Tác nhân vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết và sự đề kháng kháng sinh tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy

Nhiễm khuẩn huyết là một bệnh lý nhiễm

khuẩn thường gặp trong lâm sàng, đặc biệt ở các

khoa Hồi Sức cấp cứu. nhiễm khuẩn huyết cũng

là một trong những hội chứng lâm sàng nguy

hiểm, có nguyên nhân bắt nguồn từ sự xâm

nhập vào máu của các vi sinh vật (vi khuẩn,

virus, ký sinh trùng, vi nấm, ), đặc biệt khi vi

khuẩn phóng thích các loại độc tố sẽ dẫn đến

tình trạng sốc nhiễm khuẩn mà biểu hiện lâm

sàng rõ nhất là tụt huyết áp, suy đa tạng, rối loạn

hô hấp, rối loạn tuần hoàn và ý thức nặng. Nếu

không được điều trị tích cực và kịp thời, bệnh

nhân có thể tử vong hoặc để lại các di chứng

nặng nề về sức khoẻ và tinh thần. Để chẩn đoán

nhiễm khuẩn huyết cần phân lập được vi sinh

vật từ máu. Tuy nhiên, tuỳ theo từng khu vực

địa lý, từng bệnh viện, từng giai đoạn mà tỷ lệ và

cơ cấu các loài vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết

có thể khác nhau. Nhiều nghiên cứu gần đây của

các tác giả trong và ngoài nước đã cho thấy tỷ lệ

vi khuẩn gây bệnh đề kháng kháng sinh ngày

càng cao và có tính chất đa kháng, gây ra không

ít khó khăn cho việc điều trị các bệnh nhiễm

khuẩn, trong đó có nhiễm khuẩn huyết. Vì vậy,

việc xác định được tác nhân vi khuẩn gây nhiễm

khuẩn huyết và mức độ nhạy cảm với kháng

sinh của chúng sẽ giúp cho việc điều trị kịp thời

có hiệu quả nhằm cứu sống người bệnh, giảm

được chi phí điều trị, đồng thời hạn chế sự gia

tăng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn. Việc

thường xuyên giám sát về vi khuẩn và mức độ

nhạy cảm của chúng với kháng sinh còn giúp

cho các bác sỹ lâm sàng có thể điều trị theo kinh

nghiệm trước khi có kết quả kháng sinh đồ.

Mục tiêu của nghiên cứu: Xác định tác nhân

vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp và

mức độ đề kháng kháng sinh của các tác nhân

này tại Khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy

từ tháng 01-2012 đến tháng 12-2013

pdf 7 trang dienloan 8440
Bạn đang xem tài liệu "Tác nhân vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết và sự đề kháng kháng sinh tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác nhân vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết và sự đề kháng kháng sinh tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy

