Một số yếu tố vi khí hậu ảnh hưởng đến tần số tim, huyết áp 24 giờ của cán bộ, chiến sĩ Công an và giải pháp can thiệp

Biến đổi khí hậu đã xảy ra trên phạm vi toàn cầu và tác động ngày càng

mạnh mẽ đến mọi quốc gia. Ước tính mỗi năm biến đổi khí hậu góp phần làm

150.000 người chết và 5 triệu người bị ốm [1], [2].

Tần số tim, huyết áp thường thay đổi và chịu tác động của nhiều yếu tố

khác nhau như thời tiết, ô nhiễm không khí, trạng thái hoạt động, lối sống.

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, khi trời lạnh, mạch máu ngoại vi co lại để

giảm sự thải nhiệt, giữ nhiệt cho cơ thể, huyết áp tăng lên. Ngược lại, khi trời

nắng nóng, mạch ngoại vi giãn ra nhằm tăng sự thải nhiệt để điều hòa nhiệt độ

cơ thể thì huyết áp lại hạ xuống [3].

Sự tác động của thời tiết thường mang tính phức hợp với sự tham gia

của hàng loạt yếu tố khí tượng nằm trong quan hệ tương tác chặt chẽ tuy bản

chất khác nhau. Các yếu tố khí tượng không chỉ tác động trực tiếp mà còn

đóng vai trò lôi kéo ảnh hưởng của các yếu tố ngoại lai tới biến đổi tần số tim,

huyết áp, tùy thuộc vào sự nhạy cảm của cơ thể với từng yếu tố ngoại lai [4].

Tần số tim, huyết áp cũng chịu tác động bởi điều kiện lao động. Khi

hoạt động thể lực, đặc biệt là khi gắng sức, cơ thể tăng nhu cầu sử dụng ô xy

và năng lượng, yêu cầu tim tăng tần số và cường độ co bóp để đưa máu đến tổ

chức và hệ quả là huyết áp tăng lên. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm không

khí, tiếng ồn, khí độc. là những yếu tố làm gia tăng ảnh hưởng tới biến đổi

huyết áp. Một số nghiên cứu tại Việt Nam đã chỉ ra, tần số tim, huyết áp có xu

hướng tăng lên sau ca lao động. Tỷ lệ tăng huyết áp cũng phân bố khác nhau

ở những nhóm có điều kiện lao động khác nhau [5], [6], [7], [8].

Sự phức tạp trong mối quan hệ của các yếu tố ảnh hưởng tới biến đổi

tần số tim, huyết áp chắc chắn càng tăng thêm trong điều kiện khí hậu nhiệt2

đới được đặc trưng bởi cường độ các biến đổi thời tiết và tiềm năng nhiệt ẩm

lớn của các quá trình khí quyển [9].

Để xem xét tác động của khí hậu nhiệt đới, gió mùa ở Việt Nam đến

biến đổi của tần số tim, huyết áp trong mối quan hệ với môi trường lao động,

nghiên cứu này kết hợp đo lường biến đổi vi khí hậu với tần số tim, huyết áp

24 giờ để phân tích mối tương quan của một số yếu tố vi khí hậu ảnh hưởng

tới biến đổi tần số tim, huyết áp 24 giờ. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ thử

nghiệm một số trang bị cải thiện điều kiện lao động nhằm giảm thiểu tác động

của thời tiết đến tần số tim, huyết áp 24 giờ.

Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân có môi trường làm việc rất khác

nhau. Đặc biệt, Cảnh sát giao thông đường bộ là lực lượng thường xuyên phơi

nhiễm với các yếu tố bất lợi từ môi trường. Cho đến nay, ngành Công an vẫn

chưa có nghiên cứu sâu nào về tác động của thời tiết tới tần số tim, huyết áp

của nhóm đối tượng này cũng như chưa có biện pháp giảm thiểu tác động của

thời tiết đến sức khỏe nói chung và bệnh lý tim mạch của Cảnh sát giao thông

nói riêng. Vì vậy, nhóm nghiên cứu triển khai đề tài “Một số yếu tố vi khí

hậu ảnh hưởng đến tần số tim, huyết áp 24 giờ của cán bộ, chiến sĩ Công

an và giải pháp can thiệp”. Đề tài là một phần của đề tài cấp Nhà nước

“Nghiên cứu thực trạng, xây dựng mô hình dự báo, kiểm soát một số nhóm

bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam, mã số ĐTĐL.2012-

G/32”.

pdf 130 trang dienloan 5400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số yếu tố vi khí hậu ảnh hưởng đến tần số tim, huyết áp 24 giờ của cán bộ, chiến sĩ Công an và giải pháp can thiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố vi khí hậu ảnh hưởng đến tần số tim, huyết áp 24 giờ của cán bộ, chiến sĩ Công an và giải pháp can thiệp

