Nghiên cứu tương quan giữa nồng độ thyroglobulin huyết thanh và hình ảnh di căn phổi từ ung thư tuyến giáp dạng biệt hoá

Thyroglobulin (Tg) là một glycoprotein được

tổng hợp duy nhất từ tế bào nang giáp. Một cách

tổng quát, cứ 1g mô giáp bình thường sản xuất

khoảng 1ng/ml Tg khi TSH bình thường và

khoảng 0,5ng/ml khi TSH bị ức chế (7). Trọng

lượng tuyến giáp khoảng 20‐30g, nồng độ Tg

bình thường là <25ng l="" (theo="" labo="" ria="">

Khoa Y học hạt nhân Bệnh Viện Chợ Rẫy). Tg

tăng tạm thời sau sinh thiết, phẫu thuật tuyến

giáp và trở về mức ổn định sau 4‐6 tuần(233). Sau

phẫu thuật cắt giáp toàn phần hoặc gần toàn

phần nên chờ thêm từ 4‐6 tuần nữa để định

lượng Tg, về lý thuyết thì nồng độ Tg phải giảm.

Lúc bấy giờ Tg từ một chất bình thường có trong

huyết thanh bệnh nhân (BN) trước phẫu thuật

nhưng lại trở thành chất đánh dấu ung thư ở BN

ung thư tuyến giáp (UTTG) dạng biệt hoá sau

phẫu thuật. Trong quá trình theo dõi BN sau

diệt giáp, nồng độ Tg huyết thanh còn cao gợi ý

bệnh tái phát hoặc có di căn xa(2,16,18,19,22,25,26).

Trong các di căn xa từ UTTG thì phổi là vị trí

thường gặp nhất nhưng có tiên lượng tốt nếu

như được phát hiện sớm và điều trị thích hợp

bằng phẫu thuật cắt giáp toàn phần kết hợp với

điều trị bằng I‐131 và hormone tuyến giáp.

Nghiên cứu này làm cơ sở giúp cho bác sĩ lâm

sàng trong việc sử dụng các phương tiện chẩn

đoán hình ảnh để phát hiện di căn phổi (DCP)

từ UTTG dạng biệt hóa sau phẫu thuật.

pdf 7 trang dienloan 3560
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tương quan giữa nồng độ thyroglobulin huyết thanh và hình ảnh di căn phổi từ ung thư tuyến giáp dạng biệt hoá", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tương quan giữa nồng độ thyroglobulin huyết thanh và hình ảnh di căn phổi từ ung thư tuyến giáp dạng biệt hoá

