Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của hạt mốc mèo trên thực nghiệm

Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh bất thường về nội tiết. Các điều

trị bằng dược thảo đang ngày một phổ biến, hơn nữa những chế phẩm từ dược thảo không hoặc ít tác dụng phụ hơn thuốc trị ĐTĐ tổng hợp. Do đó nghiên cứu đã tập trung vào đánh giá tác dụng hạ đường huyết của hạt cây Mốc mèo (Caesalpinia bonduc (L.)Roxb), một thuốc dân gian có nguồn gốc thực vật.

Phương pháp nghiên cứu: Chuột nhắt trắng trọng lượng 18 - 22g được mua từ Viện Pasteur dùng để

nghiên cứu. Streptozotocin (STZ) được dùng làm hóa chất gây mô hình ĐTĐ trên chuột. STZ tiêm với liều duy nhất 150 mg/kg thể trọng chuột. Cao chiết từ hạt Mốc mèo C. bonduc được dùng với 2 liều là 250 mg/kg và 500 mg/kg thể trọng chuột, cho chuột uống. Glibenclamide là thuốc đối chứng dùng điều trị ĐTĐ với liều 10 mg/kg  thể trọng. Chuột được chia thành 4 lô (n = 6): Lô I dùng nước cất; Lô II dùng glibenclamide; Lô III và IV dùng cao chiết cồn từ hạt cây Mốc mèo C. bonduc với liều lần lượt là 250 mg/kg và 500 mg/kg. Nghiên cứu thực hiện trong 15 ngày, mỗi ngày cho chuột uống một lần. Đường huyết của chuột đo bằng máy Glucometter điện tử.

Kết quả: Trong các lô dùng thuốc, lượng đường trong máu đã giảm đáng kể từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 15.

Tất cả các lô được điều trị đều làm giảm đường huyết có ý nghĩa so với lô chứng (p.<.0,05). với="" liều="" cao="" nhất="" được="" dùng="" từ="" cao="" chiết="" cồn="" hạt="" mốc="" mèo="" c.="" bonduc="" 500="" mg/kg="" có="" tác="" dụng="" hạ="" đường="" huyết="" cao="" hơn="" so="" với="" liều="" 250="" mg/kg=""><.0,05). không="" có="" sự="" khác="" biệt="" đáng="" kể="" giữa="" lô="" dùng="" glibenclamide="" với="" lô="" dùng="" cao="" chiết="" cồn="" hạt="" mốc="" mèo="" c.="" bonduc="" với="" liều="" 500="" mg/kg="" (p.="">.0,05) từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7.

Kết luận: Trong nghiên cứu này cho thấy hiệu quả hạ đường huyết của cao chiết cồn hạt Mốc mèo C.

Bonduc trên chuột nhắt trắng gây ĐTĐ bằng STZ. Kết quả cao chiết cồn hạt Mốc mèo C. Bonduc với liều 500

mg/kg có tác dụng hạ đường huyết trên chuột nhắt trắng ĐTĐ tương tự với thuốc điều trị ĐTĐ glibenclamide

pdf 6 trang dienloan 5520
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của hạt mốc mèo trên thực nghiệm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của hạt mốc mèo trên thực nghiệm

Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của hạt mốc mèo trên thực nghiệm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 69
NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG HẠ ĐƯỜNG HUYẾT 
CỦA HẠT MỐC MÈO TRÊN THỰC NGHIỆM 
Trần Hoàng*, Nguyễn Thị Bay* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh bất thường về nội tiết. Các điều 
trị bằng dược thảo đang ngày một phổ biến, hơn nữa những chế phẩm từ dược thảo không hoặc ít tác dụng phụ 
hơn thuốc trị ĐTĐ tổng hợp. Do đó nghiên cứu đã tập trung vào đánh giá tác dụng hạ đường huyết của hạt cây 
Mốc mèo (Caesalpinia bonduc (L.)Roxb), một thuốc dân gian có nguồn gốc thực vật. 
