Nhiễm trùng huyết do burkholdeia pseudomallei (melioidosis) Báo cáo ca lâm sàng

Melioidosis là bệnh nhiễm trùng gây ra bởi trực khuẩn gram âm Burkhoderia pseudomallei (trước đây là

Pseudomonas pseudomallei). Bệnh thường gặp ở các nước Đông Nam Á và miền Bắc nước Úc, là một bệnh nhiệt đới ít được chú ý đến trong chẩn đoán và điều trị. Những năm đầu thế kỷ 21, với sự bùng nổ của các bệnh nhiễm do virus và vi trùng trên sức khỏe cộng đồng, melioidosis được quan tâm nhiều hơn vì tỉ lệ tử vong cao và việc điều trị khó khăn. Hơn nữa, Burkholderia pseudomallei còn là một tác nhân được quan tâm trong chế tạo các loại vũ khí khủng bố sinh học. Do đó, việc chẩn đoán sớm và dự đoán được loại vi khuẩn này gây bệnh trong những trường hợp nhiễm trùng huyết nặng giúp cho việc lựa chọn kháng sinh thích hợp có thể cải thiện được tỉ lệ tử vong. Chúng tôi báo cáo một trường hợp nặng được chẩn đoán là nhiễm trùng huyết do Burkholderia pseudomallei, viêm phổi nặng, suy hô hấp trên bệnh nhân đái tháo đường type I, nhiễm ceton acid, béo phì và được điều trị thành công

pdf 6 trang dienloan 5600
Bạn đang xem tài liệu "Nhiễm trùng huyết do burkholdeia pseudomallei (melioidosis) Báo cáo ca lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhiễm trùng huyết do burkholdeia pseudomallei (melioidosis) Báo cáo ca lâm sàng

Nhiễm trùng huyết do burkholdeia pseudomallei (melioidosis) Báo cáo ca lâm sàng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 147
NHIỄM TRÙNG HUYẾT DO BURKHOLDEIA PSEUDOMALLEI 
(MELIOIDOSIS) BÁO CÁO CA LÂM SÀNG 
Nguyễn Thị Thủy Ngân*, Đỗ Thị Ngọc Khánh *, Lê Khắc Quyến * 
TÓM TẮT 
Melioidosis là bệnh nhiễm trùng gây ra bởi trực khuẩn gram âm Burkhoderia pseudomallei (trước đây là 
Pseudomonas pseudomallei). Bệnh thường gặp ở các nước Đông Nam Á và miền Bắc nước Úc, là một bệnh nhiệt 
đới ít được chú ý đến trong chẩn đoán và điều trị. Những năm đầu thế kỷ 21, với sự bùng nổ của các bệnh nhiễm 
do virus và vi trùng trên sức khỏe cộng đồng, melioidosis được quan tâm nhiều hơn vì tỉ lệ tử vong cao và việc 
điều trị khó khăn. Hơn nữa, Burkholderia pseudomallei còn là một tác nhân được quan tâm trong chế tạo các loại 
vũ khí khủng bố sinh học. Do đó, việc chẩn đoán sớm và dự đoán được loại vi khuẩn này gây bệnh trong những 
trường hợp nhiễm trùng huyết nặng giúp cho việc lựa chọn kháng sinh thích hợp có thể cải thiện được tỉ lệ tử 
vong. Chúng tôi báo cáo một trường hợp nặng được chẩn đoán là nhiễm trùng huyết do Burkholderia 
pseudomallei, viêm phổi nặng, suy hô hấp trên bệnh nhân đái tháo đường type I, nhiễm ceton acid, béo phì và 
được điều trị thành công. 
Từ khóa: Melioidosis, Burkholderia pseudomallei (B.pseudomallei), nhiễm trùng huyết, viêm phổi nặng, đái 
tháo đường type 1, nhiễm ceton acid, béo phì. 