Nghiên cứu tương quan giữa nồng độ thyroglobulin huyết thanh và hình ảnh di căn phổi từ ung thư tuyến giáp dạng biệt hoá
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 527
NGHIÊN CỨU TƯƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ THYROGLOBULIN 
HUYẾT THANH VÀ HÌNH ẢNH DI CĂN PHỔI  
TỪ UNG THƯ TUYẾN GIÁP DẠNG BIỆT HOÁ 
Phạm Văn Triều* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Thyroglobulin huyết thanh (Tg) là chất đánh dấu ung thư trong quá trình theo dõi bệnh nhân 
ung thư tuyến giáp dạng biệt hóa sau phẫu thuật. Sự gia tăng nồng độ Tg gợi ý bệnh tái phát hoặc di căn xa. 
Phổi là vị trí di căn xa thường gặp nhất. Mục tiêu nghiên cứu nhằm khảo sát tương quan giữa nồng độ Tg và 
hình ảnh di căn phổi từ ung thư tuyến giáp dạng biệt hóa sau phẫu thuật.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 57 bệnh nhân ung 
thư tuyến giáp dạng biệt hóa đã phẫu thuật cắt giáp toàn phần hoặc gần toàn phần có hình ảnh di căn phổi trên 
xạ hình toàn thân sau điều trị I‐131. Tất cả bệnh nhân đều được đo nồng độ TSH, Tg, Anti‐ thyroglobulin huyết 
thanh và chụp XQ, CT ngực.  
Kết quả: Tuổi trung bình 36 ± 13 (16‐66 tuổi), tỉ số nam/nữ: 1/1,26, ung thư tuyến giáp dạng nhú chiếm 
96%, dạng nang chiếm 4%. Ở bệnh nhân có di căn phổi trên xạ hình I‐131, nồng độ Tg>10ng/ml chiếm 75,5%. 
Nồng độ Tg ở nhóm bệnh nhân có di căn phổi trên chụp cắt lớp điện toán (CT) và X quang (XQ) cao hơn ở nhóm 
bệnh nhân không có di căn phổi trên CT và XQ (p=0,001) và ROC > 90%. Nồng độ Tg >16,8ng/ml, giá trị dự 
báo dương cho kết quả di căn phổi trên CT là 97.6%. Nồng độ Tg <158ng/ml, giá trị dự báo âm cho kết quả XQ 
là 97.4%. Nồng độ Tg<2ng/ml không cho phép loại trừ hoàn toàn khả năng di căn phổi.  
Kết luận: Có sự tương quan thuận giữa nồng độ Tg và hình ảnh di căn phổi từ ung thư tuyến giáp dạng 
biệt hóa sau phẫu thuật. Nồng độ Tg là chất chỉ điểm giúp gợi ý cho Bác sĩ  lâm sàng trong việc sử dụng các 
phương tiện chẩn đoán hình ảnh để phát hiện di căn phổi từ đó có kế hoạch quản lý thích hợp nhằm giảm tỉ lệ tử 
vong, kéo dài thời gian sống thêm và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.  
Từ khoá: Thyroglobulin, ung thư tuyến giáp dạng biệt hoá, di căn phổi, I‐131, chụp cắt lớp điện toán 
ABSTRACT 
CORRELATION BETWEEN SERUM THYROGLOBULIN LEVEL AND IMAGING OF PULMONARY 
METASTASIS FROM DIFFERENTIATED THYROID CARCINOMA 
Pham Van Trieu** Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 527 ‐ 533 
Background:  Serum  thyroglobulin  (Tg)  is  a  tumor  marker  in  monitoring  post‐surgery  differentiated 
thyroid carcinoma (DTC) patients. The increase in Tg levels suggest recurrent or distant metastasis. Lung is one 
of the most metastasis site of DTC. The aim of study is to assess the correlation between the serum thyroglobulin 
level and imaging of pulmonary metastases in post‐surgery DTC patients. 
Method: prospective cross‐ sectional study was perform at Cho Ray hospital in 57 patients post‐total or near 
thyroidectomy  who  have  I‐131  lung  uptake  on  post‐treatment  whole  body  scan.  Serum  TSH,  Tg,  Anti‐
Thyroglobulin, chest X‐ray, CT was evaluated in all of these patients.  
Results: Mean age was 36± 13 (16‐66), male/female ratio was 1/1.26, papillary thyroid carcinoma was 96%, 
* Khoa Y Học hạt nhân ‐ BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Văn Triều    DĐ: 0989514360   Email: phamvantrieu@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 528
follicular  thyroid  carcinoma was  4%. Tg  concentration more  than  10ng/ml  is  75.5%  in  positive  I‐131  post‐
treatment whole body scan patients. Tg concentration  in patients with  lung metastasis on chest computerized 
tomography  (CT)  and X‐ray  is  higher  than  that  in  patients without  lung metastasis  on  chest  computerized 
tomography (CT) and X‐ray (p=0,001), ROC> 90%. Tg concentration more than 16.8ng/ml give 97.6% PPV for 