Phương pháp nghiên cứu: Chuột nhắt trắng trọng lượng 18 - 22g được mua từ Viện Pasteur dùng để 
nghiên cứu. Streptozotocin (STZ) được dùng làm hóa chất gây mô hình ĐTĐ trên chuột. STZ tiêm với liều duy 
nhất 150 mg/kg thể trọng chuột. Cao chiết từ hạt Mốc mèo C. bonduc được dùng với 2 liều là 250 mg/kg và 500 
mg/kg thể trọng chuột, cho chuột uống. Glibenclamide là thuốc đối chứng dùng điều trị ĐTĐ với liều 10 mg/kg 
thể trọng. Chuột được chia thành 4 lô (n = 6): Lô I dùng nước cất; Lô II dùng glibenclamide; Lô III và IV dùng cao 
chiết cồn từ hạt cây Mốc mèo C. bonduc với liều lần lượt là 250 mg/kg và 500 mg/kg. Nghiên cứu thực hiện trong 
15 ngày, mỗi ngày cho chuột uống một lần. Đường huyết của chuột đo bằng máy Glucometter điện tử. 
Kết quả: Trong các lô dùng thuốc, lượng đường trong máu đã giảm đáng kể từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 15. 
Tất cả các lô được điều trị đều làm giảm đường huyết có ý nghĩa so với lô chứng (p.<.0,05). Với liều cao nhất được 
dùng từ cao chiết cồn hạt Mốc mèo C. bonduc 500 mg/kg có tác dụng hạ đường huyết cao hơn so với liều 250 
mg/kg (p.<.0,05). Không có sự khác biệt đáng kể giữa lô dùng glibenclamide với lô dùng cao chiết cồn hạt Mốc 
mèo C. bonduc với liều 500 mg/kg (p.>.0,05) từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7. 
Kết luận: Trong nghiên cứu này cho thấy hiệu quả hạ đường huyết của cao chiết cồn hạt Mốc mèo C. 
Bonduc trên chuột nhắt trắng gây ĐTĐ bằng STZ. Kết quả cao chiết cồn hạt Mốc mèo C. Bonduc với liều 500 
mg/kg có tác dụng hạ đường huyết trên chuột nhắt trắng ĐTĐ tương tự với thuốc điều trị ĐTĐ glibenclamide 
(10 mg / kg thể trọng). 
Từ khóa: Caesalpinia bonduc (L.) Roxb, ức chế tăng đường huyết (anti-hyperglycaemia), Đái tháo 
đường (ĐTĐ). 
ABSTRACT 
EXPERIMENTAL RESEARCH ON HYPOGLYCEMIC EFFECT 
OF ETHANOLIC SEED EXTRACT OF CAESALPINIA BONDUC (L.) ROXB 
Tran Hoang, Nguyen Thi Bay * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 1 - 2014: 69 - 74 
Background and aims: Diabetes mellitus is a major endocrine disorder. Herbal treatments are becoming 
increasingly popular, as the herbal preparations have no or least side effects than synthetic hypoglycaemic drugs. 
Hence research has been focused on scientific evaluation of Caesalpinia bonduc (L.) Roxb, a traditional 
hypoglycaemic herbal drug. 
Methods: mice (18 – 22g) were purchased from animal house of Pasteur Institute. Streptozotocin was used 
as the diabetes inducer in mice. The solution was made in distilled water and administered as a single dose (150 
mg/kg b.w.i.m). The extract from Caesalpinia bonduc seeds was administered in different dose (250 & 500 mg/kg 
* Khoa Y học Cổ Truyền – Đại học Y Dược Tp. HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Trần Hoàng ĐT: 0974809369 Email: hoangtran1081986@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 70
b.w) by oral gavages to the mice. Glibenclamide was used to treat diabetes and was administered with the dosage 
of 10 mg/kg b.w. The mice were divided into 4 groups (n = 6). Group I served as a control distilled water. Group II 
received standard drug glibenclamide. Group III and IV recived ethanolic extracts of Caesalpinia bonduc (L.)Roxb 
(250 mg and 500 mg/kg b.w respectively). The standard and test formulations were administered for 15 days 
using oral gavages once in day. Glucose levels were estimated using an electronic Glucometter (Abbott). 