SUMMARY 
SEPTICAEMIA DUE TO BURKHOLDERIA PSEUDOMALLEI (MELIOIDOSIS) A CASE REPORT 
Nguyen Thi Thuy Ngan, Do Thi Ngoc Khanh, Le Khac Quyen 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 147 - 152 
Melioidosis is an infectious disease caused by the gram- negative bacterium Burkholderia pseudomallei 
(formerly called Pseudomonas pseudomallei). This disease occurs in Southeast Asia and northern Australia but is 
one of neglected tropical diseases in diagnosis and treatment. Until recent years of 21st century, together with the 
viral and bacterial infection outbreaks in public health, melioidosis is more considerable because of high mortality 
rate and difficult therapy. Moreover, Burkholderia pseudomallei is considerable as an agent of terrorism biological 
weapons. Therefore, the early diagnosis and bacterial prediction for severe cases will help to choose appropriate 
antibiotics and can reduce the mortality. We report a septicemia, severe pneumonia, acute respiratory failure case 
caused by Burkholderia pseudomallei on patient with diabetes type I, ketoacidosis and obesity that was treated 
successfully. 
Keywords: Melioidosis, Burkholderia pseudomallei, septicemia, pneumonia, diabetes type I, ketoacidosis and 
obesity. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm trùng gây ra bởi Burkholderia 
pseudomallei (Melioidosis) chưa được chú ý nhiều 
ở Việt Nam. Bệnh này còn có tên khác là bệnh 
Whitmore, do Whitmore tìm ra tại Myanma năm 
1911. Burkholderia pseudomallei (B.pseudomallei) 
còn gọi là trực khuẩn Whitmore, là loại trực 
trùng gram âm, hiếu khí, di động, sống nội bào. 
Vi trùng này sống trong đất, cáttại các cánh 
đồng trồng lúa, các vùng nước tù đọng trong 
khu vực Đông Nam Á và Bắc Úc. Ở miền Nam 
Việt Nam từ năm 1992-1998, Parry et al. đã phân 
lập được 15/71 chủng từ đất có độc lực về mặt 
* Khoa Bệnh Nhiệt Đới - BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS.BS Lê Khắc Quyến ĐT: 0903944434 Email: lekhacquyen@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 148
sinh học(5). Người mắc bệnh do tiếp xúc với 
nguồn đất và nước bị ô nhiễm qua các vết trầy 
xước ở ngoài da hoặc do hít phải bụi nhiễm vi 
khuẩn, xảy ra khá phổ biến trong mùa mưa. 
Theo thống kê của khoa Vi Sinh - bệnh viện Chợ 
Rẫy, số trường hợp bị nhiễm B.pseudomallei càng 
tăng dần: năm 2009 có 83 ca, 2010: 76 ca và 2011: 
85 ca. Bệnh có thể gặp ở các khoa lâm sàng 
nhưng thường gặp ở khoa cấp cứu, hồi sức tích 
cực, nội tiết, và bệnh nhiệt đới. Bệnh có thể tiến 
triển nhanh, nhiều biến chứng ở các cơ quan phủ 
tạng, trong khi chẩn đoán xác định thường chậm 
vì chờ kết quả phân lập vi trùng. Vì vậy, điều trị 
thường khó khăn và tỉ lệ tử vong rất cao nếu 
điều trị kháng sinh ban đầu và điều trị hồi sức 
không không thích hợp. Chúng tôi báo cáo một 
trường hợp điển hình nhiễm Burkholderia 
pseudomallei được điều trị thành công tại Khoa 
Bệnh Nhiệt Đới-Bệnh viện Chợ Rẫy. 
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 
Bệnh nhân nam, sinh 1994. Nghề nghiệp: học 
sinh. Địa chỉ: Biên Hoà, Đồng Nai. Nhập viện: 
09/12/2011. Số nhập viện: 114238. Lý do nhập 
viện: sốt và khó thở. 
