Nghiên cứu nguyên nhân gây Aptt kéo dài đơn độc gặp tại viện huyết học - Truyền máu trung ương

APTT (Activated Partial Thromboplastin

Time) cùng với số lượng tiểu cầu, PT

(Prothrombin Time), TT (Thrombin Time) và

fibrinogen là những xét nghiệm hiện nay được

sử dụng khá rộng rãi tại các cơ sở y tế nhằm

mục đích khảo sát tình trạng đông – cầm máu

của bệnh nhân. APTT là xét nghiệm có độ nhạy

và độ đặc hiệu cao trong phát hiện bất thường

đường đông máu nội sinh. Trong trường hợp

APTT kéo dài trong khi PT, TT bình thường,

được gọi là APTT kéo dài đơn độc (isolated

prolonged APTT). Có nhiều tình trạng bệnh lý,

nhiều nguyên nhân gây APTT kéo dài đơn độc,

do vậy xác định được chính xác nguyên nhân

gây APTT kéo dài đơn độc đóng vai trò quan

trọng trong xử trí bất thường đông máu này.

Tuy nhiên, hiện nay, ở rất nhiều bệnh viện, mới

chỉ dừng lại ở phát hiện, chưa tiến hành tiếp các

bước tiếp theo để có chẩn đoán tìm nguyên

nhân gây APTT kéo dài để có thể xử trí kịp thời

và chính xác

pdf 5 trang dienloan 3980
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu nguyên nhân gây Aptt kéo dài đơn độc gặp tại viện huyết học - Truyền máu trung ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu nguyên nhân gây Aptt kéo dài đơn độc gặp tại viện huyết học - Truyền máu trung ương