Results: In extract-treated groups, blood glucose levels were significantly decreased from day 4 to day 15. All 
the extract-treated groups showed significant reduction effect (p<0.05) on blood glucose levels when compared 
with streptozotocin-treated control group. The highest dose of ethanolic seed extract (500 mg/kg) of C. bounduc 
was found more effective to reduce the blood glucose levels than the dose 250 mg/kg (p.<.0.05). There was no 
significant difference between glibenclamide-treated group and ethanolic extract-treated group of dose 500 mg/kg 
from day 4 to day 7. 
Conclusion: In the present study, administration of the ethanolic extract of C. Bonduc seed effectively 
reduced the blood glucose level in STZ-induced diabetic mice. In conclusion, the ethanolic extract of the C. bonduc 
seeds (the dose of 500 mg/kg b.w) has a promising anti - hyperglycemic effects on STZ-induced diabetes mellitus 
in mice which are comparable with the antidiabetic drug glibenclamide (10 mg/kg b.w). 
Keywords: Caesalpinia bonduc (L.) Roxb, anti - hyperglycaemia, diabetes mellitus. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong y văn của y học cổ truyền (YHCT) 
không có bệnh danh đái tháo đường nhưng 
những triệu chứng lâm sàng của đái tháo đường 
như: khát nước nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, 
cảm giác đói, thèm ăn, gầy, tê bì, dị cảm ngoài 
da, mờ mắt cũng được YHCT mô tả trong một 
số chứng trạng như tiêu khát, hư lao, ma mộc 
(5, 10) Hạt Mốc mèo (Caesalpinia bonduc (L.) Roxb) từ 
lâu được dùng trong dân gian để chữa sốt, làm 
thuốc bổ trong những trường hợp suy nhược, 
còn dùng chữa lỵ, tẩy giun và chữa ho(3). Trong 
đó tác dụng chữa sốt (thanh nhiệt) và làm thuốc 
bổ khi cơ thể suy nhược tương tự tác dụng 
dưỡng âm, thanh nhiệt của các vị thuốc dùng trị 
các chứng tiêu khát, hư lao, ma mộc theo quan 
điểm của YHCT. 
Đã có một số công trình nghiên cứu trên thế 
giới về tác dụng hạ đường huyết trên thực 
nghiệm của cao chiết hạt Mốc mèo (C. 
bonduc)(1,2,4,7,8,9,7) 
Tuy nhiên chưa có công trình trên thực 
nghiệm về tác dụng hạ đường huyết của hạt 
Mốc mèo ở Việt Nam được công bố trước đây. 
Câu hỏi nghiên cứu chúng tôi đặt ra là hạt Mốc 
mèo C. Bonduc với điều kiện thổ nhưỡng, môi 
trường ở Việt Nam có tác dụng hạ đường huyết 
trên thực nghiệm tương tự như ở các nước khác 
hay không? 
PHƯƠNG TIỆN 
Hạt Mốc mèo được đập vỡ, tách vỏ và nhân 
hạt, xử lý riêng bằng cách sấy khô ở nhiệt độ 40 – 
50 °C, tán và rây qua rây để thu được bột mịn 
đồng nhất. 
Mô tả các đặc điểm cảm quan bột nhân. 
Lên tiêu bản bột soi trong nước. 
Tiến hành làm cao chiết cồn 50% theo tiêu 
chuẩn. 
Xác định độ tinh khiết các chất phân lập 
được. Định tính bằng sắc ký lớp mỏng. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Chuột nhắt trắng gây ĐTĐ bằng 
streptozotocin (Miura, 1997). 
