Nghiên cứu kháng thể bất thường và xác định các kháng thể kháng hồng cầu ngoài hệ Abo tại bệnh viện chợ Rẫy

Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ kháng thể bất thường và xác định các kháng thể ngoài hệ ABO ở những bệnh nhân

nhận máu.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu và mô tả cắt ngang.

Kết quả: Qua khảo sát 2321 bệnh nhân tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 06/ 2009 – 06/ 2011, chúng tôi ghi nhận

kết quả có 10,16% kháng thể bất thường. Tỷ lệ kháng thể bất thường ở những bệnh nhân truyền máu nhiều lần là 23,47 %. Bản chất của các kháng thể bất thường chủ yếu là IgG (86,36 %). Bước đầu định danh được các kháng thể bất thường, chủ yếu là E và Fya và một số kháng thể khác.

Kết luận: Cần sớm thực hiện việc sàng lọc và định danh các kháng thể ngoài hệ ABO đối với người nhận

máu và thực hiện truyền hồng cầu phenotype, nhằm nâng cao an toàn truyền máu.

pdf 4 trang dienloan 4020
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu kháng thể bất thường và xác định các kháng thể kháng hồng cầu ngoài hệ Abo tại bệnh viện chợ Rẫy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu kháng thể bất thường và xác định các kháng thể kháng hồng cầu ngoài hệ Abo tại bệnh viện chợ Rẫy