Một số yếu tố vi khí hậu ảnh hưởng đến tần số tim, huyết áp 24 giờ của cán bộ, chiến sĩ Công an và giải pháp can thiệp
1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Biến đổi khí hậu đã xảy ra trên phạm vi toàn cầu và tác động ngày càng 
mạnh mẽ đến mọi quốc gia. Ước tính mỗi năm biến đổi khí hậu góp phần làm 
150.000 người chết và 5 triệu người bị ốm [1], [2]. 
Tần số tim, huyết áp thường thay đổi và chịu tác động của nhiều yếu tố 
khác nhau như thời tiết, ô nhiễm không khí, trạng thái hoạt động, lối sống... 
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, khi trời lạnh, mạch máu ngoại vi co lại để 
giảm sự thải nhiệt, giữ nhiệt cho cơ thể, huyết áp tăng lên. Ngược lại, khi trời 
nắng nóng, mạch ngoại vi giãn ra nhằm tăng sự thải nhiệt để điều hòa nhiệt độ 
cơ thể thì huyết áp lại hạ xuống [3]. 
Sự tác động của thời tiết thường mang tính phức hợp với sự tham gia 
của hàng loạt yếu tố khí tượng nằm trong quan hệ tương tác chặt chẽ tuy bản 
chất khác nhau. Các yếu tố khí tượng không chỉ tác động trực tiếp mà còn 
đóng vai trò lôi kéo ảnh hưởng của các yếu tố ngoại lai tới biến đổi tần số tim, 
huyết áp, tùy thuộc vào sự nhạy cảm của cơ thể với từng yếu tố ngoại lai [4]. 
Tần số tim, huyết áp cũng chịu tác động bởi điều kiện lao động. Khi 
hoạt động thể lực, đặc biệt là khi gắng sức, cơ thể tăng nhu cầu sử dụng ô xy 
và năng lượng, yêu cầu tim tăng tần số và cường độ co bóp để đưa máu đến tổ 
chức và hệ quả là huyết áp tăng lên. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm không 
khí, tiếng ồn, khí độc... là những yếu tố làm gia tăng ảnh hưởng tới biến đổi 
huyết áp. Một số nghiên cứu tại Việt Nam đã chỉ ra, tần số tim, huyết áp có xu 
hướng tăng lên sau ca lao động. Tỷ lệ tăng huyết áp cũng phân bố khác nhau 
ở những nhóm có điều kiện lao động khác nhau [5], [6], [7], [8]. 
Sự phức tạp trong mối quan hệ của các yếu tố ảnh hưởng tới biến đổi 
tần số tim, huyết áp chắc chắn càng tăng thêm trong điều kiện khí hậu nhiệt 
2 
đới được đặc trưng bởi cường độ các biến đổi thời tiết và tiềm năng nhiệt ẩm 
lớn của các quá trình khí quyển [9]. 
Để xem xét tác động của khí hậu nhiệt đới, gió mùa ở Việt Nam đến 
biến đổi của tần số tim, huyết áp trong mối quan hệ với môi trường lao động, 
nghiên cứu này kết hợp đo lường biến đổi vi khí hậu với tần số tim, huyết áp 
24 giờ để phân tích mối tương quan của một số yếu tố vi khí hậu ảnh hưởng 
tới biến đổi tần số tim, huyết áp 24 giờ. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ thử 
nghiệm một số trang bị cải thiện điều kiện lao động nhằm giảm thiểu tác động 
của thời tiết đến tần số tim, huyết áp 24 giờ. 
Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân có môi trường làm việc rất khác 
nhau. Đặc biệt, Cảnh sát giao thông đường bộ là lực lượng thường xuyên phơi 
nhiễm với các yếu tố bất lợi từ môi trường. Cho đến nay, ngành Công an vẫn 
chưa có nghiên cứu sâu nào về tác động của thời tiết tới tần số tim, huyết áp 
của nhóm đối tượng này cũng như chưa có biện pháp giảm thiểu tác động của 
thời tiết đến sức khỏe nói chung và bệnh lý tim mạch của Cảnh sát giao thông 
nói riêng. Vì vậy, nhóm nghiên cứu triển khai đề tài “Một số yếu tố vi khí 
hậu ảnh hưởng đến tần số tim, huyết áp 24 giờ của cán bộ, chiến sĩ Công 
an và giải pháp can thiệp”. Đề tài là một phần của đề tài cấp Nhà nước 
“Nghiên cứu thực trạng, xây dựng mô hình dự báo, kiểm soát một số nhóm 
bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam, mã số ĐTĐL.2012-
G/32”. 
Nghiên cứu này nhằm trả lời các câu hỏi sau: 
1. Thay đổi thời tiết và đặc điểm cá nhân ảnh hưởng đến mức nào tới 
biến đổi tần số tim, huyết áp của cán bộ, chiến sĩ Công an? 
2. Trong ba nhóm cán bộ, chiến sĩ Công an (Cảnh sát giao thông đường 
bộ, Cán bộ làm việc văn phòng, Học viên trường Công an), tần số tim và 
huyết áp của nhóm nào bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi môi trường xung quanh? 
3 
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cơ quan hoạch định chính sách của Bộ 
Công an có bằng chứng khoa học để ban hành chính sách, chế độ bảo vệ sức 
khỏe cho cán bộ, chiến Công an nói chung và cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát giao 
thông đường bộ nói riêng trước những nguy cơ đối với sức khỏe từ môi 
trường công tác. 
Nghiên cứu này nhằm mục tiêu: 
1. Mô tả sự biến đổi tần số tim, huyết áp 24 giờ trên một số nhóm cán 