chest CT result. Tg concentration less than 158ng/ml give 97.4% NPV for chest X‐ray result. Tg concentration 
less than 2ng/ml cannot rule out pulmonary metastases. 
Conclusion:  The  data  showed  favorable  correlation  between  serum  thyroglobulin  level  and  imaging  of 
pulmonary metastases in post‐surgery DTC patients. Serum thyroglobulin is indicator to suggest clinician in the 
use of diagnostic imaging facilities to detect pulmonary metastases from that we have appropriate management 
plans to reduce mortality, lasted survival and improve quality of life for patients.  
Keywords: Thyroglobulin, differentiated thyroid carcinoma, lung metastasis, Computerized Tomography, I‐
131. 
MỞ ĐẦU 
Thyroglobulin (Tg) là một glycoprotein được 
tổng hợp duy nhất từ tế bào nang giáp. Một cách 
tổng quát, cứ 1g mô giáp bình thường sản xuất 
khoảng  1ng/ml  Tg  khi  TSH  bình  thường  và 
khoảng  0,5ng/ml  khi  TSH  bị  ức  chế  (7).  Trọng 
lượng  tuyến  giáp  khoảng  20‐30g,  nồng  độ  Tg 
bình  thường  là  <25ng/ml  (theo  Labo  RIA  của 
Khoa Y học hạt nhân Bệnh Viện Chợ Rẫy). Tg 
tăng  tạm  thời  sau  sinh  thiết, phẫu  thuật  tuyến 
giáp và trở về mức ổn định sau 4‐6 tuần(233). Sau 
phẫu  thuật  cắt  giáp  toàn  phần  hoặc  gần  toàn 
phần  nên  chờ  thêm  từ  4‐6  tuần  nữa  để  định 
lượng Tg, về lý thuyết thì nồng độ Tg phải giảm. 
Lúc bấy giờ Tg từ một chất bình thường có trong 
huyết  thanh bệnh nhân  (BN)  trước phẫu  thuật 
nhưng lại trở thành chất đánh dấu ung thư ở BN 
ung  thư  tuyến giáp  (UTTG) dạng biệt hoá  sau 
phẫu  thuật.  Trong  quá  trình  theo  dõi  BN  sau 
diệt giáp, nồng độ Tg huyết thanh còn cao gợi ý 
bệnh  tái  phát  hoặc  có  di  căn  xa(2,16,18,19,22,25,26). 
Trong  các di  căn xa  từ UTTG  thì phổi  là vị  trí 
thường  gặp  nhất  nhưng  có  tiên  lượng  tốt  nếu 
như được phát hiện  sớm và  điều  trị  thích hợp 
bằng phẫu thuật cắt giáp toàn phần kết hợp với 
điều  trị  bằng  I‐131  và  hormone  tuyến  giáp. 
Nghiên cứu này  làm cơ sở giúp cho bác sĩ  lâm 
sàng  trong việc  sử dụng  các phương  tiện  chẩn 
đoán hình ảnh để phát hiện di căn phổi  (DCP) 
từ UTTG dạng biệt hóa sau phẫu thuật. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm  57 BN UTTG dạng  biệt  hóa  đã  được 
phẫu  thuật  cắt  giáp  toàn  phần  hoặc  gần  toàn 
phần, có hình  ảnh DCP  trên xạ hình  toàn  thân 
sau  điều  trị  I‐131  (RxWBS).  Các  BN  này  hiện 
đang  được  theo  dõi  tại Khoa  Y  học  hạt  nhân 
Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
‐  BN  đã  phẫu  thuật  cắt  giáp  toàn  phần 
hoặc gần toàn phần, có kết quả mô bệnh học là 
UTTG dạng nhú hoặc dạng nang, có hình ảnh 
DCP trên RxWBS. 
‐  Định  lượng  nồng  độ  TSH,  Tg,  Anti‐Tg 
huyết  thanh  (TgAb)  và  chụp  X  quang  ngực 
(XQ), chụp cắt lớp điện toán vùng ngực (CT) tại 
Bệnh viện Chợ Rẫy 
‐ Tuổi >15 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Viêm hô hấp  trước,  trong và sau điều  trị  I‐
131. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang được 
thực  hiện  từ  đầu  01/2010  đến  cuối  5/2011,  tại 
Khoa Y học hạt nhân Bệnh Viện Chợ Rẫy 
Thuốc phóng xạ và thiết bị nghiên cứu 
+ Dung dịch NaI (I‐131) (Egis, Hungari). 
+ Định lượng TSH, Tg (kit Cis‐bio của Pháp) 
phương  pháp  IRMA  và  định  lượng  TgAb  (kit 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 529
Egis của Hungari) phương pháp RIA  trên máy 
PC‐RIA.MAS của hãng STRATEC, Đức.  
+ Máy SPECT/CT SymbiaT6 (Siemens, Đức). 
Quy trình kỹ thuật 
Tất cả 57 BN nghiên cứu đều thực hiện theo 
quy trình điều trị I‐131 của Khoa Y học hạt nhân 
Bệnh viện Chợ Rẫy(8). Chuẩn bị BN trước điều trị 
gồm: Định lượng TSH, Tg, TgAb (thường quy). 
Chụp XQ ngực kỹ thuật số (thường quy). Chụp 
RxWBS  (thường quy)  trên máy  SPECT/CT vào 
thời  điểm  4‐7  ngày  sau  điều  trị  I‐131  với  các 