Chuột được nuôi trong phòng điều hòa nhiệt 
độ ở 22 ± 2oC với chu kỳ 12 giờ sáng và 12 giờ tối. 
Chuột được giữ trong phòng thí nghiệm 7 ngày 
và được ăn uống tự do để xác định mức đường 
máu lấy từ xoang hang. 
Chuột được chia làm hai nhóm: 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 71
Một nhóm được tiêm phúc mô 150 mg/kg 
thể trọng streptozotocin mới được hòa tan trong 
dung dịch đệm citrate pH 4,5. 
Một nhóm chỉ tiêm dung dịch đệm và được 
dùng làm đối chứng. 
Tám ngày sau khi tiêm streptozotocin xác 
định đường máu của tất cả các chuột. Các chuột 
tiêm streptozotocin có mức glucose máu trên 
300mg% được coi là ĐTĐ và dùng trong nghiên 
cứu. 
Chuột đưa vào nghiên cứu được chia làm 4 
lô, mỗi lô 6 con. 
Lô 1 (lô chứng): Chuột nhắt trắng được nuôi 
với chế độ ăn uống bình thường, uống nước cất 
20ml/kg 1 lần/ngày. 
Lô 2: Chuột nhắt trắng được điều trị bằng 
glibenclamid (10mg/kg) uống 1 lần/ngày. 
Lô 3: Chuột được cho uống cao chiết cồn 50% 
từ hạt Mốc mèo 250mg/kg, uống 1 lần/ngày. 
Lô 4: Chuột được cho uống cao chiết cồn 50% 
từ hạt Mốc mèo 500mg/kg, uống 1 lần/ngày. 
Chuột trong cả 4 lô được cho uống với thể 
tích dùng thuốc là 20ml/kg (lớn nhất là 1ml cho 1 
con chuột nặng 20g). 
Máu được lấy từ đuôi chuột để theo dõi vào 
thời điểm ngày 1, 4, 7, 11 và 15 từ khi uống 
thuốc. 
Mức độ glucose được đo bằng máy 
Glucometter (Abbott). 
KẾT QUẢ 
Trọng lượng của chuột trước, sau tiêm 
streptozotocin và sau thử nghiệm 15 ngày (biểu 
diễn số liệu theo M ± SE). 
Bảng 1. Trọng lượng chuột trước và sau thử nghiệm. 
Lô Trước tiêm (g) 
Sau tiêm STZ 
(g) 
Sau thử nghiệm 15 
ngày (g) 
1 22,17 ± 0,48 20,5 ± 0,43 19,0 ± 0,45 
2 21,83 ± 0,48 20,33 ± 0,33 19,83 ± 0,31 
3 22 ± 0,52 20,5 ± 0,56 20,33 ± 0,42 
4 21,67 ± 0,49 20,0 ± 0,58 19,83 ± 0,48 
Nhận xét: 
Trọng lượng của các chuột trong các lô trước 
tiêm STZ khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
(χ2= 0,192, p = 0,901). 
Sau khi tiêm STZ với liều 150mg/kg trong 
phúc mô 8 ngày trọng lượng các chuột có mức 
đường huyết > 300mg/dl giảm 7, 2% so với trước 
khi tiêm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (t = 
4,836, p. < 0,001). 
Vào ngày thứ 15 của nghiên cứu ở nhóm 
chứng (lô 1) trọng lượng của các chuột tiếp tục 
giảm 7,3% so với ngày thứ nhất, sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (t = 2,423, p < 0,05). 
Trong khi ở các lô dùng thuốc (lô 2, lô 3, lô 4) 
sau 15 ngày trọng lượng của các chuột thay đổi 
không có ý nghĩa thống kê (t = 0,772, p=0,223). 
Nồng độ đường huyết trong quá trình điều 
trị 
Nồng độ đường huyết trung bình của các lô 
trong quá trình điều trị (n = số chuột, p.<.0,05) 
(biểu diễn số liệu theo M ± SE). 