bộ, chiến sĩ Công an tại Thành phố Hà Nội năm 2014-2015. 
2. Phân tích mối tương quan giữa một số yếu tố vi khí hậu ảnh hưởng 
đến tần số tim, huyết áp 24 giờ của đối tượng nghiên cứu. 
3. Đánh giá kết quả cải thiện vi khí hậu của một số trang bị tại nơi làm 
việc của Cảnh sát giao thông đường bộ. 
4 
Chương 1 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
1.1. VI KHÍ HẬU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA VI KHÍ HẬU ĐẾN SỨC 
KHỎE CON NGƯỜI: 
1.1.1. Khái niệm Biến đổi khí hậu: 
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là những biến đổi trong môi trường vật lý 
hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả 
năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý 
hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và 
phúc lợi của con người [10]. 
1.1.2. Khái niệm Vi khí hậu: 
Vi khí hậu (VKH) là khí hậu của lãnh thổ nhỏ, xuất hiện do ảnh hưởng 
về sự khác biệt của địa hình, thực vật, trạng thái thổ nhưỡng, hoặc do ảnh 
hưởng của hồ nước, của các công trình xây dựng và các đặc điểm khác của 
mặt đệm. Những đặc điểm VKH biểu hiện rõ ở lớp không khí gần mặt đất đến 
độ cao vài chục mét, nhiều khi phát triển đến độ cao 100 - 150 mét. 
 VKH gồm các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ nhiệt và vận tốc chuyển 
động không khí. Về mặt vệ sinh, VKH có ảnh hưởng đến sức khỏe, bệnh tật 
của người lao động [11]. 
 Yêu cầu về điều kiện vi khí hậu tại nơi làm việc ở Việt Nam được quy 
định tại Thông tư số 26/2016/TT-BYT của Bộ Y tế [12]. 
Bảng 1.1. Giá trị cho phép vi khí hậu tại nơi làm việc 
Loại 
lao động 
Khoảng nhiệt 
độ không khí 
(°C) 
Độ ẩm 
không khí 
(%) 
Tốc độ chuyển 
động không 
khí (m/s) 
Cường độ bức xạ 
nhiệt theo diện tích 
tiếp xúc (W/m2) 
Nhẹ 20 đến 34 40 đến 80 0,1 đến 1,5 35 khi tiếp xúc trên 
5 
Loại 
lao động 
Khoảng nhiệt 
độ không khí 
(°C) 
Độ ẩm 
không khí 
(%) 
Tốc độ chuyển 
động không 
khí (m/s) 
Cường độ bức xạ 
nhiệt theo diện tích 
tiếp xúc (W/m2) 
Trung 
bình 
18 đến 32 40 đến 80 
0,2 đến 1,5 
50% diện tích cơ 
thể người. 
70 khi tiếp xúc trên 
25% đến 50% diện 
tích cơ thể người. 
100 khi tiếp xúc 
dưới 25% diện tích 
cơ thể người. 
Nặng 16 đến 30 40 đến 80 0,3 đến 1,5 
Đối với điều kiện lao động nóng, độ ẩm cao thì tốc độ chuyển động 
không khí ở nơi làm việc có thể tăng đến 2 m/s. 
Đối với điều kiện làm việc trong các phòng có điều hòa nhiệt độ, tốc độ 
chuyển động không khí có thể dưới 0,1 m/s đối với lao động nhẹ, dưới 0,2 
m/s đối với lao động trung bình và dưới 0,3 m/s đối với lao động nặng nếu 
thông gió trong phòng đảm bảo nồng độ khí CO2 đạt tiêu chuẩn cho phép. 
Chênh lệch nhiệt độ theo độ cao vị trí làm việc không quá 3°C. 
Chênh lệch nhiệt độ theo chiều ngang của vùng làm việc không quá 
4°C đối với lao động nhẹ, không quá 5°C đối với lao động trung bình và 
không quá 6°C đối với lao động nặng. Nhiệt độ chênh lệch trong nơi sản xuất 
và ngoài trời không vượt quá 5°C [12]. 
1.1.3. Tác động của biến đổi khí hậu đến sức khỏe con người: 
Vị trí địa lý của Việt Nam khiến nước này rất dễ bị tổn thương trước 
những BĐKH, là quốc gia đứng thứ 5 trong danh sách các quốc gia trên thế 
giới bị ảnh hưởng bất lợi lớn nhất từ biến đổi khí hậu. Trong khoảng 50 năm 
6 
qua, nhiệt độ cực trị đã tăng khoảng 0,5 - 0,7oC, mực nước biển đã dâng 
khoảng 20cm. Hiện tượng El-Nino, La-Nina ngày càng tác động mạnh đến 
Việt Nam. 
 Các bệnh, tật chịu tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu bao gồm các 
bệnh tật như tai nạn, thương tích, sức khỏe tâm thần, sốc nhiệt, trong khi đó 
các bệnh tật chịu tác động gián tiếp của biến đổi khí hậu như bệnh truyền 
nhiễm, bệnh mạn tính, suy dinh dưỡng, sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe nghề 
nghiệp [13], [14]. 
Hình 1.1. Các nhóm bệnh tật dễ bị tổn thương bởi tác động 
của biến đổi khí hậu [15] 
Bên cạnh đó mỗi một nhóm bệnh nhất định sẽ chịu tác động của một 
hoặc một số yếu tố khí hậu chủ đạo. Có thể thấy ví dụ như khi nhiệt độ tăng 
lên, sẽ hình thành các đợt sóng nhiệt hay các hiện tượng thời tiết cực đoan, 
qua đó sẽ tác động mạnh tới các bệnh/tật như suy tim hay tai nạn, thương tích 
(Hình 1.1). Ngược lại sự gia tăng mực nước biển cùng với sự hình thành các 
7 
hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ là yếu tố thúc đẩy sự lan truyền qua đường 
nước, véc tơ[15]. Do đó phương pháp hồi quy đơn biến được lựa chọn để 