thông  số ghi hình như  sau: BN nằm ngửa với 
chân  và  hai  tay  duỗi  thẳng  theo  thân  người. 
Chụp ở hai tư thế trước và sau bằng Colimator 
song  song, mức  năng  lượng  cao,  tốc  độ  quét 
10cm/ phút. Chẩn đoán DCP trên RxWBS khi có 
sự đồng thuận của cả 2 BS Yhọc hạt nhân có hơn 
10 năm kinh nghiệm trong điều trị UTTG bằng 
I‐131. Chụp CT ngực không cản quang cho tất cả 
BN có hình ảnh DCP trên RxWBS trong cùng 1 
ngày với RxWBS với các  thông số ghi hình CT 
như sau: Kv =120, mAs =70, pitch =1, colimation 
= 6,25mm. Khảo sát từ đỉnh phổi đến đáy phổi ở 
tư thế BN nằm ngửa hai tay giơ thẳng qua khỏi 
đầu, khảo  sát  ở  thì hít vào hết  sức và nín  thở. 
Hình  ảnh  tái  tạo ở mặt cắt  trục và  trán, cửa sổ 
phổi  (Kernel  B80  very  shape)  và  trung  thất 
(Kernel B31), độ dày lát cắt 5mm.  
Xử lý số liệu 
Sử dụng phần mềm SPSS 19.0. Sự khác biệt 
có nghĩa thống kê khi p<0,05. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Trong thời gian 17 tháng chúng tôi đã khảo 
sát 57 trường hợp UTTG dạng biệt hóa sau phẫu 
thuật cắt giáp toàn phần hoặc gần toàn phần có 
hình ảnh DCP  trên RxWBs,  trong đó dạng nhú 
chiếm 96%, dạng nang 4%, có 16 BN nam và 41 
BN nữ. Tuổi trung bình 36, nhỏ tuổi nhất 16 và 
lớn tuổi nhất 66. Kết quả này cũng tương đồng 
với  kết  quả  nghiên  cứu  của  Ilgan  và  cộng  sự 
(cs)(5), Ronga và cs(20). Như vậy, UTTG dạng biệt 
hóa nói chung và DCP  từ UTTG dạng biệt hoá 
nói riêng có  thể gặp ở mọi  lứa  tuổi, cả hai giới 
nhưng  thường gặp ở độ  tuổi  lao động, nữ gặp 
nhiều hơn nam, dạng nhú gặp nhiều hơn dạng 
nang. Đây là các đặc điểm cần lưu ý khi tiếp cận 
BN UTTG dạng biệt sau phẫu thuật nếu có nghi 
ngờ  DCP.  Các  đặc  điểm  này  có  thể  thay  đổi 
trong từng nghiên cứu.  
Giá trị chẩn đoán DCP của XQ và mối liên 
quan giữa nồng độ Tg huyết thanh và hình 
ảnh DCP trên XQ 
XQ  là phương  tiện  được  chỉ  định  đầu  tiên 
khi có nghi ngờ DCP trên BN có ung thư nguyên 
phát đã biết bởi vì đây là phương tiện sẵn có, dễ 
thực hiện. Với XQ kỹ thuật số như hiện nay đã 
cải thiện đáng kể chất lượng hình ảnh, gia tăng 
giá trị chẩn đoán. Tuy nhiên, do độ nhạy không 
cao  nên  XQ  có  phần  nào  hạn  chế  trong  chẩn 
đoán DCP. Theo Powell và cs(17), theo dõi 49 BN 
UTTG  đã  cho  thấy  XQ  được  chỉ  định  thường 
quy  trong 85%  trường hợp,  chỉ  có  15%  trường 
hợp  là  có  chỉ  định  lâm  sàng. Tác giả  cũng  cho 
thấy rằng, không  tìm  thấy những dấu hiệu bất 
thường  trên  phim XQ  nếu  BN  không  có  triệu 
chứng.  Tác  giả  kết  luận  rằng  XQ  thường  quy 
không có hiệu quả kinh tế và không đủ nhạy để 
phát hiện DCP  từ UTTG dạng biệt hoá nên  sử 
dụng XQ khi BN  có  triệu  chứng và Tg dương 
tính  (tác  giả  không  xác  định  mức  Tg  là  bao 
nhiêu). Vai  trò giới hạn  của XQ  cũng  tìm  thấy 
trong UTTG ở trẻ em. Theo Bal và cs(1), trong 28 
bệnh nhi có DCP  trên xạ hình  I‐131  thì  có  đến 
21/28  BN  (75%)  có  kết  quả  XQ  ngực  bình 
thường. Tác giả kết luận rằng xạ hình I‐131 nên 
được sử dụng như là phương tiện theo dõi DCP 
từ UTTG dạng biệt hoá ở trẻ em. Theo Habra và 
cs(4),  nghiên  cứu  hồi  cứu  20  năm  theo  dõi  BN 
UTTG dạng biệt hoá đã cho  thấy chỉ có 22/333 
BN  (6,6%)  có  bất  thường  trên  phim  XQ  ngực 
thường  quy.  Các  tác  giả  đã  khuyên  rằng  nếu 
không  có  những  bằng  chứng  cùng  tồn  tại,  sử 
dụng  XQ  thường  quy  có  vai  trò  rất  hạn  chế 
trong việc phát hiện DCP  trên BN UTTG dạng 
biệt hóa.  
Trong 57 BN nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 
12BN  có hình  ảnh DCP  trên XQ.  Độ nhạy  của 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 530
XQ  là  21,1%. Kết  quả  này  cũng  tương  tự  như 
nghiên  cứu  của  Nguyễn  Thanh  Hướng(12). 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nếu sử dụng 
XQ thì có thể bỏ lỡ đến 79% cơ hội để phát hiện 