Bảng 2. Nồng độ đường huyết trung bình của các lô 
thử nghiệm. 
Glucose 
(mg/dl) 
n Ngày 1 Ngày 4 Ngày 7 
Ngày 
11 
Ngày 
15 
Lô 1 (chứng) 6 
362,33 
± 2,91 
399,00 
± 4,12 
412,00 
± 3,30 
416,50 
± 4,45 
387,33 
± 2,51 
Lô 2 
(glibenclamid) 
6 
367,17 
± 8,28 
303,50 
± 4,78 
258,17 
± 3,46 
199,67 
± 3,36 
156,83 
± 3,20 
Lô 3 
(250mg/kg) 
6 
353,67 
± 5,19 
337,17 
± 5,59* 
304,83 
± 6,13* 
264,33 
± 3,79* 
235,33 
± 2,71* 
Lô 4 
(500mg/kg) 
6 
348,50 
± 6,69 
290,67 
± 4,10 
268,50 
± 4,11 
246,00 
± 3,87* 
209,67 
± 4,96* 
Vào ngày thử nghiệm thứ 1 nồng độ đường 
huyết giữa các chuột trong các lô thí nghiệm 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (χ2= 1,899, 
p = 1,162). 
So với lô chứng 
Vào ngày điều trị thứ 4, 7, 11, 15 các lô chuột 
thử nghiệm đều có sự giảm mức đường huyết có 
ý nghĩa thống kê so với lô chứng (p.<.0,001). 
So với lô đối chứng 
Vào ngày thứ 4, 7, 11, 15 
Lô chuột thử nghiệm dùng cao chiết cồn 50% 
từ hạt Mốc mèo với liều 250 mg/kg làm giảm 
glucose máu ít hơn so với lô đối chứng dùng 
glibenclamid 10mg/kg, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p< 0,05). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 72
Vào ngày thứ 4,.7 
Lô chuột thử nghiệm dùng cao chiết cồn 50% 
từ hạt Mốc mèo với liều 500 mg/kg làm giảm 
glucose máu so với lô đối chứng dùng 
glibenclamid 10mg/kg khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Vào ngày 11, 15 
Lô chuột thử nghiệm dùng cao chiết cồn 50% 
từ hạt Mốc mèo với liều 500 mg/kg làm giảm 
glucose máu ít hơn so với lô đối chứng dùng 
glibenclamid 10mg/kg, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê ( p < 0,05). 
So sánh 2 lô sử dụng cao chiết cồn hạt Mốc 
mèo 50% trong quá trình điều trị 
Dùng liều cao chiết cồn hạt Mốc mèo cho 
uống với liều 500mg/kg gây giảm đường 
huyết ở chuột thí nghiệm có mức độ cao hơn 
so với liều 250mg/kg, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). 
Thể trạng chung của chuột 
Vào những ngày điều trị đầu tiên mức 
glucose máu còn cao chuột di chuyển chậm 
chạp, lông rụng nhiều, dính lại, khô. Sau 15 ngày 
điều trị chuột linh hoạt hơn nhưng không đạt 
được tình trạng linh hoạt như ban đầu. 
So với các thời điểm trước khi điều trị 
Kết quả cho thấy: 
Ở lô chứng có nồng độ glucose máu tăng 
dần đến ngày thứ 11, sau đó thì giảm dần ở ngày 
thứ 15. 
Ở lô đối chứng (lô 2, dùng glibenclamid) 
nồng độ glucose máu giảm từ ngày thứ 4 có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,001). 
Ở hai lô dùng cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc 
mèo nồng độ glucose máu giảm từ ngày thứ 4 có 
ý nghĩa thống kê (p < 0,01). 