Bệnh sử 
Cách nhập viện 2 tuần, bệnh nhân sốt cao, ho 
khạc đàm ít, kèm chóng mặt. Bệnh tự điều trị 
không giảm. 5 ngày trước nhập viện, bệnh nhân 
đến bệnh viện đa khoa Thống Nhất Đồng Nai 
trong tình trạng: sốt cao liên tục, ho khó thở ngày 
càng tăng, đau đầu, mệt. Xét nghiệm ghi nhận 
bạch cầu máu 19.7 G/L (Neu: 89,1%), CRP 119 
ng/L, đường huyết cao, ceton máu dương tính, 
phết họng có nấm, X-quang phổi ghi nhận nhiều 
nốt mờ không đồng nhất phổi phải. Bệnh nhân 
được chẩn đoán là nhiễm trùng huyết nặng, 
viêm phổi phải do vi trùng và nấm , đái tháo 
đường type I có nhiễm ceton acid, rối loạn 
chuyển hóa lipid máu, tăng huyết áp, hạ kali 
máu trên bệnh nhân béo phì. Điều trị trong 4 
ngày với ceftiaxone 2 g/ngày sau đó đổi 
imipenem (Tienam) 1g phối hợp levofloxacine 
750 mg, fluconazol 300mg, fenofibrat và insuline 
truyền tĩnh mạch 8 IU/giờ. Lâm sàng bệnh nhân 
không cải thiện: sốt cao liên tục, khó thở tăng 
dần nhịp thở 30 lần/phút nên bệnh nhân được 
chuyển bệnh viện Chợ Rẫy. 
Tiền căn 
Bản thân 
Không có tiền căn tiểu đường. Trước nhập 
viện có ghi nhận triệu chứng ăn nhiều, uống 
nhiều, tiểu nhiều. Thể trạng bệnh nhân béo 
phì (90kg). 
Gia đình 
Mẹ mắc bệnh đái tháo đường type II. 
Tình trạng bệnh nhân 
Tại khoa cấp cứu (09/12/2011) 
Bệnh nhân trong tình trạng tỉnh, đừ, không 
phù. Thể trạng béo phì (cân nặng: 90kg, cao: 165 
cm, BMI # 33,05). Mạch (M) 90 lần/phút; Huyết 
áp (HA) 100/ 60 mmHg; nhịp thở 30 lần/ phút; 
Nhiệt độ 38,2ºC. Da niêm hồng nhạt, không dấu 
xuất huyết, không sang thương da. Hạch ngoại 
vi không sờ chạm. Tim đều rõ, không âm thổi. 
Phổi ran ẩm, nổ 2 bên, bên phải nhiều hơn bện 
trái. Bụng mềm, mập mỡ, không điểm đau khu 
trú. Gan, lách không sờ chạm. Cổ mềm. Không 
dấu thần kinh định vị, không giới hạn vận động. 
Chẩn đoán sơ bộ: Theo dõi Nhiễm trùng huyết - 
Viêm phổi - Đái tháo đường type I. 
Xét nghiệm tại cấp cứu 
Công thức máu: Hồng cầu (HC): 4.55T/L; 
Bạch cầu (BC):15,1 G/L; Đa nhân: 77,1 %; Tiểu 
cầu (TC): 151 G/L; Đường huyết (ĐH): 193mg/dl; 
Ceton máu: 90mg/dl; Na+: 131 mEq/L; K+: 3,7 
mmol/L. Chức năng gan trong giới hạn bình 
thường. BUN 15 mg%, creatinin 1,26 mg%; 
Procalcitonin (PCT) > 10ng/ml. Khí máu động 
mạch: pH:7.33; pO2: 89 mmHg; pCO2: 16.1 
mmHg; HCO3: 8.4 mmol/l; BEecf:-17.4 mmol/l. 
X-Quang phổi: thâm nhiễm dạng nốt mờ 2 bên 
phổi, bên (P) nhiều hơn bên (T). Bệnh nhân được 
cấy máu lần 1(Hình 1). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 149
Hình 1: XQ phổi lần 1(09/12/2011): thâm nhiễm 
dạng nốt mờ 2 bên phổi, P>T 
Xử trí tại Cấp cứu 
Thở oxy qua canula. Đặt Catheter tĩnh mạch 
dưới đòn. Kháng sinh: Cilapenem 1g pha NaCl 
0.9% 100ml TTM XXX g/p, Insulin actrapid 
50IU/50ml NaCl 0,9% bơm điện 3 IU/giờ, truyền 
dịch. Sau đó được chuyển đến khoa nội tiết với 
chẩn đoán: Hôn mê nhiễm ceton acid - viêm 
phổi phải nghi do nấm. 