di căn phổi từ UTTG dạng biệt hoá.  
Bảng 1. Liên quan giữa nồng độ Thyroglobulin và 
kết quả X quang  
Kết quả XQ Nồng độ Thyroglobulin (ng/ml) p 
Trung bình Trung vị
XQ (+) (n=12) 5572,7± 10016,7 3045,1 
p=0,001XQ (-) (n=45) 97,6 ± 224,5 30,9 
Biểu đồ 1. Đường cong ROC của Tg về dự báo kết 
quả XQ (+) và XQ (‐) 
Diện  tích  bên  dưới  đường  cong  (AUC)= 
0,98  (khoảng  tin  cậy  95%,  CI:  0,947‐1,000, 
p=0,001). Do AUC= 98% nên có thể dùng giá trị 
Tg để dự báo về khả năng có hoặc không có di 
căn phổi  trên XQ. Giá  trị ngưỡng  (cutoff) của 
Tg tại vị trí điểm cắt là 158 ng/ml. 
Bảng 1 cho thấy nồng độ Tg huyết thanh ở 
nhóm BN XQ (+) cao hơn so với nhóm BN XQ 
(‐)  (kiểm  định U,  p=0,001)  và  từ  đường  cong 
ROC  (biểu  đồ 1)  cho  thấy AUC  là 98%  từ đó 
chúng tôi nhận thấy rằng Tg có thể được xem 
là  chất  chỉ  điểm gợi ý  cho  chúng  tôi khì nào 
nên  chỉ  định XQ  để phát hiện DCP  từ UTTG 
dạng  biệt  hoá.  Với  giá  trị  ngưỡng  (cut  off) 
Tg≥158ng/ml  cho  giá  trị  dự  đoán  âm  tính 
97,4%%  trong  việc  phát  hiện  DCP  trên  XQ, 
điều đó có nghĩa  là xác  suất XQ bình  thường 
lên  đến hơn  97% nếu như nồng  độ Tg huyết 
thanh  ở  BN  sau  phẫu  thuật  cắt  giáp  và  diệt 
giáp  thấp hơn  158ng/ml. Từ  đó  chúng  tôi  đề 
nghị  rằng  không  nên  chụp  XQ  ngực  thường 
quy nếu nồng độ Tg thấp trừ khi có những chỉ 
định khác về hô hấp đi kèm. Sử dụng XQ quy 
ước thường quy để theo dõi BN giai đoạn I và 
II  với  kết  quả  Tg  bình  thường  dường  như 
không có giá trị(5).  
Giá trị chẩn đoán DCP của CT và mối liên 
quan giữa nồng độ Tg huyết thanh và hình 
ảnh DCP trên CT 
Khác hẳn với XQ, CT  là phương  tiện chính 
xác nhất trong việc phát hiện các nốt phổi CT có 
thể phát hiện các nốt phổi nằm ở vùng ngoại vi 
dưới  màng  phổi,  các  nốt  phổi  kích  thước  < 
10mm mà XQ không  thể phát hiện được. Theo 
Ilgan và  cs(5), 22 BN UTTG dạng biệt hoá DCP 
được chẩn đoán bằng xạ hình I‐131 độ nhạy của 
CT  là  82%. Theo Nguyễn  Đăng Tuấn(11) 34 BN 
UTTG dạng biệt hoá có DCP trên xạ hình được 
khảo sát CT, độ nhạy của CT là 76,5%.  
Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng 
không  khác  nhiều  so  với  các  tác  giả  trong  và 
ngoài nước với  45/57 BN  có DCP  trên CT.  Độ 
nhạy  của CT  là 84,2%. Mặc dù CT  có  độ nhạy 
cao  trong  phát  hiện  nốt  di  căn  phổi  từ UTTG 
dạng biệt hoá nhưng chúng tôi vẫn nghiên cứu 
tìm  ra cơ sở khi nào nên chụp CT hay CT nên 
luôn  luôn  được  chỉ  định  trong  thực  hành  lâm 
sàng. 
Biểu đồ 2. Đường cong ROC của Tg về dự báo kết 
quả CT(+) và CT(‐)  
Diện  tích  bên  dưới  đường  cong  (AUC)= 
0,94  (khoảng  tin  cậy  95%,  CI:  0,878‐1,000, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 531
p=0,001). Do AUC= 94% nên có thể dùng giá trị 
Tg để dự đoán về khả năng có hoặc không có 
di  căn  phổi  trên  CT. Giá  trị  ngưỡng  (cutoff) 
của Tg tại vị trí điểm cắt là 16,8 ng/ml. 
Bảng 2. Liên quan giữa nồng độ Thyroglobulin và 
kết quả CT  
Kết quả CT 
Nồng độ Thyroglobulin 
(ng/ml) p 
Trung bình Trung vị 
CT (+) (n=48) 1483,5 ± 5405,6 106,5 p=0,001
CT (-) (n=9) 6,64 ± 6,2 4,5 
Bảng  2  cho  thấy  nồng  độ  Tg  trong  huyết 
thanh  ở nhóm BN CT(+)  cao hơn  so với nhóm 
BN CT(‐) (kiểm định U, p=0,001) và đường cong 
ROC  (biểu  đồ  2)  cũng  cho  thấy  diện  tích  bên 
dưới đường cong 94% vì vậy Tg  là cứ điểm tốt 
nhất để đưa ra quyết định lâm sàng. Với giá trị 
Tg ≥16,8ng/ml khả năng dự báo dương cho kết 
quả CT lên đến 97,6%, điều này gợi ý rằng ở BN 
UTTG dạng biệt hoá  sau  cắt giáp và diệt giáp 
nếu có nồng độ Tg cao hơn 16,8ng/ml nên khảo 
sát CT để phát hiện di căn phổi vì xác suất CT(+) 
lên  đến 97,6%. Kết quả này  cũng phù hợp với 
nghiên cứu của Lee MC, Chung JK và cs(6), giá trị 
ngưỡng (cutoff) của Tg  là 16,9ng/ml trong chẩn 
đoán DCP  từ UTTG dạng biệt hoá. Theo Phan 
Sỹ An, nếu Tg > 20ng/ml giá trị dự báo dương là 