BÀN LUẬN 
Trọng lượng của chuột 
Trọng lượng của chuột sau tiêm STZ 8 ngày 
giảm có ý nghĩa thống kê so với trước khi tiêm 
do STZ là thuốc gây độc tế bào β của tụy, khiến 
lượng insulin được sản xuất giảm. Vì insulin 
kích thích sự tổng hợp chất đạm bằng cách tăng 
sự chuyên chở acid amin cũng như kích thích sự 
tổng hợp protein ở ribo thể nên hậu quả của 
giảm insulin là làm giảm tổng hợp protein, đây 
là lý do khiến chuột giảm cân. 
Ở lô chứng trọng lượng chuột tiếp tục giảm 
cho đến ngày 11 do không được điều trị. Ở các lô 
được điều trị bằng cao chiết cồn từ hạt Mốc mèo, 
sau 15 ngày trọng lượng của chuột thay đổi 
không ý nghĩa thống kê, có thể do thuốc có tác 
dụng trên sự tổng hợp, chế tiết insulin hoặc tăng 
sử dụng insulin ở mô ngoại vi. 
Nồng độ đường huyết 
Vào ngày thử nghiệm thứ 1 nồng độ đường 
huyết giữa các chuột trong các lô thí nghiệm là 
tương đương nhau hay các chuột được đưa vào 
nghiên cứu có tình trạng bệnh đồng nhất. Thuốc 
đối chứng là glibenclamid là một thuốc đã được 
chứng minh có tác dụng hạ đường huyết nhằm 
so sánh hiệu quả hạ đường huyết của cao chiết 
cồn 50% từ hạt Mốc mèo với thuốc này. 
Glibenclamid có tác dụng làm hạ đường 
huyết được ghi nhận từ ngày thứ 4 và liên tục 
giảm cho tới ngày 15 của thử nghiệm. Cao chiết 
cồn hạt Mốc mèo dùng với liều 250 mg/kg có tác 
dụng hạ đường huyết từ ngày thứ 4 và cũng gây 
hạ đường huyết liên tục cho tới ngày 15 của thử 
nghiệm, nhưng mức độ giảm đường huyết kém 
hơn thuốc đối chứng là glibenclamid có ý nghĩa. 
Cho thấy ở liều dùng 250 mg/kg cao chiết cồn từ 
hạt Mốc mèo tuy có tác dụng hạ đường huyết rõ 
nhưng kém hơn so với thuốc đối chứng. 
Dùng cao chiết hạt Mốc mèo với liều 500 
mg/kg từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 kết quả cho 
thấy mức hạ đường huyết so với glibenclamid 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Cho thấy 
hiệu quả hạ đường huyết mạnh hơn khi dùng 
liều lượng cao hơn của cao chiết cồn từ hạt Mốc 
mèo. Nhưng đến ngày 11 và 15 thì ghi nhận mức 
giảm đường huyết ở lô dùng cao chiết từ hạt 
Mốc mèo kém hơn so với thuốc đối chứng có ý 
nghĩa. Cho thấy hiệu quả hạ đường huyết của 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 73
cao chiết hạt Mốc mèo khi dùng ở liều 500 mg/kg 
không mạnh bằng glibenclamid ở những ngày 
sau (từ ngày 11 trở đi). 
Trong hai lô dùng cao chiết cồn 50% từ hạt 
Mốc mèo thì lô dùng liều cao gấp 2 lần là 500 
mg/kg có hiệu quả hạ đường huyết cao hơn có 
ý nghĩa so với lô dùng với liều 250 mg/kg từ 
ngày thứ 4 cho tới khi kết thúc thử nghiệm. Từ 
đó mở ra hướng nghiên cứu tăng liều thuốc 
thử nghiệm để tìm được liều điều trị hiệu quả 
hơn của cao chiết hạt Mốc mèo trên chuột gây 
ĐTĐ bằng STZ. 