Nghiên cứu nguyên nhân gây Aptt kéo dài đơn độc gặp tại viện huyết học - Truyền máu trung ương
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 567 
NGHIÊN CỨU NGUYÊN NHÂN GÂY APTT KÉO DÀI ĐƠN ĐỘC GẶP 
TẠI VIỆN HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG 
Nguyễn Thị Nữ*, Trần Thị Mỹ Dung** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: APTT kéo dài đơn độc gặp trong nhiều tình trạng bệnh lý và do nhiều nguyên nhân gây nên. 
Tiến hành các xét nghiệm hợp lý sẽ cho phép xác định chính xác nguyên nhân gây APTT kéo dài đơn độc, nhờ 
vậy giúp xử trí kịp thời và chính xác bất thường đông máu này. 
Mục tiêu: “Nghiên cứu nguyên nhân gây APTT kéo dài đơn độc ở bệnh nhân bệnh máu gặp tại Viện HH- 
TM TW”. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu, các bệnh nhân được tiến các xét nghiệm PT, 
APTT, TT, fibrinogen, kháng đông lupus, định lượng các yếu tố đông máu. 
Kết quả: Qua nghiên cứu 16,246 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị tại Viện HHTMTW, chúng tôi gặp 
1,102 bệnh nhân (chiếm 6,8%) có APTT kéo dài đơn độc. Nhóm bệnh nhân hemophilia có tỷ lệ APTT kéo dài đơn 
độc cao nhất (89,1%), tiếp đến là nhóm bệnh nhân Lupus (44,5%), xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch (17,2%). 
Tiến hành các xét nghiệm tiếp theo: phát hiện chất ức chế đông máu (đặc hiệu và không đặc hiệu), định lượng yếu 
tố đông máu cho phép xác định sự có mặt chất ức chế là nguyên nhân gây APTT kéo dài đơn độc cao nhất 
(54,5%), tiếp đến là do thiếu hụt yếu tố đông máu tham gia đường đông máu nội sinh (31,9%) và do ức chế đặc 
hiệu yếu tố đông máu (3,8%). 
Kết luận: Có mối tương quan thuận, tương đối chặt chẽ giữa chỉ số APTT kéo dài và sự có mặt của kháng 
đông nội sinh và kháng đông Lupus. 
Từ khóa: Cô lập APTT kéo dài, thuốc chống đông máu nội sinh, thuốc chống đông máu lupus. 
ABCTRACT 
STUDY OF CAUSES OF ISOLATED PROLONGED APTT IN PATIENTS WITH HAEMATOLOGICAL 
DISEASES AT NIHBT 
Nguyen Thi Nu, Tran Thi My Dung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 565 - 569 
Isolated prolonged APTT can meet in the many different diseases and it is important to go in a stepwise 
approach to diagnosose spectrum of bleeding disorder. 
Objective: Study of causes of isolated prolonged APTT in patients with haematological diseases at NIHBT. 
Subjects and methods: retrospective and prospective, all patients had normal PT, TT and fibrinogen 
values. Mix test was performed on all patients. Based on mix test result, this test would be followed by LA test or 
test to identify specific factor inhibitors or coagulation factor assay: If the aPTT does not correct with mixing, then 
this could be a specific factor inhibitor, or a lupus anticoagulant; other hand, if the aPTT correct with mixing, 
coagulation factor assay. 
Results: study of 16.246 patients with haematological diseases at NIHBT, 1.102 (6.8%) were found to have 
isolated prolonged APTT. Rate of isolated prolonged aPTT is highest in hemophilia patients (89.1%), followed by 
* Viện Huyết học Truyền Máu Trung Ương ** Đại học Y Hà Nội 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Nữ ĐT: 0904.599.106 Email: bsnunihbt@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 568 
patients with SLE (44.5%) and ITP (17.2%). Reason for isolated prolonged aPTT: 54.5% due to existence of non-
specific inhibitors and 31.9% caused by lack of coagulation factors and 3.8% due to existence of specific inhibitors. 
Conclusion: There is positive correlation between the isolated prolonged APTT and endogenous 
anticoagulants and lupus anticoagulant. 
Keyword: Isolated prolonged APTT, endogenous anticoagulants, lupus anticoagulant. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
APTT (Activated Partial Thromboplastin 
Time) cùng với số lượng tiểu cầu, PT 
(Prothrombin Time), TT (Thrombin Time) và 
fibrinogen là những xét nghiệm hiện nay được 
sử dụng khá rộng rãi tại các cơ sở y tế nhằm 