100% còn tổ chức ung thư(15).  
Giá trị chẩn đoán DCP của RxWBS và mối 
liên quan giữa nồng độ Tg huyết thanh và 
hình ảnh DCP trên RxWBS 
Mặc  dù  CT  có  ưu  điểm  hơn  so  với  XQ 
nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi vẫn còn 
15,8% trường hợp DCP mà CT không phát hiện 
được. Có nhiều lý do làm CT âm tính giả chẳng 
hạn  như DCP  từ UTTG  thường  gặp dạng  nốt 
nhỏ  trong mô kẻ vượt quá khả năng phân giải 
của máy  nên  không  thể  phát  hiện  được  trên 
hình  ảnh  cấu  trúc  (CT) mà  chỉ  phát  hiện  trên 
hình ảnh chức năng (xạ hình). Trong thực hành 
lâm  sàng,  RxWBS  được  xem  như  “tiêu  chuẩn 
vàng” cho chẩn  đoán DCP  từ UTTG dạng biệt 
hóa(21). Tuy nhiên sự  tồn  tại nhiều mô giáp sau 
phẫu  thuật  đã  che  dấu  hình  ảnh  DCP  trên 
RxWBS  và  khoảng  1/3  các  trường  hợp  DCP 
không hấp thu I‐131(28) không thể phát hiện được 
trên xạ hình. Do đó, CT là rất hữu ít để phát hiện 
DCP khi còn nhiều mô giáp và giúp chẩn đoán 
các trường hợp DCP không hấp thu I‐131 trên xạ 
hình.  
Trong  nhóm  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có 
43/57  trường hợp  (75,5%) có nồng độ Tg huyết 
thanh >10ng/ml, tập trung nhiều nhất ở khoảng 
từ 100‐500ng/ml,  đặc biệt 19,3%  số  trường hợp 
có  nồng  độ  Tg  huyết  thanh  tăng  rất  cao 
(>500ng/ml). Tuy nhiên, đáng  lưu ý  là có 2 BN 
(3,5%) có nồng độ Tg huyết  thanh  rất  thấp mà 
vẫn cho hình ảnh DCP trên xạ hình. 
Theo nghiên cứu của Trịnh Thị Minh Châu 
và  cs(27)  đã  cho  thấy  nồng  độ  Tg  huyết  thanh 
thường tăng cao ở nhóm BN biểu hiện di căn xa 
như phổi hoặc xương khi so với các nhóm chưa 
di căn hoặc chỉ mới di căn hạch một cách có ý 
nghĩa (p <0,05). 
Nồng  độ Tg  được gọi  là  cao  thay  đổi  tuỳ 
thuộc  phương  pháp  định  lượng  (RIA,  IRMA 
hay ELISA)  và  còn  tuỳ  thuộc  vào  tiêu  chuẩn 
các nghiên cứu khác nhau.Theo nhiều nghiên 
cứu nước ngoài và một  số  tác giả  trong nước 
nồng  độ Tg  được gọi  là  cao khi Tg  >10ng/ml 
trong  điều  kiện  BN  phải  ngừng  LT4  để  đạt 
được TSH > 30μUI/ml.  
Trong 57 BN nghiên cứu của chúng tôi đều 
có nồng độ TSH > 30 μUI/ml và đều có di căn xa 
(DCP)  thì có đến 75,5% bệnh nhân có nồng độ 
Tg  >10mg/ml. Một vài nghiên  cứu nhấn mạnh 
vai  trò  của Tg  trong UTTG dạng  biệt  hoá  sau 
phẫu thuật. Theo Pacini và cs(13) trên 662 BN tác 
giả nhận xét rằng ở BN sau điều trị lần đầu mà 
có Tg không thể phát hiện được thì có giá trị tiên 
lượng cao khả năng đáp ứng hoàn toàn và khỏi 
bệnh  lâu  dài. Dựa  vào  đó  tác  giả  khuyên,  xạ 
hình toàn thân chẩn đoán (DxWBX) có thể tránh 
ở những BN với mức Tg (khi ngưng T4) không 
thể phát hiện được. Những BN này nên theo dõi 
với khám lâm sàng, siêu âm cổ và định lượng Tg 
khi đang uống T4. 
Tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng sự bất 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 532
tương hợp giữa kết quả Tg và WBS  có  xảy  ra 
trong đó trường hợp Tg (+) và WBS (‐) là thường 
gặp hơn là Tg (‐) và WBS (+). Trong nghiên cứu 
của chúng tôi vẫn còn 24,5% BN có DCP trên xạ 
hình (WBS+) nhưng nồng độ Tg < 10ng/ml (Tg ‐
), đặc biệt có 2 BN (3,5%) nồng độ Tg < 2ng/ml 
vẫn cho hình ảnh hấp thu phóng xạ lan toả trên 
xạ  hình.  Nghiên  cứu  trên  46  BN  có  DCP  từ 
UTTG dạng biệt hoá của Nguyễn Thanh Hướng 
cũng  cho  thấy  có  21,7%  BN  có  nồng  độ  Tg  < 
10ng/ml  trước khi  điều  trị  I‐131. Theo Park và 
cs(14)  nghiên  cứu  trên  824  BN UTTG dạng  biệt 
hoá sau phẫu thuật, 52 BN (6,3%) RxWBS có di 
căn trong khi đó nồng độ Tg, TgAb đều âm tính, 
nồng độ TSH cao. Trong nhóm này có 86,5%  là 
di căn hạch cổ hoặc hạch trung thất, 13,5% là di 
căn xa phổi hoặc xương. Nồng độ Tg được định 
nghĩa là âm tính khi ≤ 2ng/ml. 
Có nhiều nguyên nhân làm cho nồng độ Tg 
âm tính giả như bất thường gen sản xuất Tg dẫn 
đến nồng độ Tg giảm nhưng tế bào giáp vẫn còn 