Nghiên cứu đã bước đầu chứng minh hiệu 
quả hạ đường huyết của cao chiết cồn 50% từ 
hạt Mốc mèo có xuất xứ ở Việt Nam với điều 
kiện khí hậu, thổ nhưỡng tại Việt Nam cũng 
có hiệu quả tương tự như ở một số nghiên cứu 
khác tại nước ngoài, từ đó mở ra những 
nghiên cứu tiếp theo về tác dụng và độ an 
toàn của thuốc trên thực nghiệm cũng như 
trên người, cho ra sản phẩm mới từ thảo dược 
góp phần vào quá trình điều trị bệnh nhân 
ĐTĐ tại Việt Nam. 
Theo YHCT những biểu hiện của bệnh ĐTĐ 
khi đường huyết không được kiểm soát tốt 
thường biểu hiện tương tự chứng tiêu khát với 
ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy hay chứng 
Hư lao với mệt mỏi, uể oải, kém linh hoạt, da 
lông khô thưa do tân dịch nuôi dưỡng giảm... 
Trên biểu hiện của các chuột được gây ĐTĐ 
bằng STZ, các chuột sau tiêm STZ 8 ngày có 
trọng lượng giảm, hay chuột gầy hơn, đồng thời 
có những biểu hiện kém linh hoạt, lông khô rụng 
nhiều. Những biểu hiện ở chuột gây ĐTĐ bằng 
STZ có nhiều điểm tương đồng với các chứng 
Tiêu khát, Hư lao của YHCT. 
Tuy nhiên cụ thể biểu hiện bệnh lý chứng 
Tiêu khát có liên quan với các tạng phủ chủ yếu 
là Phế, Vị, Thận thì trên mô hình thực nghiệm 
chưa phân biệt được. 
Chứng tiêu khát theo YHCT có cơ chế bệnh 
sinh chung là do chân âm hao tổn, bệnh lý biểu 
hiện thiên về nhiệt chứng, hư chứng. Những vị 
thuốc, bài thuốc trước đây từng được nghiên cứu 
trên thực nghiệm và lâm sàng đa phần đều tác 
động đến cơ chế này, nghĩa là có tác dụng bồi bổ 
chân âm (thuốc tư âm, bổ huyết) và/hoặc thanh 
trừ hư nhiệt (thuốc thanh nhiệt). 
Theo Đông Y hạt cây Mốc mèo (Mang quả 
đinh) có vị đắng, tính mát vào kinh Tỳ, Vị, Thận; 
tác dụng khu ứ, chỉ thống, thanh nhiệt, trừ thấp. 
Dùng trong các trường hợp như ho ngược, lỵ tật, 
niệu huyết, lâm trọc, chấn thương té ngã hay 
trong dân gian từ lâu hạt Mốc mèo được dùng 
để chữa sốt (thuốc thanh nhiệt), làm thuốc bổ 
(thuốc dưỡng âm) với liều 0,5-1g một lần, còn 
dùng chữa lỵ (trừ thấp nhiệt), tẩy giun và chữa 
ho. Tuy chưa thấy tài liệu nào ghi nhận dùng hạt 
Mốc mèo phối hợp với các vị thuốc khác để điều 
trị. Từ đó cho thấy tác dụng dưỡng âm, thanh 
nhiệt từ hạt Mốc mèo đã được dân gian sử dụng 
và YHCT đề cập đến từ lâu theo nghiên cứu của 
chúng tôi thì có tác dụng hạ đường huyết (trên 
chuột gây ĐTĐ bằng streptozotocine) tương tự 
như một số vị thuốc có tác dụng dưỡng âm, 
thanh nhiệt khác. 
Như vậy cơ chế tác dụng của hạt Mốc mèo 
theo YHCT phù hợp với việc ứng dụng trên 
bệnh nhân ĐTĐ type 2 tương tự như cơ chế của 
các vị thuốc khác đã được chứng minh có tác 
dụng hạ đường huyết. 