mục đích khảo sát tình trạng đông – cầm máu 
của bệnh nhân. APTT là xét nghiệm có độ nhạy 
và độ đặc hiệu cao trong phát hiện bất thường 
đường đông máu nội sinh. Trong trường hợp 
APTT kéo dài trong khi PT, TT bình thường, 
được gọi là APTT kéo dài đơn độc (isolated 
prolonged APTT). Có nhiều tình trạng bệnh lý, 
nhiều nguyên nhân gây APTT kéo dài đơn độc, 
do vậy xác định được chính xác nguyên nhân 
gây APTT kéo dài đơn độc đóng vai trò quan 
trọng trong xử trí bất thường đông máu này. 
Tuy nhiên, hiện nay, ở rất nhiều bệnh viện, mới 
chỉ dừng lại ở phát hiện, chưa tiến hành tiếp các 
bước tiếp theo để có chẩn đoán tìm nguyên 
nhân gây APTT kéo dài để có thể xử trí kịp thời 
và chính xác. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Nghiên cứu nguyên nhân gây APTT kéo dài 
đơn độc ở bệnh nhân bệnh máu gặp tại Viện 
HH- TM TW. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
- Bao gồm 16.246 bệnh nhân được chẩn đoán 
và điều trị tại Viện HH- TM TW từ tháng 1/2011 
đến 7/2011. 
- Loại khỏi nhóm nghiên cứu những bệnh 
nhân đang điều trị những thuốc gây ảnh hưởng 
đường đông máu nội sinh. 
Phương pháp nghiên cứu 
- Nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu. 
- Các bệnh nhân được tiến các xét nghiệm 
PT, APTT, TT, fibrinogen. 
- Kháng đông nội sinh, kháng đông lupus, 
định lượng các yếu tố đông máu. 
- Các xét nghiệm được tiến hành trên máy 
đông máu tự động ACL Advance và bằng hóa 
chất của hãng IL (Italia), theo quy trình chuẩn 
áp dụng tại Viện HH - TMTW. 
- Số liệu được xử lý bằng chương trình SPSS 
16.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1: Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân có 
APTT kéo dài đơn độc 
Giới Đặc điểm 
n % 
Tuổi 
Nam 671 60,9 
Nữ 431 39,1 
Tổng 1102 100 
33,9 ± 20,8 
(1- 89) 
Nhận xét: Trong 1.102 bệnh nhân có APTT 
kéo dài đơn độc, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn 
nữ giới (60,9% so với 39,1%); Gặp đủ các lứa 
tuổi, tuổi trung bình là 33,9 ± 20,8. 
Bảng 2: Kết quả nghiên cứu xét nghiệm APTT 
Chỉ số X± SD Khoảng giá trị 
APTT (giây) 49,7 ± 28,4 36,5- 102,4 
rAPTT 2,16 ± 0,34 126- 5 
Nhận xét: Giá trị APTT trung bình đạt 49,7 ± 
28,4 giây và tỷ lệ APTT bệnh/chứng đạt 2,16 ± 
0,34. 
Bảng 3: Tỷ lệ APTT kéo dài đơn độc theo bệnh lý 
STT Nhóm bệnh n APTT 
kéo dài 
% 
1 Leukemia cấp 8,020 281 3,5 
2 Hemophilie 230 205 89,1
3 Thalasemia 1,152 84 7,3 
4 Xuất huyết giảm tiểu cầu 
miễn dịch (ITP) 720 124 
17,2
5 U lymphô 872 32 3,7 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 569 
STT Nhóm bệnh n APTT 
kéo dài 
% 
6 Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) 146 65 44,5
7 Tan máu tự miễn 263 23 8,7 
8 Các bệnh lý khác 4,843 366 7,5 
9 Tổng 16,246 1,102 6,8 
Nhận xét: APTT kéo dài đơn độc gặp ở hầu 
hết các nhóm bệnh lý bệnh máu; tuy nhiên, gặp 
tỷ lệ cao nhất ở nhóm bệnh nhân hemophilia 
(89,1%), tiếp đến là nhóm Lupus (SLE) và xuất 
huyết giảm tiểu cầu (ITP), tan máu tự miễn 
(44,5%, 17,2% và 8,7%, theo thứ tự). 
Bảng 4: Tỷ lệ APTT kéo dài đơn độc theo nguyên 
nhân 
Nguyên nhân gây APTT kéo dài Số lượng Tỷ lệ (%) 
Thiếu hụt yếu tố VIIIc/IX/XI/XII/VW 351 31,9 
Có chất ức chế không đặc hiệu 601 54,5 
Có chất ức chế yếu tố đông máu đặc 
hiệu 
42 3,8 
Không rõ nguyên nhân 108 9,8 
Tổng 1,102 100% 
Nhận xét: APTT kéo dài đơn độc gặp tỷ lệ 
cao nhất là do có mặt của chất ức chế đường 
đông máu nội sinh, trong đó ức chế không đặc 
hiệu là 54,5%; 31,9% do thiếu hụt yếu tố đông 
máu tham gia đường đông máu nội sinh; có 
9,8% không xác định được nguyên nhân gây 
APTT kéo dài. 
Bảng 5: Tỷ lệ kháng đông nội sinh (+) ở các nhóm 
bệnh 
 KĐNS dương tính Nhóm bệnh 
n % 
Xuất huyết giảm tiểu cầu 38/124 30,7 
Tan máu tự miễn 4/23 17,4 
Lupus 28/65 43,1 
Các bệnh khác 56/389 14,4 
Nhận xét: Các bệnh nhân được làm xét 
nghiệm đông máu nội sinh, trong đó thường 
gặp KĐNS dương tính với tỷ lệ khá cao ở các 
bệnh nhân ITP và Lupus (30,7 và 43,1%). 