Nghiên cứu kháng thể bất thường và xác định các kháng thể kháng hồng cầu ngoài hệ Abo tại bệnh viện chợ Rẫy
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 534
NGHIÊN CỨU KHÁNG THỂ BẤT THƯỜNG VÀ XÁC ĐỊNH  
CÁC KHÁNG THỂ KHÁNG HỒNG CẦU NGOÀI HỆ ABO  
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Nguyễn Trường Sơn*, Trần Văn Bảo** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ kháng thể bất thường và xác định các kháng thể ngoài hệ ABO ở những bệnh nhân 
nhận máu. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu và mô tả cắt ngang. 
Kết quả: Qua khảo sát 2321 bệnh nhân tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 06/ 2009 – 06/ 2011, chúng tôi ghi nhận 
kết quả có 10,16% kháng thể bất thường. Tỷ lệ kháng thể bất thường ở những bệnh nhân truyền máu nhiều lần 
là 23,47 %. Bản chất của các kháng thể bất thường chủ yếu là IgG (86,36 %). Bước đầu định danh được các 
kháng thể bất thường, chủ yếu là E và Fya và một số kháng thể khác. 
Kết luận: Cần sớm thực hiện việc sàng lọc và định danh các kháng thể ngoài hệ ABO đối với người nhận 
máu và thực hiện truyền hồng cầu phenotype, nhằm nâng cao an toàn truyền máu. 
Từ khóa: Kháng thể, kháng thể bất thường, hồng cầu phenotype. 
ABSTRACT 
STUDY ON UNEXPECTED ANTIBODIES SCREENING AND IDENTIFICATION TO RED CELL 
ANTIGENS (NON ‐ ABO) AT CHO RAY HOSPITAL 
Nguyen Truong Son, Tran Van Bao 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 534 ‐ 537 
Background:  In  practice  of  transfusion,  safe  transfusion  takes  the  most  important  part;  and  safe 
immunology gets the key position. 
Objective: To screening the rate of unexpected antibodies and identify them on blood transfusion recipient. 
Method: Retrospective and cross sectional descriptive study. 
Results: From June, 2009 to June, 2011, we studied on 2,321 patients at Cho Ray Hospital. As a result, we 
detected that the rate of unexpected antibodies took 10.16 %. The rate of unexpected antibodies detected on multi‐
blood transfusion recipient took 23.47 %. Most of them are IgG (86.36%). Anti E and anti Fya were found as 
main findings at initial identification. 
Conclusion: To ensure the safety on blood transfusion, we should: Test on unexpected antibodies screening 
and identification on blood transfusion recipient soon. Perform phenotype red cell transfusion.  
Keywords: Antibodies, unexpected antibodies, phenotype red cell 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cho  đến nay, máu vẫn  là một dược phẩm 
thiên nhiên quí giá, chưa có chất nhân tạo nào có 
thể thay thế hoàn toàn được. Truyền máu là một 
phương  thức  trị  liệu khác hẳn  với  các  cách  trị 
liệu khác. Vì ngoài  tác dụng  tích cực, hữu hiệu 
của nó, máu còn có thể gây cho người nhận máu 
những tai biến với nhiều mức độ khác nhau. Vì 
vậy, an toàn truyền máu có vị trí quan trọng hàng 
đầu, là vấn đề có tính toàn cầu, được chính phủ 
các nước hết sức quan tâm. 
* Bệnh viện Chợ Rẫy , ** Trung tâm Truyền máu Chợ Rẫy  
Tác giả liên lạc: BS. Trần Văn Bảo, ĐT: 0903978845, Email: tranvanbao178@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 535
Trong  việc  thực  hiện  an  toàn  truyền máu, 
ngoài  phương  thức  an  toàn  không  lây  lan  các 
bệnh  nhiễm  trùng,  đặc  biệt  là HIV/AIDS,  còn 
phải đảm bảo an toàn về miễn dịch. Tại các nước 
phát triển an toàn truyền máu đã được thực hiện 
một cách triệt để,  thực hiện  truyền phù hợp hệ 
ABO, Rh và một  số nhóm máu khác,  sàng  lọc 
kháng thể bất thường. Trong khi ở nước ta việc 
thực hành an toàn truyền máu về mặt miễn dịch 
còn rất hạn chế. Chúng ta chủ yếu chỉ tiến hành 
phân loại phenotype và truyền máu phù hợp với 
hệ ABO, mà chưa quan  tâm đúng mức đến hệ 
thống nhóm máu khác, là các hệ thống ngoài hệ 
ABO có  tính sinh miễn dịch mạnh, cũng có vai 
trò rất quan  trọng  trong  truyền máu. Chúng  ta 