Tại khoa Nội tiết (từ 9/12/2011 đến 
11/12/2011) 
Bệnh nhân nhập vào khoa nội tiết trong tình 
trạng tỉnh, đừ, sốt cao liên tục, thở nhanh nông 
28-30l/p, mạch (M):100 lần/phút, huyết áp 
(HA):110/60mmHg. Có dấu mất nước và loét 
họng. Tim đều và phổi ran nổ 2 bên Đường 
huyết/2 giờ: 300 xuống 180 mg/dl. Ceton máu 
(10/12): 60mg/dl sau đó âm tính (13/12). TPTNT: 
đường: 500 mg%, đạm:100mg%, máu:50HC/µl. 
BUN: 14 mg%, Creatinin: 1,06mg%. Na: 125, K: 
3,6 mmol/l. Phết họng: có nấm men. Cấy nước 
tiểu: vi trùng không mọc, có nấm. Cấy đàm: vi 
trùng thường trú, có nấm. BK đàm âm tính. Xét 
nghiệm cấy máu lần 2 (10/12/2011). CRP: 519.1 
mg/L, PCT:291 ng/ml. KMĐM: pH:7.37, pO2:65 
mmHg, pCO2:21.7mmHg, HCO3:12.7mmol/l, 
BEecf:-12.6mmol/l. Xét nghiệm huyết thanh chẩn 
đoán viêm phổi không điển hình âm tính (M. 
pneumoniae, L. pneumoniae, C. pneumoniae). 
Xét nghiệm cấy máu lần 3, x quang phổi ngày 
11/12 và ngày 13/12/2011: thâm nhiễm dạng nốt 
mờ cả 2 phổi tăng thêm (Hình 2). 
Hình 2: XQ phổi lần 3 (13/12/2011): Thâm nhiễm 
dạng nốt mờ cả 2 phổi tăng thêm. 
Điều trị tại khoa nội tiết 
Thở oxy qua mask, dịch truyền, kháng 
sinh imipenem 2g/24giờ phối hợp vancomycin 
2g/ngày x 5 ngày. Hội chẩn khoa hô hấp 02 
lần, bổ sung kháng sinh ciprofloxacine 
0,6g/24giờ x 2 ngày, Sporal 0,2g/24 giờ x 4 
ngày, Insulin Actrapid 6 IU/giờ. Điều trị 
không đáp ứng. Bệnh diễn tiến nặng hơn, sốt 
cao liên tục và khó thở tăng. 
Kết quả 2 lần cấy máu (9/12 và 10/12): 
Burkholderia pseudomallei. Kháng sinh đồ: 
nhạy với ceftazidim, imipenem, meropenem, 
trimethoprim/ sulfamethoxazole, doxycycline, 
ceftriaxon, cefoperazon/ sulbactam, 
ciprofloxacin, piperacilline/ tazobactam; Kháng: 
colistin, ticarcillin/ clavulanic acid, cefepim, 
gentamycin, netilmycin và amikacin. 
Bệnh nhân được hội chẩn và chuyển đến 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 150
khoa Bệnh Nhiệt đới với chẩn đoán: nhiễm trùng 
huyết do Burkholderia Pseudomallei, viêm phổi 
nặng, suy hô hấp/ đái tháo đường type I- nhiễm 
Ceton acid trên bệnh nhân béo phì. 
Tại khoa Bệnh Nhiệt Đới (13/12/2011-
11/01/2012) 
Tiếp tục điều trị với imipenem TTM nhưng 
tăng liều lên 2g x 3/ngày, phối hợp ceftazidim 
TM 2g x 4/ ngày (bơm tiêm điện 9ml/h - sau đó 
tiêm tĩnh mạch). Ngưng kháng sinh vancomycin 
và ciprofloxacin. Tiếp tục kiểm soát đường bằng 
insulin actrapid (TTM) sau đó chuyển sang điều 
trị insulin mixtard (TDD) 15UI (5:00AM), 12UI 
(17:00 PM). 
