tỏi đen (a) và hệ nano tỏi đen tỷ lệ dịch trích/dung dịch alginate là 1/1 (b), 2/1 (c), 3/1 (d), 1/2 (e), 1/3 (f). Sự phân bố hạt và điện thế zeta Khi dấu điện tích của các hạt giống nhau có thể đẩy nhau, với alginate có kích thước đủ nhỏ và tỷ trọng thấp trong hệ treo, điện thế zeta cao sẽ làm ổn định bởi vì sự phân tán sẽ chống lại sự kết tụ (Sou, 2011). Sự phân bố điện thế zeta của hệ nano tỏi đen (Hình 4.3) được chế tạo ở các tỷ lệ cho thấy giá trị điện thế zeta trong khoảng 11,0-22,5 mV. Từ những kết quả này có thể suy luận rằng hệ treo hạt nano tỏi đen mang điện tích âm với kích thước hạt nhỏ và điện thế zeta khá cao là một sự phân tán tương đối ổn định. Phổ FT-IR Việc xác định các hợp chất bằng cách sử dụng phổ hồng ngoại dựa trên sự tồn tại tần số đặc trưng của nhóm chức, chúng có cùng một giá trị gần như nhau bất kể hợp chất có nhóm chức năng nào khác xuất hiện trong đó. Sự khác biệt về quang phổ hồng ngoại của chúng chủ yếu do khác biệt về cường độ hấp thụ. Phổ FT-IR (Hình 4.4) của hệ nano tỏi đen được chế tạo ở tỷ lệ dịch trích/dung dịch alginate là 1/1, 2/1, 3/1, 1/2 và 1/3 không có sự khác biệt ý 33 nghĩa và cũng không có sự hình thành các đỉnh lạ. Điều này minh chứng cho việc không có liên kết hóa học mới nào được hình thành, khẳng định hơn nữa rằng các hợp chất và vật liệu alginate được kết hợp thông qua các tương tác vật lý chứ không phải là các phản ứng hóa học. Hình 4.3 Điện thế zeta của hệ nano tỏi đen được chế tạo ở tỷ lệ dịch trích/dung dịch alginate là 2/1 40 1. 14 57 8. 10 70 8. 98 76 3. 38 85 9. 38 93 1. 66 10 23 .0 9 10 80 .1 2 11 55 .0 0 14 19 .3 3 16 36 .8 0 29 27 .8 3 34 17 .7 4 bot toi 45 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100 105 % Tr an sm itta nc e 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 Wav enumbers (cm-1) Số sóng (cm-1) Độ dẫ n t ru yề n ( % ) Hình 4.4 Phổ FT-IR của hệ nano tỏi đen 4.4 Hoạt tính trong thử nghiệm in-vitro và in-vivo về khả năng hấp thu và tác dụng của các hoạt chất sinh học của hệ nano tỏi đen 4.4.1 Thử nghiệm in-vitro Tác dụng gây độc tế bào Trị liệu sử dụng dạng hạt nano là một phương pháp đang nổi lên trong điều trị ung thư và các rối loạn viêm 34 nhiễm khác. Viện ung thư quốc gia Mỹ (The National Cancer Institute) đã công nhận công nghệ nano là một lĩnh vực đang có tiềm năng trong cuộc cách mạng y học hiện đại nhằm phát hiện, điều trị và phòng ngừa ung thư (Nair et al., 2010). Kết quả cho thấy cả hai hệ nano tỏi đen và tỏi đen đều dương tính với các dòng tế bào ung thư thử nghiệm, ngoại trừ tế bào ung thư vú. Điều này cho thấy tác dụng tích cực của hệ nano tỏi đen và tỏi đen trong điều trị bệnh ung thư ở kỹ thuật in-vitro. Hoạt tính kháng sinh Mẫu tỏi đen không thể hiện hoạt tính đối với các dòng vi khuẩn Staphylococcus aureus, Enterococus faecium, E. Coli và nấm Candida