khả năng bắt xạ  trên xạ hình hoặc phân  tử Tg 
được sản xuất có cấu trúc bất thường nên không 
phát hiện được khi xét nghiệm hoặc các  tế bào 
đang  chết mất  khả  năng  tổng  hợp  Tg  nhưng 
hoạt động tập trung Iod vẫn còn(9),(24) trong đó 
phải kể đến sự xuất hiện của TgAb trong huyết 
thanh  của BN. Tần  suất  xuất hiện TgAb  trong 
nghiên cứu của chúng  tôi  là 26,3% không khác 
nhiều so với tần xuất xuất hiện kháng thể kháng 
Tg ở BN UTTG nói chung và một số nghiên cứu 
khác  như  Cooper  và  cs(3), Mazzaferri  và  cs(10). 
Kiểm  định U  cho  thấy  không  có  sự  khác  biệt 
nồng độ Tg trung bình ở nhóm bệnh nhân TgAb 
(+) (TgAb>100UI/ml) và TgAb (‐) với p=0,074. Do 
đó sự xuất hiện của TgAb không  làm  thay đổi 
nhiều đến nồng độ Tg trong nghiên cứu chúng 
tôi. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu mối tương quan giũa nồng 
độ Tg huyết thanh và hình ảnh DCP trên 57 BN 
UTTG dạng biệt hóa sau phẫu  thuật  trong  thời 
gian 17 tháng tại khoa Y học hạt nhân Bệnh viện 
Chợ Rẫy, chúng tôi có các nhận xét sau: 
‐ BN có DCP trên RxWBS nồng độ Tg huyết 
thanh >10ng/ml chiếm tỉ lệ 75,5%.  
‐ Nồng độ Tg huyết thanh tăng khi có DCP 
trên CT và càng  tăng cao hơn nữa khi có DCP 
trên XQ.  
‐ Nồng độ Tg huyết thanh có thể dùng  làm 
chất  chỉ  điểm  dự  báo  kết  quả  XQ  và CT:  với 
nồng  độ Tg huyết  thanh  >158ng/ml, giá  trị dự 
báo âm cho kết quả XQ là 97,4%. Nồng Tg huyết 
thanh >16,8 ng/ml, giá trị dự báo dương cho kết 
quả CT là 97,6%  
‐ Nồng  độ  Tg  huyết  thanh  thấp  (<2ng/ml) 
không cho phép loại trừ hoàn toàn khả năng di 
căn phổi trên xạ hình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bal CS at el (2004). Is chest X‐ray or high‐resolution computed 
tomography scan of the chest sufficient investigation to detect 
pulmonary  metastasis  in  pediatric  differentiated  thyroid 
cancer? Thyroid, 14(3): 221‐229.  
2. Baudin E, Do Cao C, Cailleux AF, Leboulleux S, Travagli  JP, 
and Schlumberger M (2003). Positive predictive value of serum 
thyroglobulin levels, measured during the first year of follow‐
up  after  thyroid  hormone  withdrawal,  in  thyroid  cancer 
patients. J Clin Endocrinol Metab, 88:1107–1111.  
3. Cooper DS, Kloos RT, Mazzaferri EL, Pacini F, Schlumberger 
JM,  Sherman  SI,  et  al  (2009).  Revised  American  Thyroid 
Association management guidelines for patients with thyroid 
nodules  and  differentiated  thyroid  cancer.  Thyroid, 
19(11):1167‐1214. 
4. Habra  MA,  Vassilopoulou‐Sellin  R  (2006).  Contribution  of 
routine chest X‐ray in the long‐term follow‐up of patients with 
differentiated thyroid carcinoma. Thyroid, 6:303‐306.  
5. Ilgan S, Pabuscu Y, Kaan Atac G, Arslan N, Ozturk E, Gunalp 
B,  Ali  Ozguven  M  (2004).  Iodine‐131  treatment  and  high 
resolution CT:  results  in patients with  lung metastases  from 
differentiated  thyroid  carcinoma.  Eur  J  Nucl  Med  Mol 
Imaging, 31: 825–830.  
6. Lee MC, Chung JK, Kang KW, Lee DS  (2009). Assessment of 
pulmonary uptake  in post‐therapy  I‐131 whole body  scan  in 
well  differentiated  thyroid  cancer  patients.  J Nucl Med,  50 
(Supplement 2):389‐397 
7. Lin  JD  (2008).  Thyroglobulin  and  human  thyroid  cancer. 
Clinica Chimica Acta, 388:15–21.  
8. Luster M, Clarke  SE, Dietlein M, Lassmann M,  et  al  (2008). 
Guidelines  for Radioiodine Therapy of differentiated  thyroid 
cancer. Copyright EANM 2008.  
9. Ma C, Kuang A, Xie J, Tiekun (2005). Possible explanations for 
patients with discordant findings of serum thyroglobulin and 
131I whole body scanning. J Nucl Med, 46:1473‐80. 
10. Mazzaferri EL et al  (2003). A consensus  report of  the  role of 
serum  Thyroglobulin  as  a monitoring method  for  low‐risk 
patients with papillary  thyroid  carcinoma.  J Clin Endocrinol 
Metab, 88(4): 1433–1441.  