phân tích mối tương quan giữa từng yếu tố khí hậu, thủy văn với các vấn đề 
bệnh, tật phổ biến tại các khu vực trọng điểm. 
Tuy nhiên, trong thực tế, mỗi cá thể trong môi trường sẽ chịu tác động 
cùng lúc của nhiều nhân tố thuận chiều hoặc trái chiều và bản thân giữa 
những nhân tố lại cũng có sự tương quan tuyến tính nội tại với nhau, do đó 
phương pháp hồi quy bội hay còn gọi là phương pháp hồi quy đa biến, cũng 
sẽ được sử dụng để phân tích mối quan hệ giữa nhiều biến số độc lập (biến 
giải thích hay biến nguyên nhân) ảnh hưởng đến một biến phụ thuộc (biến 
phân tích hay biến kết quả). Đây là phương pháp có khả năng ứng dụng tốt 
cho xây dựng mô hình dự báo khí hậu, giúp kiểm định lại giả thiết về những 
nhân tố tác động và mức độ ảnh hưởng, vừa định lượng được các quan hệ 
giữa các yếu tố, từ đó đưa ra những dự báo thích hợp [16]. 
 Mặt khác, theo như kết quả chạy đơn biến cho thấy, mặc dù không phải 
tất cả các yếu tố đều tác động đến một bệnh cụ thể. Tuy nhiên khi chạy mô 
hình hồi quy bội, tất cả các yếu tố khí hậu, thời tiết và thủy văn vẫn được đưa 
vào mô hình. Tác giả Trần Văn Tuấn nhấn mạnh khi chạy mô hình hồi quy 
đơn biến phân tích từng biến sẽ không xem xét đến ảnh hưởng của các yếu tố 
trong cùng một thời điểm, và gây sai số nếu như không xem xét đến bản chất 
tương quan giữa các biến. Mặt khác, có thể các biến trong mô hình đều có tác 
động đến biến phân tích hay biến kết quả, nhưng ảnh hưởng này chỉ tồn tại 
khi chúng xuất hiện bên nhau (cộng hưởng); do đó, khi phân tích riêng lẻ, sẽ 
không phát hiện được ảnh hưởng của chúng, và do đó phân tích đơn biến bỏ 
qua cả những tương tác này [17]. 
 1.1.4. Tác động của vi khí hậu xấu đến sức khỏe con người: 
1.1.4.1. Tác hại của Vi khí hậu nóng: 
8 
Biến đổi sinh lý: Khi thay đổi nhiệt độ da đặc biệt là da trán rất nhạy 
cảm đối với không khí bên ngoài. Biến đổi về cảm giác nhiệt độ của da trán 
như sau: 
Từ 28 đến 290C: Cảm giác lạnh 
Từ 29 đến 300C: Cảm giác mát 
Từ 30 đến 310C: Cảm giác dễ chịu 
Từ 31,5 đến 32,50C: Cảm giác nóng 
Từ 32,5 đến 33,50C: Cảm giác rất nóng 
Từ 33,50C trở lên: Cảm giác cực nóng [18], [19]. 
Rối loạn chuyển hoá nước: Cơ thể người hàng ngày có sự cân bằng 
giữa lượng nước ăn uống vào và thải ra, ăn uống vào khoảng từ 2,5- 3 lít và 
thải ra khoảng 1,5 lít qua thận, 0,2 lít qua phân và lượng còn lại theo mồ hôi 
và hơi thở ra ngoài.Làm việc trong điều kiện nóng bức, lượng mồ hôi tiết ra 
từ 5 - 7 lít trong một ca làm việc, trong đó mất đi một lượng muối khoảng 20 
gam, một số muối khoáng gồm các ion Na, K, Ca, Fe, I và một số sinh tố C, 
B, PP. Do mất nước nhiều, tỷ trọng máu tăng lên, tim phải là việc nhiều để 
thải lượng nhiệt thừa cơ thể (chuyển một lít máu ra ngoại vi làm mất đi một 
lượng nhiệt khoảng 2,5 calo). Vì vậy, nước qua thận còn 10 - 15% so với mức 
bình thường, nên chức phận thận bị ảnh hưởng. Mặt khác do mất nước nhiều 
nên phải uống nước bổ xung làm cho dịch vị loãng ra, làm mất cảm giác thèm 
ăn và mất ngon, chức năng thần kinh bị ảnh hưởng làm giảm sự chú ý, sự 
phản xạ, kéo dài thời gian phản ứng nên dẽ dẫn tới tai nạn [18], [19]. 
Trong điều kiện VKH nóng các bệnh tăng lên gấp đôi so với lúc bình 
thường. Rối loạn bệnh lý do VKH nóng thương gặp là chứng say nóng và 
chứng co giật, làm con người bị chóng mặt, buồn nôn, đau đầu và đau thắt 
lưng. Thân nhiệt có thể cao tới 40 - 410C, mạch nhanh, nhịp thở nhanh. 
9 
Trường hợp nặng cơ thể bị choáng, mạch nhỏ, thở nông, co giật do mất cân 
bằng nước và điện giải [18], [19]. 
 1.1.4.2. Tác hại của vi khí hậu lạnh: 
 Do ảnh hưởng của nhiệt độ thấp, da trở nên xanh, nhịp tim, nhịp thở 
giảm, nhưng mức tiêu thụ oxy lại tăng nhiều do cơ và gan phải làm việc 
nhiều. Khi bị lạnh nhiều cơ vân, cơ trơn đều co lại, rét run, nổi da gà nhằm 
sinh nhiệt. 
 Lạnh cục bộ làm co thắt mạch gây cảm giác tê cóng, lâm râm ngứa ở 
các đầu chi, làm giảm khả năng vận động, mất cảm giác sau đó sinh chứng 
đau cơ, viêm cơ, viêm thần kinh ngoại biên...lạnh còn gây dị ứng kiểu hen phế 
quản, giảm sức đề kháng, giảm miễn dịch, gây viêm đường hô hấp trên, thấp 
khớp [19], [20]. 
1.1.4.3. Tác hại của bức xạ nhiệt: 
 Làm việc dưới ánh nắng trực tiếp của mặt trời, hoặc với kim loại nung 
nóng, nóng chảy, người lao động bị ảnh hưởng bởi các tia bức xạ nhiệt hồng 
ngoại và tử ngoại. Tia hồng ngoại có khả năng gây bỏng, phồng rộp da; xuyên 