albicans ở nồng độ 256 g/mL. Trong khi đó, hệ nano tỏi đen đều thể hiện hoạt tính trên tất cả 7 dòng vi sinh vật thử nghiệm. Ở nồng độ 256 g/mL, hệ nano tỏi đen đã cho hoạt tính với Staphylococcus aureus và Enterococus faecium. Tiếp theo ở nồng độ 64 g/mL và 16 g/mL đã thể hiện hoạt tính lần lượt với Lactobacillus fermentum, Pseudomonas aeruginosa và Bacillus subtilis, E. Coli, Candida albicans, tương ứng. Hoạt tính ức chế enzyme gây bệnh tiểu đường ( - glucosidase) và bệnh Alzheimer (acetylcholinesterase) a Enzyme -glucosidase Khả năng ức chế enzyme -glucosidase ở cả hai phương pháp thử (1) và (2). Đối với phương pháp (1), hệ nano tỏi đen ức chế 33,2% cao hơn so với tỏi đen 13,4%. Bên cạnh đó, ở phương pháp (2), tỏi đen không ức chế được enzyme -glucosidase ở nồng độ 256 g/mL. Song song đó, hệ nano tỏi đen đã ức chế được nó ở nồng độ ≥ 64 g/mL. b Enzyme acetylcholinesterase Cả hai hệ nano tỏi đen và tỏi đen đều không có khả năng ức chế AChE ở nồng độ 128 g/mL. 35 4.4.2 Thử nghiệm in-vivo Ảnh hưởng của bột hệ nano tỏi đen và tỏi đen trên glucose huyết và sự tăng trọng của chuột Kết quả thử nghiệm cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa về đường huyết và trọng lượng chuột sau thời gian 1 tuần giữa chuột được sử dụng bột hệ nano tỏi đen/tỏi đen và chuột đối chứng (uống nước cất). Ngoài ra, quan sát bằng mắt thường cho thấy các con chuột thí nghiệm vẫn bình thường, không có các biểu hiện xấu như rụng lông nhiều, lông bị vón cục, di chuyển chậm hay chết. Điều này cho thấy tác nhân điều trị là bột hệ nano tỏi đen/tỏi đen không có ảnh hưởng xấu (gây độc tính cấp) đến đường huyết và sức khỏe của chuột ở liều sử dụng 250 mg/kg trọng lượng chuột trong 7 ngày. Khả năng hạ đường huyết của bột hệ nano tỏi đen và tỏi đen ở chuột bị tiểu đường Sau khi tiêm alloxan monohydrate 135 mg/kg trọng lượng chuột khoảng 1 tuần, đường huyết của nhóm chuột thử nghiệm điều trị tăng lên đáng kể (từ 124-131 đến 421-445 mg/dL) so với nhóm chuột đối chứng (uống nước cất) (130 mg/dL). Kết thúc quá trình sau 21 ngày điều trị, nhóm chuột không uống thuốc (đối chứng) vẫn giữ được đường huyết ổn định từ 130-137 mg/dL, sức khỏe vẫn duy trì tốt. Nhóm chuột sử dụng thuốc điều trị Gliclazide cho thấy hiệu quả làm giảm đường huyết là tốt nhất từ 445 mg/dL xuống còn 167 mg/dL. Theo sau đó là nhóm chuột uống bột nano tỏi đen (từ 421 mg/dL xuống còn 195 mg/dL) và bột tỏi đen (từ 436 mg/dL xuống còn 332 mg/dL). Mặt khác, nhóm chuột bệnh (không điều trị) có dấu hiệu di chuyển chậm, không linh hoạt, bỏ ăn, chạy sảng, chết không đồng loạt ở giai đoạn đầu và chết hoàn toàn sau 7 ngày. 36 Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1 Kết luận Thời gian thu hoạch tỏi phù hợp trong khoảng 130 đến 135 ngày sau khi gieo. Củ tỏi được bảo quản trong bao bì vải lưới ở nhiệt độ 0oC có khả năng