11. Nguyễn Đăng Tuấn (2007). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, X 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 533
quang, xạ hình và hiệu quả điều trị bằng I‐131 di căn phổi do 
ung thư tuyến giáp thể biệt hoá đã cắt tuyến giáp. Luận văn 
Thạc sĩ Y học, Học viện Quân Y, Hà Nội. 
12. Nguyễn Thanh Hướng (2005). Đánh giá giá trị chẩn đoán và 
điều  trị di căn phổi của ung  thư  tuyến giáp  thể biệt hóa sau 
phẫu thuật bằng 131I. Luận văn Thạc sĩ Y học, Học Viện Quân 
Y, Hà Nội.  
13. Pacini F and et al (2002). Diagnostic 131I whole‐body scan may 
be avoided  in thyroid cancer patients who have undetectable 
stimulated  serum Tg  levels  after  initial  treatment.  Journal of 
Clinical Endocri‐nology & Metabolism, 87(4):499–1501.  
14. Park  EK, Chung  JK,  Lim  IH,  Lee DS,  Lee MC,  et  al  (2009). 
Recurrent/metastatic  thyroid  carcinomas  false  negative  for 
serum thyroglobulin but positive by posttherapy I‐131 whole 
body scans. Eur J Nucl Med Mol Imaging, 36:172‐179.  
15. Phan Sỹ An (2009). Ung thư tuyến giáp. In: Phan Sỹ An, Y học 
hạt nhân, 179‐184, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.  
16. Phan TTH, Jager PL, Sluiter WJ, Plukker JTM, Links TP (2008). 
The  follow‐up  of  patients with differentiated  thyroid  cancer 
and undetectable thyroglobulin (Tg) and Tg antibodies during 
ablation”, European Journal of Endocrinology, 158:77–83.  
17. Powell  ME,  Moskovic  EC,  Harmer  CL  (1994).  Surveillance 
after treatment for well differentiated thyroid cancer: Audit for 
chest radiography. Clin Oncol (R Coll Radiol), 6:151‐153 
18. Roelants V, Bouckaert A, Beckers C, et al (1997). The predictive 
value of serum thyroglobulin in the follow‐up of differentiated 
thyroid cancer. Eur J Nucl Med, 24:722‐727.  
19. Ronga G, Filesi M, Ventroni G, Vestri AR, Signore A  (1999). 
Value  of  the  first  serum  Thyroglobulin  level  after  total 
thyroidectomy  for  the  diagnosis  of  metastases  from 
differentiated  thyroid  carcinoma.  Eur  J Nucl Med,  26:1448‐
1452.  
20. Ronga G, Montesano  T,  et  al  (2004).  Lung metastases  from 
differentiated  thyroid  carcinoma: A 40 years experience. The 
quarterly Journal of Nuclear Medicine and Molicular Imaging, 
48 (1):12‐19.  
21. Rutherford GC, Franc B, O’Connor A (2008). Nuclear medicine 
in  the  assessment  of  differentiated  thyroid  cancer.  Clinical 
Radiology, 63:453‐463.  
22. Schumberger  JM  ,  Baudin  E  (1998).  Serum  thyroglobulin 
determination in the follow‐up of patients with differentiated 
thyroid  carcinoma.  European  Journal  of  Endocrinology, 
138:249‐252.  
23. Sherman SI (2003). Thyroid Carcinoma. Lancet, 361:501–511. 
24. Singh B, Bollmann R, Biersack HJ, Ezziddin S (2006). Unusual 
case of well differentiated papillary thyroid carcinoma lacking 
thyroglobulin expression while still concentrating radioiodine. 
The British Journal of Radiology, 79:e84–e87.  
25. Spencer C A (2007). Thyroglobulin (Tg) measurement used to 
monitor  patients  with  differentiated  thyroid  carcinomas 
(DTC). Ned Tijdschr Klin Chem Labgeneesk, 32:98‐103.  
26. Toubeau M, Touzery C, Arveux P, Chaplain G, Riedinger JM, 
et al (2004). Predictive value for disease progression of serum 
Thyroglobulin  levels measured  in  the  post‐operative  period 
and after I‐131 ablation therapy in patients with differentiated 
thyroid cancer. J Nucl Med, 45:988–994.  
27. Trịnh Thị Minh Châu và cs (2002). Thyroglobulin và tình trạng 
di căn trong bệnh lý ung thư tuyến giáp sau phẫu thuật. Y học 
Thành phố Hồ Chí Minh, 6(3):559‐563. 
28. Tuttle  MR,  Backer  DV,  Hurley  JR  (2008).  Radioiodine 
treatment  of  thyroid  disease.  In:  Sander  MP.  Diagnostic 
Nuclear Medicine,  4th  edition,  653‐670.  Lippincott Williams 
and Wilkins, Philadelphia. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tuong_quan_giua_nong_do_thyroglobulin_huyet_thanh.pdf