Tác nhân vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết và sự đề kháng kháng sinh tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 414
TÁC NHÂN VI KHUẨN GÂY NHIỄM KHUẨN HUYẾT VÀ SỰ ĐỀ KHÁNG 
KHÁNG SINH TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Trần Thị Thanh Nga*, Nguyễn Thanh Bảo**, Cao Minh Nga** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Nhiễm khuẩn huyết là một trong những bệnh lý nguy hiểm, gây nhiễm khuẩn lan tỏa, ảnh hưởng 
lên các cơ quan, hiện nay vẫn là một trong những căn nguyên chủ yếu gây bệnh nặng thêm và tử vong, đặc biệt ở 
các đơn vị hồi sức cấp cứu. Việc đánh giá về phương diện vi khuẩn học và mức độ đề kháng sinh đang dùng trong 
điều trị hiện nay góp phần hướng dẫn điều trị thích hợp cho nhiễm khuẩn huyết trong chương trình quản lý 
kháng sinh tại bệnh viện. 
Mục tiêu: Khảo sát sự phân bố của các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp, đặc điểm lâm sàng liên 
quan và sự đề kháng kháng sinh của chúng. 
Phương pháp: Hồi cứu, mô tả. Thu thập dữ liệu bệnh án có các kết quả cấy máu dương tính và kháng sinh 
đồ từ tháng 01/2012 đến tháng 12/2013 tại Khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: Có 229 trường hợp nhiễm khuẩn huyết. Các tác nhân vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp 
là: E. coli (20,6%), S. aureus (18,5%), Klebsiella (8,9%), A. baumannii (8%), S. maltophilia (6,8%), 
Staphylococcus coagulase âm (5,9%), B. pseudomallei (4,4%) và P. aeruginosa (4%). Có sự khác biệt về mức độ 
kháng kháng sinh giữa các nhóm vi khuẩn lên men, các trực khuẩn gram âm không lên men đặc biệt 
Acinetobacter baumannii có khuynh hướng đề kháng cao với tất cả các kháng sinh thường dùng và cả 
Carbapenem, chỉ nhạy cảm tốt với Colistin. Klebsiella đề kháng với carbapenem gần 30%. 
 Kết luận: Cần lưu ý đến tình trạng nhiễm khuẩn của bệnh nhân, nhanh chóng xác định tác nhân gây nhiễm 
khuẩn huyết , dữ liệu đề kháng giúp sử dụng kháng sinh hợp lý, điều trị kịp thời tăng hiệu quả điều trị và hạn chế 
sự kháng thuốc của vi khuẩn, giảm chi phí và góp phần cứu sống bệnh nhân. 
Từ khóa: Nhiễm khuẩn huyết . 
ABSTRACT 
PATHOGENOUS BACTERIA IN SEPTICEMIA AND ANTIBIOTIC RESISTANCE IN EMERGENCY 
RESUSCITATION CHO RAY HOSPITAL 
Tran Thi Thanh Nga, Nguyen Thanh Bao, Cao Minh Nga 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 414 - 420 
Background: Septicemia is one of the dangerous diseases cause infection spread the impact on the organs and 
the current remains one of the major causes more severe illness and mortality, particularly in intensive care 
units.The evaluation in terms of bacteriological and the level of antibiotic resistance are used in current treatment 
guidelines contribute to appropriate treatment for sepsis in the antimicrobial stewardship program at the hospital. 
Objective: To Survey distribution of bacterial in septicemia common, clinically relevant characteristics and 
its antibiotic resistance. To investigate distribution of pathogenous bacteria in septicemia and its antibiotic 
resistance. 
Method: Retrospective, descriptive. Collecting data with the results of medical positive blood cultures and 
* Khoa Vi sinh, Bệnh viện Chợ Rẫy ** Đại học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: BSCKII. Trần Thị Thanh Nga ĐT: 0908 185 491 Email: ngatrancrh@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 415
antimicrobial susceptibility from 01/2012 to 12/2013 in Emergency Resuscitation Cho Ray Hospital. 
Results: 229 records collected through septicemia. The common bacterial pathogens in septicemia: E. coli 
(20.6%), S. aureus (18.5%), Klebsiella (8.9%), A. baumannii (8%), S. maltophilia (6.8%), coagulase - negative 
staphylococcus (5.9%), B. pseudomallei (4.4%) and P. aeruginosa (4%). There are differences in the level of 
antibiotic resistance among bacteria fermenting gram-negative bacilli and not fermented, particularly A. 
baumannii high resistance to all commonly used antibiotics, even carbapenem, only good susceptible to Colistin. 
Klebsiella resistant Carbapenem nearly 30%. 
Conclusion: It should be noted to the infection status of the patient, to quickly determine the cause of sepsis, 