KẾT LUẬN 
Sau 15 ngày thử nghiệm: 
Cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo 
Caesalpinia bonduc có tác dụng hạ đường huyết 
trên chuột nhắt trắng đái tháo đường gây bằng 
streptozotocin ở cả hai liều điều trị là 250 mg/kg 
và 500 mg/kg. 
Tác dụng hạ đường huyết của liều 250 mg/kg 
cao chiết từ hạt Mốc mèo C.bonduc yếu hơn 
glibenclamid với liều 10mg/kg. 
Tác dụng hạ đường huyết của liều 500 mg/kg 
cao chiết từ hạt Mốc mèo C.bonduc so với 
glibenclamid với liều 10mg/kg từ ngày thứ 4 đến 
ngày thứ 7 là tương đương, nhưng từ ngày 11 
đến ngày 15 thì yếu hơn. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 74
KIẾN NGHỊ 
Thời gian 15 ngày nghiên cứu chưa đủ để 
đánh giá hiệu quả kéo dài và ổn định của thuốc 
từ Cao chiết cồn 50% hạt Mốc mèo C. bonduc nên 
cần có những nghiên cứu về sau với thời gian 
dài hơn. 
Với hai liều thử nghiệm đều có hiệu quả 
gây hạ đường huyết nhưng chưa tìm được liều 
tối đa có hiệu quả, cần có nghiên cứu rộng hơn 
để tìm được liều hiệu quả gây hạ đường huyết 
tốt nhất. 
Để xác định tính an toàn của thuốc cần làm 
nghiên cứu xác định độc tính cấp và bán trường 
diễn của thuốc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arayne MS, Sultana N, Mirza AZ, Zuberi MH, Siddiqui FA. 
(2007). In vitro hypoglycemic activity of methanolic extract of 
some indigenous plants, Pak.J. Pharm. Sci, vol.20, pp 268- 272. 
2. Chakrabarti S, Biswas KT, Rokeya B, Ali L, Mosihuzzama M, 
Nahar N,. Khan AKA Mukherjee B. (2002). Advanced studies on 
the hypoglycemic effect of Caesalpinia bonducella F. in type 1 
and 2 diabetes in Long Evans rats, Journal of 
Ethnopharmacology, pp. 41- 46. 
3. Đỗ Tất Lợi (2006). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. NXB 
Khoa học kỹ thuật, tr.696-697. 
4. Karpagam T and Barani M (2011). Caesalpinia Bonduc (L.) Roxb 
as a novel drug having hypoglycemic effect on alloxan induced 
diabetic rats, International Journal of Pharma and Bio Sciences, 
pp. 384-390. 
5. Lê Hữu Trác (1987). Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh tập III, V. Hội Y 
học dân tộc Tp. HCM, tr.1049-1147, 2432-2515. 
6. McPhee SJ and Hammer GD (2010). Diabetes mellitus, 
Pathophysiology of disease, page 14 of 43- page 
7. Moon K, Khadabadi S.S., Deokate U.A., Deore S.L. (2010). 
Caesalpinia bonducella F. Report and Opinion, pp. 13, 2 
8. Rajathi R and Ananthi T (2010). Potential hypoglycemic effects 
of Caesalpinia Bonduc (L.) Rox. In alloxan induced diabetic rats. 
Pharmacol Toxicol, pp. 131- 135. 
9. Shukla S, Mehta A, Mehta P, Bajpai VK (2011). Evaluation of 
comparative antidiabetic effects of ethanolic extracts of 
Caesalpinia bouncucella and Stevia rebaudiana in normal and 
alloxan-induced experimental rats. Romanian Biotechnological 
Letters, pp. 6187- 6198. 
10. Trần Thúy và cs (2005). Bài giảng y học cổ truyền tập II. NXB Y 
học, tr.168-169. 
Ngày nhận bài báo: 28/09/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/10/2013, 
17/10/2013 
Ngày bài báo được đăng: 02/01/2014 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tac_dung_ha_duong_huyet_cua_hat_moc_meo_tren_thuc.pdf