qua hộp sọ, hun nóng tổ chức não, màng não gây các biến đổi làm say nắng. 
Những tia có bước sóng khoảng 3 mm gây bỏng da nhiều nhất. Điều đó 
chứng tỏ không những cần bảo vệ khỏi ảnh hưởng của nhiệt độ cao mà cả 
nhiệt độ thấp 
Tia tử ngoại gây các bệnh về mắt như giảm thị lực, bỏng da, ung thư 
da. Tia lade hiện nay được ứng dụng nhiều nhất trong công nghiệp, trong 
nghiên cứu khoa học, nó gây bỏng da, bỏng võng mạcNếu bị tác dụng nhẹ, 
lâu ngày gây mệt mỏi, suy nhược, mắt khô, nhiều rử, thị lực giảm, đau đầu, 
chóng mặt, kém ăn [19], [20]. 
10 
1.2. SỰ BIẾN ĐỔI CÓ TÍNH CHU KỲ CỦA TẦN SỐ TIM, HUYẾT 
ÁP: 
1.2.1. Nhịp sinh học: 
Năm 1964, F. Halberg đầu tiên sử dụng danh từ “Circadian” 
và được định nghĩa là: “thuộc vào 1 thời gian khoảng 24 giờ. Đặc biệt áp 
dụng cho sự lặp lại đều đặn của một số hiện tượng vào khoảng cùng một 
giờ mỗi ngày trong các cơ thể sống” [21]. 
Dần dần môn học này phát triển rộng và nhằm môtả hoạt động nhịp 
nhàng và nhất là có tính cách tuần hoàn của môi trường nội thể và được gọi 
chung là “Cyclostasis”. Kyklos tiếng Hy Lạp là vòng tròn và stasis là bất 
động, mang ý nghĩa như một chu kỳ, giống như ý niệm “Hoàn vô đan” 
mà người xưa quan niệm trong thiên “Nguyên Kỷ Đại Luận”, Thiên hữu 
Ngũ hành, dĩ sinh Hàn, Thử, Táo, Thấp, Phong, Ngũ khí vận hành như “Hoàn 
vô đoan” (Trời có 5 hành sinh ra, lạnh, nóng, khô, ẩm, gió, 5 khí vận hành 
là một vòng khép kín) [21], [22]. 
1.2.2. Tần số tim, huyết áp thay đổi theo nhịp sinh học: 
Tần số tim, huyết áp thường thay đổi theo nhịp độ sinh học của cơ thể, 
đặc biệt liên quan đến chu kỳ thức ngủ. Trong những năm gần đây, người ta 
lưu ý nhiều đến biến đổi huyết áp theo nhịp sinh học trong điều trị huyết áp 
cao. 
Bằng máy đo tần số tim, huyết áp liên tục 24/24 giờ, người ta thấy rằng 
ngay trong một ngày, tần số tim, huyết áp cũng thay đổi theo nhịp sinh học 
[23]. 
- Ban đêm: Khi ngủ, tim ở trạng thái nghỉ ngơi, tần số tim, huyết áp dần 
dần thấp xuống, thấp nhất vào khoảng 2 đến 3 giờ sáng. Ban đêm huyết áp tối 
đa và huyết áp tối thiểu đều giảm khoảng 20% so với ban ngày, đến gần sáng, 
huyết áp tăng dần lên. 
11 
- Khi bừng tỉnh, quả tim ở t ...  Jul-
Aug;(4):19-21. 
121 
42. Danet S, Richard F, et al (1999),Unhealthy effects of atmospheric 
temperature and pressure on the occurrence of myocardial infarction and 
coronary deaths. A 10-year survey: the Lille-World Health Organization 
MONICA project. 
43. Bruce, Nigel; et al. (1991), The contribution of environmental temperature 
and humidity to geographic variations in blood pressure, Journal of 
Hypertension: September. 
44. Barnett, Adrian G.; Sans, Susana; Salomaa, Veikko; Kuulasmaa, Kari; 
Dobson, Annette J.(2007), The effect of temperature on systolic blood 
pressure, Blood Pressure Monitoring: June 2007 - Volume 12 - Issue 3 - 
pp 195-203. 
45. Wang Q, Li C, Guo Y, et al (2017) Environmental ambient temperature 
and blood pressure in adults: A systematic review and meta-analysis. 
STOTEN Sci Total Environ 575:276-286. 
46. Woodhouse, Peter R.; Khaw, Kay-Tee; Plummer, Martyn (1993), 
Seasonal variation of blood pressure and its relationship to ambient 
temperature in an elderly population, Journal of Hypertension: November 
1993. 
47. Whelton PK (2004), Epidemiology and the Prevention of Hypertension, 
Hypertens, 2004; 636-42. 
48. Alperovitch A and et al. (2009), Relationship Between Blood Pre ssure 
and Outdoor Temperature in a Large Sample of Elderly Individuals: The 
Three-City Study, Arch Intern Med. 2009 Jan 12;169(1):75-80. 
49. Brennan, Greenberg et al. (1982), Seasonal variation in arterial blood 
pressure. Br Med J (Clin Res Ed). 1982 October 2; 285(6346): 919-923. 
50. Norman M. Kaplan (1998), Clinical hypertension, William and Wilkins. 
122 
51. Stefano Giaconi, Sergio Ghione et al. (1989), Seasonal influences on 
blood pressure in high normal to mild hypertensive range, Hypertension 
1989; 14:22-27. 
52. Sharma, Sagar et al. (1990), Seasonal variations of arterial blood pressure 
in normotensive and essential hypertensives. Indian Heart J 1990; 42:66-
72. 
53. Fujiwara, Takuya; Kawamura, Minoru; Nakajima, Jun; Adachi, 
Toshiyuki; Hiramori, Katsuhiko (1995), Seasonal differences in diurnal 
blood pressure of hypertensive patients living in a stable environmental 
temperature, Journal of Hypertension: December 1995. 