the data point of resistance helps appropriate antibiotic use, treatment time increased therapeutic efficacy and limit 
drug resistance of bacteria, reduce costs and help save the lives of patients. 
Key word: Septicemia, sepsis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm khuẩn huyết là một bệnh lý nhiễm 
khuẩn thường gặp trong lâm sàng, đặc biệt ở các 
khoa Hồi Sức cấp cứu. nhiễm khuẩn huyết cũng 
là một trong những hội chứng lâm sàng nguy 
hiểm, có nguyên nhân bắt nguồn từ sự xâm 
nhập vào máu của các vi sinh vật (vi khuẩn, 
virus, ký sinh trùng, vi nấm, ), đặc biệt khi vi 
khuẩn phóng thích các loại độc tố sẽ dẫn đến 
tình trạng sốc nhiễm khuẩn mà biểu hiện lâm 
sàng rõ nhất là tụt huyết áp, suy đa tạng, rối loạn 
hô hấp, rối loạn tuần hoàn và ý thức nặng. Nếu 
không được điều trị tích cực và kịp thời, bệnh 
nhân có thể tử vong hoặc để lại các di chứng 
nặng nề về sức khoẻ và tinh thần. Để chẩn đoán 
nhiễm khuẩn huyết cần phân lập được vi sinh 
vật từ máu. Tuy nhiên, tuỳ theo từng khu vực 
địa lý, từng bệnh viện, từng giai đoạn mà tỷ lệ và 
cơ cấu các loài vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết 
có thể khác nhau. Nhiều nghiên cứu gần đây của 
các tác giả trong và ngoài nước đã cho thấy tỷ lệ 
vi khuẩn gây bệnh đề kháng kháng sinh ngày 
càng cao và có tính chất đa kháng, gây ra không 
ít khó khăn cho việc điều trị các bệnh nhiễm 
khuẩn, trong đó có nhiễm khuẩn huyết. Vì vậy, 
việc xác định được tác nhân vi khuẩn gây nhiễm 
khuẩn huyết và mức độ nhạy cảm với kháng 
sinh của chúng sẽ giúp cho việc điều trị kịp thời 
có hiệu quả nhằm cứu sống người bệnh, giảm 
được chi phí điều trị, đồng thời hạn chế sự gia 
tăng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn. Việc 
thường xuyên giám sát về vi khuẩn và mức độ 
nhạy cảm của chúng với kháng sinh còn giúp 
cho các bác sỹ lâm sàng có thể điều trị theo kinh 
nghiệm trước khi có kết quả kháng sinh đồ. 
Mục tiêu của nghiên cứu: Xác định tác nhân 
vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp và 
mức độ đề kháng kháng sinh của các tác nhân 
này tại Khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy 
từ tháng 01-2012 đến tháng 12-2013. 
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Hồ sơ bệnh án bệnh nhân điều trị tại khoa 
Hồi sức Cấp cứu của Bệnh viện Chợ Rẫy có kết 
quả cấy máu dương tính từ khoa Vi sinh lâm 
sàng. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Các vi khuẩn gây bệnh phân lập được theo 
thời gian và địa điểm nêu trên, có đủ kết quả 
kháng sinh đồ theo tiêu chuẩn cho từng loại vi 
khuẩn từ tháng 01-2012 đến tháng 12-2013. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các trường hợp cấy máu có vi khuẩn nhưng 
không có đủ kết quả kháng sinh đồ. 
Phương pháp nghiên cứu 
Hồi cứu, mô tả. 
- Thu thập dữ liệu bệnh án có các kết quả cấy 
máu dương tính và kháng sinh đồ từ tháng 
01/2012 đến tháng 12/2013. 
- Xử lý kết quả theo các phương pháp thống 
kê y học. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 416
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Sự phân bố các loại vi khuẩn thường gặp. 
Trong 229 hồ sơ bệnh án hồi cứu tại khoa Săn sóc 
đặc biệt, có 334 lần cấy máu dương tính, với 24 
loại vi khẩn phân lập được, trong đó có 8 loại vi 
khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp nhất. 
Biểu đồ 1: Tỷ lệ 8 loại vi khuẩn thường gặp 
Sự đề kháng kháng sinh của các vi khuẩn 
thường gặp 
Đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Escherichia 
coli 
Biểu đồ 2: Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Escherichia coli (n=69) 
Đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Klebsiella 
Biểu đồ 3: Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Klebsiella (n=47) 
Đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Acinetobacter baumannii 
Biểu đồ 4: Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn A. 
baumannii (n=27) 
Đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Pseudomonas 
Biểu đồ 5: Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Pseudomonas (n=14) 
Đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Stenotrophomonas maltophilia 
Biểu đồ 6: Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn S. 