Bảng 6: Tỷ lệ kháng đông lupus ở các nhóm bệnh 
Dương tính Âm tính Nhóm bệnh 
n % n % 
Xuất huyết giảm tiểu cầu 7 26,9 29 50,0 
Tan máu tự miễn 2 7,7 8 13,8 
Lupus 13 50 10 17,2 
Các bệnh khác 4 15,4 11 19,0 
Dương tính Âm tính Nhóm bệnh 
n % n % 
Tổng 26 100 58 100 
Nhận xét: Xét nghiệm xác định yếu tố kháng 
đông Lupus ở các bệnh nhân này, chúng tôi xác 
định được 26/84 (30,9%) bệnh nhân dương tính 
trong đó cũng gặp chủ yếu ở nhóm lupus và 
ITP (50 và 26,9%). 
Bảng 7: Tương quan giữa APTT kéo dài với KĐNS* 
và LAC** 
Chỉ số r p 
Kháng đông nội sinh (+) 0,26 <0,05 
LAC (+) 0,34 <0,05 
(KĐNS: Kháng đông nội sinh; LAC: Lupus 
AntiCoagulant) 
Nhận xét: Có mối tương quan thuận, khá 
chặt chẽ giữa APTT kéo dài đơn độc và sự có 
mặt của kháng đông nội sinh và kháng đông 
Lupus. 
BÀN LUẬN 
Về phân bố theo tuổi, giới 
APTT là một trong các xét nghiệm được sử 
dụng rộng rãi ở các cơ sở y tế với mục đích sàng 
lọc, phát hiện sớm các bất thường của con 
đường đông máu nội sinh. Xét nghiệm này 
thường kéo dài do thiếu hụt các yếu tố đông 
máu hoặc có chất ức chế lưu hành. Xét nghiệm 
này có độ nhạy khá cao trong hầu hết các 
trường hợp bất thường đường đông máu nội 
sinh. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành 
đánh giá APTT kéo dài đơn độc của tất cả bệnh 
nhân đến khám và điều trị tại Viện HH- TM TW 
cũng như được các bệnh viện khác gửi đến. 
Theo bảng 1 nhóm bệnh nhân của chúng tôi 
gặp ở nam nhiều hơn nữ (60,9 và 39,1%) với độ 
tuổi trung bình là 33,9 ± 20,8. Kết quả nghiên 
cứu này của chúng tôi có sự khác biệt với một số 
nghiên cứu khác(2,7). Điều này là do trong nhóm 
nghiên cứu có 18,6% là bệnh nhân hemophilie A 
và B, đây là bệnh chỉ gặp ở nam giới. 
Về kết quả xét nghiệm APTT 
Bảng 2 cho thấy, kết quả APTT dao động 
khá rộng; Chúng tôi gặp khá nhiều trường hợp 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 570 
APTT rất dài, thậm chí không đông được và 
thường gặp ở nhóm bệnh nhân hemophilia; Bên 
cạnh đó, cũng có những trường hợp APTT bất 
thường khá kín đáo, thường gặp ở những bệnh 
nhân không có biểu hiện bất thường về đông 
cầm máu trên lâm sàng. 
Về phân bố theo nhóm bệnh 
Theo bảng 3, chúng tôi gặp nhóm có APTT 
kéo dài đơn độc chiếm tỷ lệ cao nhất là các bệnh 
nhân Hemophilie (89,1%). Tất cả bệnh nhân 
hemophilia đều có APTT kéo dài, tuy nhiên 
trong số đó có 10,9% kéo dài APTT kết hợp với 
PT và thậm chí, một số bệnh nhân cả TT kéo dài. 
Đây thường là những bệnh nhân suy giảm chức 
năng gan hoặc do sử dụng thuốc đông y. Nhóm 
bệnh nhân có APTT kéo dài đơn độc chiếm tỷ lệ 
cao xếp sau hemophilia là xuất huyết giảm tiểu 
cầu miễn dịch và Lupus. Theo tác giả Chng WJ 
nghiên cứu trên 177 bệnh nhân ở một trung tâm 
cấp cứu của Singapore, tỷ lệ bệnh nhân có bệnh 
nhân có kết quả APTT kéo dài đơn độc lại gặp 
chủ yếu ở các bệnh nhân Lupus(1). Sự khác biệt 
này cũng có thể được giải thích là do đặc thù 
của bệnh viện chuyên khoa, tập trung bệnh 
nhân bệnh máu, trong đó có Trung tâm 
hemophilia quản lý và điều trị cho gần 1.000 
bệnh nhân. 
Về phân bố theo nguyên nhân: 
Về nguyên nhân gây APTT kéo dài đơn độc, 
kết quả ở bảng4 cho thấy sự có mặt của chất ức 
chế đông máu không đặc hiệu gây APTT kéo 
dài đơn độc chiếm tỷ lệ cao nhất rồi mới đến do 
thiếu hụt yếu tố đông máu tham gia đường 
đông máu nội sinh. Kết quả này tương tự kết 
quả nghiên cứu của một số tác giả khác như 
Chng, Ketchen Kết quả nghiên cứu của các tác 
giả này cũng cho thây có mặt chất ức chế đông 
máu, chủ yếu là LAC là nguyên nhân chiếm vị 
trí số 1 gây APTT kéo dài đơn độc(1,3). Tuy nhiên, 
nếu xét về tỷ lệ, kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi cho thấy tỷ lệ gây APTT kéo dài do chất ức 
chế thấp hơn và do thiếu hụt yếu tố đông máu 
cao hơn so với kết quả của các nghiên cứu khác; 
Điều này, được lý giải bởi đối tượng nghiên cứu 
của chúng tôi là bệnh nhân bị bệnh máu, trong 
khi các nghiên cứu khác được tiến hành ở bệnh 