- Sau 3 ngày, sốt giảm dần, bớt khó thở, lâm 
sàng cải thiện tốt dần. Sau 28 ngày, bệnh nhân 
khoẻ, hết sốt, tự thở êm, sinh hiệu ổn. XQ phổi: 
Thâm nhiễm hai phế trường giảm dần và sau 
cùng còn tổn thương dạng xơ hoá 2 bên (Hình 3, 
hình 4). Cấy máu lần 3(12/12): B. pseudomallei; 
Cấy máu lần 4 (19/12/2011) có kết quả ngày 26/12 
âm tính. Các xét nghiệm khác đều cải thiện: 
BC:15.39G/L xuống 5,1 G/L tỉ lệ N:86% xuống 
71%. PCT: 9.38 xuống 0,2 ng/ml. Đường huyết 
dao động 100 đến 130mg%. HbA1C:10,9%. 
Hình 3: XQ phổi lần 5(19/12/2011): thâm nhiễm mờ 
hai phế trường giảm. 
Hình 4: XQ phổi lần 7(29/12/2011): thâm nhiễm ít bên 
đáy P, tổn thương dạng xơ hoá . 
Bệnh nhân được xuất viện ngày 12/01/2012, 
cấp toa và tái khám liên tục theo dõi tại khoa 
Bệnh Nhiệt đới trong 6 tháng với kháng sinh 
duy trì doxycyclin 100mg 2v x 2/ ngày, bactrim 
960mg 3viên x2 /ngày và kiểm soát đường huyết 
với insulin mixtard. 
BÀN LUẬN 
Melioidosis thường xảy ra trên những bệnh 
nhân có các yếu tố nguy cơ như cơ địa suy giảm 
miễn dịch, tiểu đường, suy thận mạn, sỏi thận, 
nghiện rượu, xơ gan, thalassemie, điều trị với các 
thuốc ức chế miễn dịch như corticosteroids dài 
ngày.(Currie et al.(2), Esters et al(4). Đái tháo đường 
là yếu tố nguy cơ thường gặp nhất trong bệnh 
melioidosis, chiếm khoảng 45% trường hợp. 
Phần lớn các bệnh nhân nhiễm Burkholderia 
pseudomallei có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ kể 
trên. Bệnh cũng có thể xảy ra ở trẻ em và người 
lớn khỏe mạnh, mặc dù biến chứng nặng và tử 
vong ít xảy ra hơn. Trong trường hợp này, bệnh 
nhân có bệnh đái tháo đường type I mới mắc, có 
nhiễm ceton acid và đáp ứng tốt với điều trị 
bằng Insulin. Tiền sử gia đình có mẹ mắc bệnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 151
đái tháo đường type II nên hội đủ yếu tố nguy cơ 
mắc bệnh. Bệnh nhân sống trong vùng dịch tễ 
của bệnh Melioidosis ở miền Nam Việt Nam, tuy 
bệnh nhân là học sinh không làm những công 
việc tiếp xúc với đất cát như những người làm 
ruộng, rẫy, nhưng khi khai thác bệnh sử có ghi 
nhận bản thân thường xuyên đá banh nên vi 
trùng có cơ hội xâm nhập qua các vết thương da. 
Bệnh thường ghi nhận vào mùa mưa (Currie et 
al.(2), Esters et al.(4) và Parry et al.(6), trường hợp 
bệnh này của chúng tôi xảy ra vào tháng 11 cũng 
phù hợp với thời điểm vẫn còn mưa nhiều cuối 
năm 2011. 
Hình ảnh lâm sàng của melioidosis đa 
dạng: viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết là bệnh 
cảnh phổ biến nhất. Tỷ lệ tử vong của bệnh rất 
cao: 25-76%, tỷ lệ tái phát cũng cao vì vi trùng 
sống trong nội bào(2,4). Nhiễm trùng B. 
pseudomallei có thể không có triệu chứng, tuy 
nhiên bệnh có thể chuyển nặng nhanh chóng 
thành các thể bệnh nặng trên lâm sàng khi có 
các yếu tố thuận lợi như phẫu thuật, suy giảm 
miễn dịch, bệnh ác tính. 