duy trì tốt chất lượng khoảng 6 tháng. Trong chế biến tỏi đen, tỏi được lạnh đông -18oC trong 36 giờ có khả năng thúc đẩy làm tăng các hợp chất sinh học trong tỏi. Nhiệt độ 70oC tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chế biến tỏi đen, cụ thể hàm lượng polyphenol tăng 6,5 lần so với tỏi tươi. Hàm lượng SAC tăng lên ở mức độ cao hơn ở nhiệt độ lão hóa tương đối thấp. Sản phẩm tỏi đen có khả năng tồn trữ tốt ở nhiệt độ mát (khoảng 5oC) trong bao bì nhôm. Đối với sản phẩm tỏi lên men, tép tỏi được chần ở nhiệt độ 80oC trong 90 giây thể hiện sự ít tổn thất các hợp chất trên. Trong quá trình lên men acid lactic, hàm lượng polyphenol và flavonoid tổng số, hoạt tính chống oxy hóa của tỏi tăng lên đáng kể. Trong khi đó, hàm lượng thiosulfinate giảm dần sau 6 ngày lên men trong dung dịch có nồng độ muối NaCl 1% và mật độ vi khuẩn Lactobacillus plantarum 106 CFU/mL. Sản phẩm tỏi lên men lactic vẫn duy trì được các hợp chất sinh học (polyphenol, flavonoid và thiosulfinate) và khả năng chống oxy hóa khi được bảo quản ở điều kiện nhiệt độ 4-6oC trong dung dịch lên men thanh trùng trong thời gian 2 tháng. Hàm lượng các chất có hoạt tính sinh học thu được cao theo tỷ lệ trích ly nguyên liệu/dung môi là 1/10 trong dung môi ethanol 50%. Bên cạnh đó, khả năng trích ly các hợp chất sinh học cao nhất ở nhiệt độ 60oC trong khoảng 90 phút. Hệ nano tỏi đen được chế tạo bởi alginate có kích cỡ hạt trong khoảng 60-80 nm và phân bố trong nước với kích thước 109-178 nm. Các hạt nano tỏi đen phân tán khá ổn định với điện thế zeta -11-22,5 mV. Thông qua phổ FT-IR 37 cũng cho thấy không có sự hình thành các hợp chất mới trong quá trình chế tạo hạt nano. Hệ nano tỏi đen đều dương tính và có hoạt tính vượt trội so với tỏi đen trên tế bào ung thư biểu mô biểu bì miệng, tế bào ung thư gan, tế bào ung thư phổi, tế bào ung thư biểu mô thận khỉ, tế bào ung thư da và âm tính với tế bào ung thư vú. Chúng đều thể hiện hoạt tính trên tất cả 7 dòng vi sinh vật thử nghiệm. Hệ nano tỏi đen có thể ức chế enzyme - glucosidase gây bệnh tiểu đường nhưng không có tác dụng đối với AChE gây bệnh Alzheimer. Thêm vào đó, hệ nano tỏi đen có khả năng hạ đường huyết ở chuột bệnh tiểu đường từ 421 xuống còn 195 mg/dL sau 21 ngày điều trị. 5.2 Đề nghị Nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm trong quá trình chế biến tỏi đen hoặc thay đổi nhiệt độ trong chế biến tỏi đen theo gradient. Chế tạo hạt nano tỏi đen bằng các phức hợp polymer nhân tạo và thử nghiệm ở kỹ thuật in-situ và ex-vivo về hoạt tính của hệ nano tỏi đen.
File đính kèm:
- luan_an_ung_dung_cac_ky_thuat_len_men_xu_ly_nhiet_va_nano_tr.pdf
- Toan van luan an-Nguyen Ai Thach_compressed.pdf
- Tom tat luan an-Nguyen Ai Thach-English.pdf
- Trang thong tin Luan An-NAThach-English.doc
- Trang thong tin Luan An-NAThach-Vietnamese.doc