viện đa khoa. 
Về kết quả xét nghiệm kháng đông nội 
sinh và kháng đông lupus 
Các bệnh nhân có APTT kéo dài được tiếp 
tục chỉ định làm xét nghiệm kháng đông lưu 
hành đường nội sinh và kháng đông lupus. 
Theo bảng5, kháng đông nội sinh dương tính 
thường gặp với tỷ lệ khá cao ở các bệnh nhân 
ITP và Lupus (30,7 và 43,1%). Kết quả này cũng 
tương tự một số nghiên cứu khác(1,7). Sau khi đã 
loại trừ các yếu tố kỹ thuật làm sai lạc kết quả 
APTT hoặc bệnh nhân được điều trị bằng 
heparin, các nhà nghiên cứu cho rằng APTT kéo 
dài thường là do có chất kháng đông không đặc 
hiệu hoặc có chất kháng đông đặc hiệu hoặc sự 
thiếu hụt các yếu tố đông máu tham gia đường 
đông máu nội sinh(4,8,9). Các chất kháng đông 
thường được tạo ra theo cơ chế tự miễn, do đó ở 
các bệnh lý tự miễn hay gặp như ITP, SLE sẽ 
thường có chất kháng đông máu. Các bệnh tự 
miễn này thường có biểu hiện giảm tiểu cầu và 
đây thường là nguyên nhân chủ yếu bệnh nhân 
được nhập viện và điều trị tại Viện HH- TM TW. 
Kết quả bảng 6, cho thấy có 26/84 (30,9%) 
bệnh nhân dương tính với chất kháng đông 
lupus, trong đó cũng gặp chủ yếu ở nhóm lupus 
và ITP (50 và 26,9%). Kết quả nghiên cứu này 
cũng tương tự các kết quả nghiên cứu khác(2,7). 
Sự có mặt của LAC trong máu làm kéo dài các 
xét nghiệm đông máu sử dụng phospholipid vì 
LAC thuộc nhóm kháng phospholipid, kháng 
thể tự miễn, do đó ở các bệnh tự miễn gặp tỷ lệ 
cao bệnh nhân có kháng thể này. Sự có mặt của 
LAC thường gây một tình trạng giảm đông trên 
kết quả xét nghiệm đông máu và biến chứng tắc 
mạch huyết khối trên lâm sàng(5,1,6). 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 16,246 bệnh nhân chẩn 
đoán và điều trị tại Viện HH-TM TW, chúng tôi 
gặp 1,102 trường hợp có APTT kéo dài đơn độc, 
chiếm tỷ lệ 6,8%. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 571 
- Nhóm bệnh nhân hemophilia có tỷ lệ 
APTT kéo dài đơn độc cao nhất (89,1%), tiếp đến 
là nhóm bệnh nhân Lupus (44,5%), xuất huyết 
giảm tiểu cầu (17,2%), tan máu tự miễn (8,7%). 
- 54,5% trường hợp APTT kéo dài đơn độc 
do sự có mặt của chất ức chế không đặc hiệu; 
3,8% do chất ức chế đặc hiệu yếu tố đông máu; 
31,9% do thiếu hụt yếu tố tham gia đường đông 
máu nội sinh gây nên; Có 9,8% không xác định 
được nguyên nhân gây APTT kéo dài đơn độc. 
- Có mối tương quan thuận, tương đối chặt 
chẽ giữa chỉ số APTT kéo dài và sự có mặt của 
kháng đông nội sinh và kháng đông Lupus. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chng JW, Sum C, Kuperan P (2005), Causes of isolated 
prolonged activated partial thromboplatin time in an acute care 
general hospital, Singapore Med J, 46(9): 450-456. 
2. Czepek EE (2004), Editorial: Iatrogenic prolonged aPTT: a 
nondisease state, JAMA, 227: 1304-1305. 
3. Kitchens CS (2008), Prolonged activated partial thromboplastin 
time of unknown aetiology: a prospective study of 100 
consecutive cases referred for consultation, Am J Haematol, 27: 
38-45. 
4. McPhedron P, Clyne LP, Ortoli NA, et al (2005), Prolongation of 
the activated partial thromboplastin time associated with poor 
venipuncture technic, Am J Clin Pathol, 62: 16-20. 
5. Nguyễn Anh Trí (2008), Các xét nghiệm thăm dò Đông máu 
ứng dụng trong lâm sàng, NXB Y học, tr.82 – 117. 
6. Olson JD et al (1999), Addressing clinical etiologies of a 
prolonged aPTT, College of American Pathologists: 256-262. 
7. Proctor RR, Rapaport SI (2001), The partial thromboplastin time 
with kaolin: a simple screening test for first stage clotting factor 
deficiencies, Am J Clin Pathol, 36: 212-219. 
8. Renu S et al (2007), Laboratory studies in Coagulation disorders, 
Indian Journal of Pediatrics, 74: 649- 655. 
9. Suchman AL, Griner PF (2006), Diagnostic uses of the activated 
partial thromboplastin time and prothrombin time, Ann Intern 
Med, 104: 810-816. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_nguyen_nhan_gay_aptt_keo_dai_don_doc_gap_tai_vien.pdf