Nhiễm trùng nặng trên lâm sàng xảy ra trên 
bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ. Thời gian ủ 
bệnh 1 - 21 ngày. Bệnh cấp (triệu chứng kéo dài 
dưới 2 tháng). Bệnh mãn (triệu chứng kéo dài 
trên 2 tháng). Nhiễm trùng tiềm tàng và tái hoạt 
hóa đến 29 năm đã được ghi nhân trong y văn 
(Vietnamese Time Bomb)(2;4). Đặc điểm lâm sàng 
của bệnh Melioidosis thường gặp ở dạng nhiễm 
trùng huyết (tối cấp, choáng), viêm phổi (cấp, tối 
cấp, mãn, giống lao), loét da hoặc áp xe lách, gan, 
thận, tiền liệt tuyến, viêm tuyến mang tai. X-
quang phổi trong bệnh Melioidosis thường ở 
dạng thâm nhiễm nốt 47%, thâm nhiễm phế 
nang 23% rất dễ nhầm lẫn viêm phổi do tụ cầu 
hoặc lao. Trường hợp bệnh này của chúng tôi X-
quang phổi có hình ảnh như viêm phổi đốm rất 
dễ nhầm với tổn thương phổi do vi khuẩn 
Staphylococcus aureus. 
Hiện nay, chẩn đoán xác định melioidosis 
chủ yếu dựa vào phân lập được B. pseudomallei; 
các xét nghiệm khác: kháng nguyên và kháng 
thể thể đặc hiệu với các phương pháp ELISA, 
PCR vẫn chưa được thực hiện tại bệnh viện 
Chợ Rẫy. Tuy nhiên, nhuộm gram các bệnh 
phẩm như mủ, dịch khớp, đàm,... có thể giúp gợi 
ý sớm về trực khuẩn gram âm lưỡng cực trong 
khi chờ xét nghiệm cấy để định danh và phân 
biệt với Burkholderia cepacia. Vi trùng này có tính 
kháng nội tại với nhiều kháng sinh: 
Cephalosporin thế hệ 1, 2, Penicilline, 
Macrolides, Aminoglycosis, colistin,và nhạy 
với Cephalosporin thế hệ 3, Carbapenem, 
Chloramphenicol, Tetracyclin, 
Trimethoprim/sulfamethoxazol (TMP-
SMX)(1,2,3,4,7). 
Về điều trị trong giai đoạn tấn công: 
ceftazidime liều cao tĩnh mạch hoặc imipenem 
hoặc meropenem ít nhất 10-14 ngày phối hợp 
thêm với TMP-SMX, giai đoạn thải trừ: TMP-
SMX phối hợp Doxycyclin 20 tuần (có tỉ lệ tái 
phát 3%). Ciprofloxacin phối hợp 
Azithromycin trong 12 tuần (tái phát 22%), 
trong khi đó Amoxycyclin/ clavulanic acid 
được sử dụng cho trẻ em và phụ nữ có thai(1;4). 
Trường hợp này, bệnh nhân được chẩn đoán 
nhiễm trùng huyết nặng nên được sử dụng 
kháng sinh Imipenem từ bệnh viện tỉnh, vào 
khoa Cấp cứu và Nội tiết được phối hợp thêm 
với vancomycine và ciprofloxacine. Khi có kết 
quả cấy máu, đã phân lập được vi trùng là 
B.pseudomallei, việc ngưng kháng sinh 
vancomycin được thực hiện. Điều trị kháng 
sinh được tiếp tục với imipenem, tuy nhiên vì 
bệnh nhân có cân nặng đến 90kg, liều 
imipenem sử dụng thông thường sử dụng ban 
đầu tại khoa cấp cứu và nội tiết không đủ để 
kiểm soát bệnh, cấy máu ba lần sau điều trị 
đều cho kết quả dương tính với B. 