54. Minami, Junichi; et al. (1996) Seasonal variations in office, home and 24-
h ambulatory blood pressure in patients with essential hypertension 
Journal of Hypertension: December 1996. 
55. Lewington, Sarah; Li, Liming (2012), Seasonal variation in blood 
pressure and its relationship with outdoor temperature in 10 diverse 
regions of China: the China Kadoorie Biobank, Journal of Hypertension: 
July 2012 - Volume 30 - Issue 7 - p 1383-1391. 
56. Đào Ngọc Phong (1979), Nghiên cứu nhịp sinh học người cao tuổi và tác 
động của khí hậu tới Tai biến mạch máu não theo nhịp ngày đêm. 
57. Rahama SM, Khider HE, Mohamed SN, Abuelmaali SA, Elaagip AH 
(2010), Environmental pollution of lead in traffic air and blood 
of traffic policemen in Khartoum State, Sudan, East Afr J Public 
Health. 2010 Dec;7(4):350-2. 
58. Ramey SL, Perkhounkova Y, Downing NR, Culp KR (2011), 
Relationship of cardiovascular disease to stress and vital exhaustion in an 
urban, midwestern police department,AAOHN J. 2011 May;59(5):221-7. 
123 
59. Hammoudi N, Aoudi S, Tizi M, Larbi K, Bougherbal R, (2013) 
Relationship between noise and blood pressure in an airport 
environment.Ann Cardiol Angeiol (Paris). 2013 Jun;62(3):166-71 
60. Harrell JS, Cornetto AD, Stutts WC, (1992) Cardiovascular risk factors in 
textile workers: prevalence and intervention, AAOHN J. 1992 
Dec;40(12):581-9. 
61. Lê Thị Thu Huyền (2013), Tỷ lệ mắc tăng huyết áp và một số yếu tố nguy 
cơ tăng huyết áp ở người trưởng thành 25-64 tuổi tại cộng đồng quận 
Đống Đa - Hà Nội năm 2008, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa, Đại học 
Y Hà Nội, Tr.21-30. 
62. Phạm Gia Khải và cs (2000), Đặc điểm dịch tễ học bệnh tăng huyết áp tại 
Hà Nội, Kỷ yếu toàn văn các đề tài khoa học, Đại hội tim mạch học uốc 
gia Việt Nam lần thứ VII năm 2000, Tr. 258-282. 
63. Phùng Văn Hoàn (1992), Nghiên cứu tác động phối hợp của vi khí hậu 
nóng với hơi khí độc và bụi môi trường lao động tới sức khỏe và bệnh tật 
ở công nhân vận hành lò đốt công nghiệp cơ khí, Luận án Tiến sĩ Y dược, 
Đại học Y Hà Nội, Tr.51-74. 
64. Trần Đỗ Trinh và cộng sự (1992), Điều tra dịch tễ học bệnh tăng huyết áp 
ở Việt Nam, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 1991-1992, Tập 1, 
Tr.279-291. 
65. Näyhä S (1985), Adjustment of blood pressure data by season, Scand J 
Prim Health Care. 1985 May;3(2):99-105. 
66. Lukas A, Klumbein F, Temml C, Maver B, Oberbauer R (2003), Body 
mass index is the main rick factor for arterial hypertension in young 
subjects without major comorbidity, Eur J Clin Invest, 2003, Mar; 
33930:223-30. 
124 
67. McMichael A.J., Campbell-Lendrum D.H., Corvalán C.F. và cộng sự. 
(2003), Climate change and human health: risks and responses, World 
Health Organization, Geneva. 
68. Johansson JK, Niiranen TJ, Puukka PJ, Jula AM. Prognostic value of the 
variability inhome-measured blood pressure and heart rate: the Finn-
Home Study. Hypertension2012; 59: 212-218. 
69. Huỳnh Văn Minh, Lê Chí Thành, Phan Bích Ngọc, Trần Đức Thọ, Trần 
Đỗ Trinh, Paul Valensi (1999), Cường insuline, một yếu tố nguy cơ mới ở 
bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát những năm 2000, Kỷ yếu các báo 
cáo khoa học tại hội thảo Đái tháo đường - Nội tiết bệnh chuyển hóa, khu 
vực miền Trung lần 1, Huế 1-1999. 
70. Phạm Tử Dương (2005), Bệnh tăng huyết áp, Nhà xuất bản Y học, Hà 
Nội. 
71. Vasan RS, Beiser A, Seshadri, et al (2001), ''Residu al lifetime risk for 
developing hypertension in middle aged women and men: The 
Framingham Heart Study''. JAMA. 2002;287:1003-10.F. 
72. Trần Đỗ Trinh (1996), Chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp, sách dịch, 
Nhà xuất bản Y học, 1996, Tr.5. 
73. James Kalus (2007), Energy drink could pose blood pressure ricks, 
HealthDay New, Nov.6,2007. 
74. Ohkubo, T., Hozawa, A., Yamaguchi, J., Kikuya, M., Ohmori, K., 
Michimata, M., Imai, Y. (2002). Prognostic significance of the 
nocturnal decline in blood pressure in individuals with and without high 
24-h blood pressure: the Ohasama study. Journal of Hypertension, 20(11), 
2183-2189. 
125 
75. Hội tim mạch học Việt Nam (2010), Khuyến cáo về các bệnh lý tim mạch 
và chuyển hóa giai đoạn 2006-2010, Nhà xuất bản Y học, Tr. 1-52. 
76. Đỗ uốc Hùng, Nguyễn Minh Hùng (2000), Tìm hiểu mối liên quan một 
số yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch và tăng huyết áp của hơn 1700 cán bộ, 