mới chỉ làm phản ứng chéo ở nhiệt độ phòng, do 
vậy các kháng  thể bất  thường chưa được kiểm 
soát.  
Để  thực  hiện  an  toàn  truyền máu  về mặt 
miễn dịch thì việc phát hiện và định danh kháng 
thể  bất  thường  cho  bệnh  nhân  là  hết  sức  cần 
thiết. 
Chúng tôi tiến hành đề tài với hai mục tiêu 
sau: 
‐  Xác  định  tỷ  lệ  kháng  thể  bất  thường  ở 
những người nhận máu tại bệnh viện Chợ Rẫy. 
‐ Định danh các kháng thể bất thường và tỷ 
lệ các loại kháng thể thường gặp tại Việt nam. 
ĐỐI  TƯỢNG  ‐  PHƯƠNG  PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Với 2321 bệnh nhân bị bệnh máu  tuổi  từ 1‐ 
91 tuổi, khám và điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy 
từ 06/2009 – 06/2011, bao gồm: bệnh thiếu máu, 
suy tủy, ung thư máu, các bệnh khác 
Vật liệu và thuốc thử 
10 ml máu của các bệnh nhân được lấy vào 
ống  nghiệm  không  chống  đông,  ly  tâm  tách 
huyết  thanh để  làm xét nghiệm ngay hoặc bảo 
quản ở ‐300C để xét nghiệm sau. 
Thuốc thử: Huyết thanh Coomb’s, đệm Liss, 
các kháng huyết thanh chuẩn của các hang CSL, 
Panel hồng cầu dùng cho Screening và cho định 
danh kháng thể bất thường, bao gồm các kháng 
nguyên  hệ  Rh,  Kell,  Kidd,  Duffy,  Lutheran, 
MNSs, P1, Lewis. 
Phương pháp nghiên cứu  
Phát hiện và định danh kháng thể bất thường 
‐ Thực hiện xét nghiệm Coomb’s gián tiếp. 
‐ Thực hiện xét nghiệm screening để sàng lọc 
kháng thể bất thường với panel gồm 4 hồng cầu 
mẫu. 
‐ Định danh các kháng thể bất thường: Dùng 
dàn panel  gồm  11  hồng  cầu mẫu  để  xác  định 
kháng thể bất thường có trong huyết thanh bệnh 
nhân. 
Xử  lý  kết  quả  nghiên  cứu  bằng  các  phương 
pháp thống kê toán học 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Sàng lọc kháng thể bất thường ở các bệnh 
nhân 
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Phân loại bệnh nhân theo giới 
Bảng 1: Phân loại bệnh nhân theo giới 
Giới 
Số bệnh nhân 
( n =2321 ) 
Tỷ lệ % 
Nam 974 41,96 
Nữ 1347 58,04 
Nhận xét: Tỷ lệ nữ nhiều hơn nam 
Phân loại theo tuổi 
Bảng 2: Phân loại bệnh nhân theo tuổi 
Nhóm tuổi 
Số bệnh nhân 
( n = 2321) 
Tỷ lệ % 
< 10 141 6,07 
11-20 185 7,97 
21-30 448 19,30 
31-40 411 17,71 
41-50 412 17,75 
51-60 358 15,42 
61-70 311 13,40 
≥ 71 55 2,36 
Nhận xét: Các  độ  tuổi  từ 21‐70  chiếm  tỷ  lệ 
tương  đương  nhau.  Các  độ  tuổi    70 
chiếm tỷ lệ thấp.  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 536
Phân loại theo bệnh cảnh lâm sàng 
Bảng 3: Phân loại bệnh nhân theo bệnh cảnh lâm 
sàng 
Bệnh lý 
Số bệnh nhân 
( n = 2321 ) 
Tỷ lệ % 
Thiếu máu 204 8,79 
Rối loạn sinh tủy 249 10,73 
Xuất huyết giảm tiểu cầu 362 15,59 
Suy tủy 381 16,42 
Ung thư máu 665 28,65 
Hemophylia 98 4,23 
Các bệnh khác 362 15,59 
Nhận  xét:  Các  nhóm  bệnh  có  tỷ  lệ  tương 
đương nhau. 
Tỷ lệ kháng thể bất thường ở bệnh nhân 
Kết quả tỷ lệ kháng thể bất thường trên các 
bệnh nhân sau khi thực hiện phản ứng Coomb’s: 
Bảng 4: Tỷ lệ kháng thể bất thường ở bệnh nhân 
Số bệnh nhân Số mẫu dương tính Tỷ lệ % 
2321 236 10,16 
Nhận  xét:  Tỷ  lệ  chung  trên  bệnh  nhân  có 
kháng thể bất thường là tương đối cao 
Tỷ  lệ  kháng  thể  bất  thường  trên  các  bệnh 
nhân truyền máu nhiều lần  
Bảng 5: Tỷ lệ kháng thể bất thường ở bệnh nhân 
truyền máu nhiều lần 
Số bệnh nhân Số mẫu dương tính Tỷ lệ % 
328 77 23,47 
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể bất 
thường là cao.  
Xác  định các kháng  thể bất  thường ngoài hệ 
ABO ở bệnh nhân 
Sàng  lọc  kháng  thể  bất  thường  bằng  xét  nghiệm 
Screening test 
Sau  khi  thực  hiện  phản  ứng Coomb’s,  các 
mẫu cho kết quả Coomb’s gián tiếp dương tính. 
Chúng  tôi  tiến  hành  sàng  lọc  kháng  thể  bất 
thường bằng kỹ thuật Screeng test. Kết quả như 
sau: 
Bảng 6: Tỷ lệ kháng thể bất thường qua xét nghiệm 
Screening 
Số mẫu thử Số mẫu dương tính 
AHG/ Liss Enzym/370C 40C 
165 57 69 39 
Tỷ lệ 34,54 48,82 23,64 