pseudomallei. Từ khi tăng liều kháng sinh 
Imipenem và phối hợp ceftazidim tại khoa 
bệnh nhiệt đới bệnh mới khống chế được hoàn 
toàn. Kết quả cấy máu lần 4 âm tính chứng 
minh được hiệu quả của việc điều trị với 
phương pháp phối hợp kháng sinh, đảm bảo 
nồng độ thuốc trên nồng độ ức chế tối thiểu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 152
(MIC) đối với vi trùng cũng như đạt thể tích 
phân phối thuốc đến các cơ quan đích. Liệu 
pháp xuống thang và duy trì trong giai đoạn 
thải trừ đảm bảo điều trị tiệt căn đối với vi 
trùng này. Kinh nghiệm của chúng tôi trong 
sử sụng ceftazidim trong giai đoạn tấn công 
bằng việc bolus kháng sinh liều đầu và duy trì 
bơm tiêm điện liên tục đảm bảo duy trì nồng 
độ thuốc ổn định đóng góp vào sự thành công 
của việc điều trị. 
Một vấn đề hết sức quan trọng góp phần 
thành công trong trường hợp này, ngoài việc 
chọn lựa kháng sinh trị liệu hợp lý, đó là cần 
phải thực hiện tốt kiểm soát đường huyết, việc 
sử dụng insulin actrapid giúp đưa đường 
huyết trở về giới hạn cho phép và đưa cetone 
máu trở lại âm tính. Nhiễm trùng không thể 
khống chế được nếu đường huyết không được 
kiểm soát tốt. 
KẾT LUẬN 
Nhiễm trùng huyết gây ra do B. pseudomallei 
là một bệnh nhiễm trùng nặng. Bệnh nhân 
thường nhập viện trong tình trạng tổn thương 
hầu hết các cơ quan (nhiễm trùng huyết, choáng 
nhiễm trùng, viêm phổi, áp xe gan, lách, viêm 
tuyến mang tai, viêm khớp). Việc chẩn đoán 
thường bị nhầm lẫn và điều trị chậm. Để chẩn 
đoán cần lưu ý về yếu tố dịch tể như mùa mưa, 
nghề nghiệp, địa phương, và các yếu tố nguy 
cơ của bệnh như tiểu đường, suy thận mạn, sỏi 
thận, xơ gan, nghiện rượu hoặc cơ địa suy giảm 
miễn dịch Việc chẩn đoán sớm kịp thời và 
chọn lựa kháng sinh thích hợp giúp cải thiện 
được tỉ lệ sống còn và tiên lượng bệnh. Nhuộm 
gram các bệnh phẩm rất hữu ích trong chẩn 
đoán, giúp chọn lựa được kháng sinh điều trị 
ban đầu thích hợp, trong khi chờ phân lập được 
vi trùng. Để phòng bệnh tái phát việc tiếp tục 
ðiều trị kháng sinh củng cố kéo dài sau giai ðoạn 
tấn công trong thời gian ít nhất 4-6 tháng được 
khuyến cáo (3). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cheng A.C et al (2004). Outcomes of patients with melioidosis 
treated with meropenem. Antimicrobial agents and 
chemotherapy, 1763-65. 
2. Currie B et al (2011). Epidermiology, pathogenesis, clinical 
manifestations and diagnosis of melioidosis. Uptodate 2011. 
3. Dance DAB (2001). Melioidosis.. Essential of Tropical Infectious 
Diseases. Richard L. Guerrant; David H Walker; Peter F. Weller 
2001. Chapter 31. P203-207. 
4. Esters DM. et al., (2010). Present and future therapeutic 
strategies for melioidosis and glanders. Expert. Rev. Anti. 
Infect. Ther., 8(3): 325-38. 
5. Parry C.M. et al (1999). Melioidosis in southern Vietnam: 
Clinical surveillance and enviromental sampling. Clinical 
infectious diseases, 29: 1323-26. 
6. Tsai WC et al (1998). Septicemic melioidosis in southern 
Taiwan: a case report. J Microbiol Immunol Infect, 31:137-40. 
7. Wirongrong C et al (2005). Two Randomized Controlled Trials 
of Ceftazidime Alone Versus Ceftazidime in Combination with 
Trimethoprim- Sulfamethoxazol Fot The Treatment of Severe 
Melioidosis. CID, 41, 1105-13. 

File đính kèm:

  • pdfnhiem_trung_huyet_do_burkholdeia_pseudomallei_melioidosis_ba.pdf