công nhân, viên chức thủ đô Hà Nội, Kỷ yếu toàn văn các đề tài khoa học, 
Đại hội Tim mạch uốc gia Việt Nam lần thứ VIII năm 2000, Tr. 79-84. 
77. Official blog of the Met Office news team (2012), What is “feels like” 
temperature?https://blog.metoffice.gov.uk/2012/02/15/what-is-feels-like-
temperature/ 
78. National weather service (2018), What is the heat index?, 
https://www.weather.gov /arx/heat_index 
79. Nguyễn Văn Muôn, Chỉ tiêu PMV của Fanger và nhiệt độ trung tính áp 
dụng cho điều kiện Việt Nam, Hội thảo uốc gia “Chăm sóc và bảo vệ 
sức khỏe người lao động trong quá trình hội nhập, Tổng liên đoàn Lao 
động Việt Nam - Viện Nghiên cứu kỹ thuật bảo hộ lao động 
80. Nguyễn Mạnh Phan, Trần Thị Kim Nguyên (1994), Sử dụng máy đo 
huyết áp 24 giờ cho bệnh nhân cao huyết áp, Y học Việt Nam, chuyên đề 
tim mạch TP Hồ Chí Minh 1994 21-23. 
81. Trefor Morgan (2001), Kiểm soát huyết áp 24 giờ, Hãng Servier dịch; 5-7 
Heart Disease, 2001;4-956. 
82. Nguyễn Lân Việt (2003), Khuyến cáo mới về phòng ngừa, chẩn đoán và 
điều trị bệnh tăng huyết áp. Hội thảo tim mạch học sau đại học lần thứ 18. 
Viện nghiên cứu dược phẩm Servier - 2003. International society of 
hypertension guidelines for the management of hypertension, 1999;151-62. 
83. National Heart, Lung, and Blood Institute (2006), High Blood Pressure, 
Ricks Factor and Prevention, Sept. 15, 2006. 
126 
84. Toolkit U.S.C.R. (2015), Human Health, U.S. Climate Resilience Toolkit, 
Washington, USA, truy cập ngày-1/8/2015, tại trang web 
https://toolkit.climate.gov/topics/human-health. 
85. Viện Khoa học An toàn và Vệ sinh lao động (2014), Các biện pháp phòng 
ngừa tác hại của vi khí hậu xấu bảo vệ sức khỏe người lao động 
vn/moitruonglamviec/details/id/2457/Cac-bien-phap-phong-ngua-tac-hai-
cua-vi-khi-hau-xau-bao-ve-suc-khoe-nguoi-lao-dong. 
86. Cổng giao tiếp điện tử Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2014), Giới 
thiệu tổng quan và khái quát về địa lí thành phố Hà Nội, https://hanoi. 
gov.vn/ diachihanoi/-/hn/RtLibd2X8kEn/1001/124742/gioi-thieu-tong-
quan-va-khai-quat-ve-ia-li-thanh-pho-ha-
noi.html;jsessionid=S9uVF0ChayV75KH9pVfKq Rbe.app2. 
87. Hội tim mạch học Việt Nam (2006), Khuyến cáo về các bệnh lý tim mạch 
và chuyển hóa giai đoạn 2006-2010, Nhà xuất bản Y học, Tr. 1-52. 
88. Snijders TAB (2005), Power and Sample Size in Multilevel Linear 
Models. In: Everitt BS, Howell DC (Hrsg.). Encyclopedia of Statistics in 
Behavioral Science. Chichester, UK: John Wiley & Sons, Ltd. 
10.1002/0470013192.bsa492. 
89. Millar-Craig MW, Bishop CN, Raftery EB (1978). Circadian variation of 
blood-pressure. Lancet; 1: 795-797. 
90. Eisenberg J.N., Desai M.A., Levy K. và cộng sự. (2007), "Environmental 
determinants of infectious disease: a framework for tracking causal links 
and guiding public health research", Environ Health Perspect, 115(8), tr. 
1216-23. 
127 
91. Hansen, T. W., Li, Y., Boggia, J., Thijs, L., Richart, T., & Staessen, J. A 
(2011). Predictive role of the nighttime blood pressure. Hypertension, 
57(1), 3-10. doi:10.1161/HYPERTENSIONAHA.109.133900. 
92. Staessen, J. A., Thijs, L., Fagard, R., O’Brien, E. T., Clement, D., de 
Leeuw, P. W., Webster, J. (1999). Predicting cardiovascular risk using 
conventional vs ambulatory blood pressure in older patients with systolic 
hypertension. Systolic Hypertension in Europe Trial Investigators. JAMA, 
282(6), 539-546. 
93. National High Blood Pressure Education Program (1997), ''The sixth 
report of the Joint National Committee on Prevention, Ditection, 
Evaluation, and Treatment of High Blood Pressure ''Arch.Intern.Med; 
157: 2413- 46.PR. 
94. Gianfranco Parari, Juan E.Ochoa, Carolina Lombardi and Grzegorz Bilo, 
Đánh giá và kiểm soát sự biến thiên huyết áp, TS. BS. Hoàng Văn Sỹ -
 Bệnh viện Chợ Rẫy dịch, 
hoc/1360-danh-gia-va-kiem-soat-su-bien-thien-huyet-ap.html. 
95. Verdecchia P, Angeli F, Mazzotta G, Garofoli M, Ramundo E, Gentile G, 
Ambrosio G, Reboldi G (2012), Day-night dip and early-morning surge 
in blood pressure in hypertension:prognostic implications. Hypertension, 
60, 34-42 
96. Haynes, W.G. (2005). Role of leptin in obesity-related hypertension. Exp. 
Physiol. 90, 683-688. 
97. Quinaglia, T. etal(2011). Non-dipping pattern relates to endothelial 
dysfunction in patients with uncontrolled resistant hypertension. J. Hum. 