Nhận  xét:  Ở  các  điều  kiện  phản  ứng  khác 
nhau cho các tỷ lệ KTBT khác nhau. 
Tỷ lệ các kháng thể ngoài hệ ABO phát hiện: 
Bảng 7: Các loại kháng thể bất thường đã phát hiện 
Loại kháng nguyên Số lượng 
(n = 13) 
Tỷ lệ % 
C 2 15,38 
E 3 23,08 
Jka 2 15,38 
Fya 3 23,08 
Fyb 1 7,69 
S 1 7,39 
Lea 1 7,39 
Nhận  xét:  Các  kháng  thể  bất  thường  phát 
hiện chủ yếu là E và Fya. 
BÀN LUẬN 
Tỷ  lệ kháng  thể bất  thường  (KTBT)  ở bệnh 
nhân là 10,16%, kết quả này thấp hơn so với kết 
quả  nghiên  cứu  của  Bùi  Thị  Mai  An  (1995: 
13,04%),  Trần  Thị  Thu  Hà  (1999:  12,76%),  và 
Nguyễn Thị Thanh Mai  (2000: 27,4%  ). Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với các tác 
giả  trên  là do đối  tượng nghiên cứu của chúng 
tôi nghiên cứu trên toàn bộ bệnh nhân cả ngoại 
chẩn và đang nằm viện, có chỉ định xét nghiệm 
Coomb’s,  trong khi các  tác giả  trên nghiên cứu 
trên các bệnh nhân truyền máu nhiều lần. 
Tỷ  lệ KTBT  trên  những  bệnh  nhân  truyền 
máu nhiều lần là 23,47%, kết quả này thấp hơn 
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Mai 
(2000: 27,4%  ), cao hơn các  tác giả Bùi Thị Mai 
An  (1995:  13,04%), Trần Thị Thu Hà  (1999:  12, 
76%). Sự khác biệt này có thể do sự truyền máu 
ở từng vùng miền có khác nhau, số lượng và số 
lần truyền máu khác nhau. Tỷ lệ KTBT là tương 
đối cao, nên chăng chúng ta cần sớm thực hiện 
truyền hồng cầu phenotype?  
Thực hiện Screening test trên 165 bệnh nhân 
nhận thấy ở môi trường AHG và Enzym cho tỷ 
lệ dương tính khá cao 86,36 %, trong khi ở điều 
kiện nhiệt độ 40C là 23,64 %. Điều này cho thấy 
bản chất của các kháng thể bất thường chủ yếu 
là  IgG  và  số  ít  thuộc  IgM. Các  kháng  thể  bất 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 537
thường  này  có  thể do  truyền máu  không  phù 
hợp  phenotype,  hoặc  do  bệnh  lý  xuất  hiện 
kháng  thể  tự  sinh? Do mẫu  thử  của  chúng  tôi 
chưa đủ lớn và cần nghiên cứu sâu hơn. 
Các kháng thể bất thường xuất hiện nhiều là 
E và Fya, kế đến là C và Jka, còn các kháng thể 
khác ở mức độ thấp. Việc định danh các kháng 
thể bất thường cần được nghiên cứu sâu hơn với 
số mẫu lớn hơn. 
KẾT LUẬN 
Qua  nghiên  cứu  trên  2321  bệnh  nhân  đến 
khám và điều  trị  tại bệnh viện Chợ Rẫy chúng 
tôi bước đầu rút ra những kết luận sau: 
‐ Tỷ lệ KTBT ở những bệnh nhân có chỉ định 
làm xét nghiệm Coomb’s tại bệnh viện Chợ Rẫy 
là 10,16%. 
‐  Tỷ  lệ  KTBT  ở  những  bệnh  nhân  truyền 
máu nhiều lần là 23,47%. 
‐ Bản chất các kháng  thể bất  thường  IgG  là 
86,36% và IgM là 23,64%. 
‐ Các kháng thể bất thường được định danh 
có E và Fya chiếm tỷ lệ cao, kế đến là C và Jka, 
các kháng thể khác cũng được phát hiện nhưng 
ở mức độ thấp và cần được nghiên cứu sâu hơn. 
Kiến nghị 
Tại các cơ sở có đủ điều kiện cần triển khai 
sàng lọc và định danh kháng thể bất thường và 
thực hiện  truyền hồng  cầu phenotype  để nâng 
cao an toàn truyền máu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi  Thị  Mai  An,  Bạch  Khánh  Hòa,  Nguyễn  Thị  Y  lăng, 
Nguyễn Triệu Vân, Đỗ Trung Pấn và cộng sự (1995), Kháng 
thể bất thường ở người cho máu và người nhận máu nhiều 
lần tại Viện Huyết học Truyền máu, Y học Việt Nam số 9, 196, 
tr. 35‐39. 
2. Helmut  Schenkel‐  Brunner  (2000),Human  Blood  Groups‐ 
Chemical and Biochemical‐ Basis of Antigen specificities. 
3. Nguyễn Thị Thanh Mai (2005), Nghiên cứu các kháng thể bất 
thường kháng hồng cầu ở một số đối tượng tại bệnh viện nhi 
Trung ương, Luận án tiến sỹ sinh học, tr. 11‐20. 
4. Peter D.  Issitt, Charla H.  Issitt  (1970), Applied Blood Group 
Serology, Spectra Biologicals 
5. Trần Thị Thu Hà (1999), Nghiên cứu kháng thể bất thường hệ 
hồng  cầu  ở  bệnh  nhân  nhận máu  nhiều  lần, Luận  văn  tốt 
nghiệp thạc sĩ Y học. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_khang_the_bat_thuong_va_xac_dinh_cac_khang_the_kh.pdf