Hypertens, 25, 656-664. 
128 
98. Holt-Lunstad, J. & Steffen, P.R (2007). Diurnal cortisol variation is 
associated with nocturnal blood pressure dipping. Psychosom. Med,69, 
339-343. 
99. Panarelli, M. etal. 24-hour profiles of blood pressure and heart rate in 
Cushings syndrome (1990). Evidence for differential control of 
cardiovascular variables by glucocorticoids. Ann. Ital. Med. Int. 5, 18-25. 
100. Iqbal P, Stevenson L (2010). Cardiovascular outcomes in patients with 
normal and abnormal 24-hour ambulatory blood pressure monitoring. Int 
J Hypertens 2010; 2011: 786912. 
101. Fujii, T. etal. (1999). Circadian rhythm of natriuresis is disturbed in 
nondipper type of essential hypertension. Am. J. Kidney Dis. 33, 29-35. 
102. Parati G, Valentini M. Prognostic relevance of blood pressure variability. 
Hypertension2006; 47, 137-138. 
103. Pickering TG (1991), Ambulatory blood pressure monitoring in clinical 
practice, Clin Cardicol; 14, 557-62. 
104. Chen Q, Wang J, Tian J, et al (2013) Association between ambient 
temperature and blood pressure and blood pressure regulators: 1831 
hypertensive patients followed up for three years. PloS One 8. 
105. Petrofsky JS, Berk L, Alshammari F, et al (2012) The interrelationship 
between air temperature and humidity as applied locally to the skin: the 
resultant response on skin temperature and blood flow with age 
differences. Med SciMonitInt Med J ExpClin Res 18:201-8. 
106. Kristal-Boneh E, Harari G, Green MS (1997) Seasonal Change in 24-
Hour Blood Pressure and Heart Rate Is Greater Among Smokers Than 
Nonsmokers. Hypertension,30, 436-441. 
129 
107. Dua S, Bhuker M, Sharma P, et al (2014) Body Mass Index Relates to 
Blood Pressure Among Adults. North Am J Med Sci,6, 89-95. 
https://doi.org/10.4103/1947-2714.127751. 
108. Arayasiri M, Mahidol C, Navasumrit P, et al (2010) Biomonitoring of 
benzene and 1,3-butadiene exposure and early biological effects in 
traffic policemen. Sci Total Environ, 408, 4855-62. 
109. Schumann B, Seidler A, Kluttig A, et al (2011) Association of 
occupation with prevalent hypertension in an elderly East German 
population: an exploratory cross-sectional analysis. Int Arch Occup 
Environ Health,84, 361-369. https://doi.org/10.1007/s00420-010-0584-5. 
110. Mormontoy W, Gastañaga C, Gonzales GF (2006) Blood lead levels 
among police officers in Lima and Callao, 2004. IJHEH Int J Hyg 
Environ Health, 209, 497-502. 
111. Chen Y-C, Hsu C-K, Wang C, et al (2015). Particulate Matter Exposure 
in a Police Station Located near a Highway. Int J Environ Res Public 
Health, 12, 14541-14556. https://doi.org/10.3390/ijerph121114541. 
112. Primatesta P, Falaschetti E, Gupta S, et al (2001) Association between 
smoking and blood pressure: evidence from the health survey for 
England. Hypertens Dallas Tex, 37, 187-193. 
113. McFadden CB, Brensinger CM, Berlin JA, Townsend RR (2005) 
Systematic review of the effect of daily alcohol intake on blood pressure. 
Am J Hypertens, 18, 276-286. https://doi.org/10.1016/j.amjhyper.2004. 
07.020. 
114. Mesas AE, Leon-Muñoz LM, Rodriguez-Artalejo F, Lopez-Garcia E 
(2011) The effect of coffee on blood pressure and cardiovascular disease 
130 
in hypertensive individuals: a systematic review and meta-analysis. Am J 
ClinNutr, 94, 1113-1126. https://doi.org/10.3945/ajcn.111.016667. 
115. Trapp M, Trapp E-M, Egger JW, et al (2014) Impact of Mental and 
Physical Stress on Blood Pressure and Pulse Pressure under Normobaric 
versus Hypoxic Conditions. PLoS ONE, 9. 
https://doi.org/10.1371/journal. pone.0089005. 
116. Cattaneo A, Taronna M, Consonni D, et al (2010) Personal exposure of 
traffic police officers to particulate matter, carbon monoxide, and 
benzene in the city of Milan, Italy. J Occup Environ Hyg, 7, 342-351. 
https://doi.org/10.1080/15459621003729966. 
117. Tomei F, Rosati MV, Baccolo TP, et al (2004) Ambulatory (24 hour) 
blood pressure monitoring in police officers. J Occup Health, 46, 235-43. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_to_vi_khi_hau_anh_huong_den_tan_so_tim_huyet_ap_2.pdf
  • pdfLuận văn_ Trang bìa và mục lục.pdf
  • docxThông tin của luận án.docx
  • pdfTóm tắt tiếng anh_ nội dung.pdf
  • pdfTóm tắt tiếng anh_ trang bìa.pdf
  • pdfTóm tắt tiếng việt_ nội dung.pdf
  • pdfTóm tắt tiếng việt_ trang bìa.pdf
  • pdfTrích yếu luận án.pdf