maltophilia (n=23). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 417
Đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Burkholderia pseudomollei 
Biểu đồ 7: Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn B. 
pseudomollei (n=15) 
Đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Staphylococcus aureus 
Biểu đồ 8: Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn S. 
aureus (n=62) 
Đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Staphylococcus coagulase âm 
Biểu đồ 9: Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 
Staphylococcus coagulase âm (n=20) 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu 
Tuổi. Bệnh nhân lớn tuổi nhất – 93 tuổi, nhỏ 
tuổi nhất – 15 tuổi, trung bình là 51,79 tuổi; 
tương tự như kết quả của các nghiên cứu khác ở 
trong nước(4,6,10,11). Nhóm tuổi 40-60 chiếm tỉ lệ 
cao nhất (39,7%), tiếp theo là nhóm trên 60 
(32,2%) và nhóm tuổi dưới 40 chiếm tỉ lệ thấp 
nhất (27,1%). 
Giới. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ 
nhiễm khuẩn huyết giữa nam và nữ tương 
đương nhau (49,9% và 51,1%) Kết quả này cũng 
tương tự như các nghiên cứu về nhiễm khuẩn 
huyết khác tại Việt Nam và trên thế giới(4,6,10,11). 
Tác nhân vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết 
thường gặp 
Kết quả nghiên cứu (biểu đồ 1) cho thấy, trực 
khuẩn Gram âm chiếm tỷ lệ 62,3% và cầu khuẩn 
Gram dương chiếm 27,7%. Kết quả này cũng 
tương tự như các nghiên cứu khác trên thế giới 
và ở Việt Nam(7,2,4,6,10,11). 
Trong nhóm vi khuẩn không lên men, 
chiếm tỷ lệ cao nhất là A. baumannii (8%), cao 
hơn một số nghiên cứu ở các bệnh viện khác 
trong nước(4,6,10,11). Điều này cũng có thể do sự 
khác biệt về đặc điểm của từng bệnh viện, tùy 
từng đối tượng và thời gian nghiên cứu, vi 
khuẩn này thường tồn tại trong môi trường 
bệnh viện, và là tác nhân gây nhiễm khuẩn 
bệnh viện quan trọng hiện nay. Tỷ lệ tử vong 
của nhiễm khuẩn huyết do A. baumannii trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 88,8%. Tiếp theo 
là vi khuẩn S. maltophilia (6,8%), B. pseudomallei 
(4,4%), Pseudomonas spp (4,3%). Đây cũng là 
những tác nhân thường phân lập được trong 
các nghiên cứu về nhiễm khuẩn huyết tại một 
số quốc gia khác trên thế giới(1,7,2,3). 
Tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết do Pseudomonas là 
4,3%. Kết quả này tương tự như các nghiên cứu 
khác(6,10). Nhiễm khuẩn huyết do P. aeruginosa 
trước đây khá hiếm. Tuy nhiên, ngày nay do 
tăng số lượng bệnh nhân nằm viện nhạy cảm với 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 418
các loại nhiễm khuẩn cơ hội nên tỷ lệ nhiễm 
khuẩn huyết do P. aeruginosa khoảng 5 – 20%, tỷ 
lệ tử vong liên quan đến nhiễm khuẩn huyết P. 
aeruginosa từ 17 - 78%, và thường được cho là 
khoảng 34 - 48%, mặc dù rất khó để phân biệt 
nguyên nhân tử vong do nhiễm khuẩn huyết 
hay do các bệnh mãn tính(1,7,11). Tỷ lệ tử vong của 
nhiễm khuẩn huyết do P. aeruginosa trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 50%. 
Tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết do S. maltophilia 
trong nghiên cứu của chúng tôi là 6,8%. 
Khoảng 20 năm gần đây đã có sự gia tăng 
đáng kể tần suất nhiễm khuẩn huyết do S. 
maltophilia(11) và tỷ lệ tử vong của S. maltophilia 
trong nghiên cứu là 13%. 
Như vậy, trực khuẩn Gram âm phổ biến 
nhất trong nhiễm khuẩn huyết là các trực khuẩn 
đường ruột - Enterobacteriaceae(1,7,4,6,10,11). Tuy 
nhiên, những năm gần đây một số nghiên cứu 
cho thấy có sự tăng tỷ lệ của một số vi khuẩn ít 
gặp trước đây như A. baumannii, S. maltophilia, 
B. pseudomallei. 
Trong nhóm cầu khuẩn Gram dương, có 92 
trường hợp (27,5%) nhiễm khuẩn huyết do tụ 
cầu trong đó có 62 trường hợp (18,5%) là vi 
khuẩn S. aureus. Ngoài ra, cầu khuẩn ruột 
(Enterococci) chiếm 13 trường hợp (3,9%) và liên 
cầu chiếm 21 trường hợp (6,3%). Tỷ lệ nhiễm 
khuẩn huyết do nhóm vi khuẩn Staphylococcus 
coagulase âm trong nghiên cứu là 9%. Nhiễm 
khuẩn bệnh viện do Staphylococcus coagulase âm 
chiếm 5 - 10% trong thập niên 1980, đã tăng lên 
25 - 30% trong thập niên 1990 trong tổng số 
nhiễm khuẩn bệnh viện. Hiện nay, nhiễm khuẩn 
bệnh viện do Staphylococcus coagulase âm đóng 
vai trò dẫn đầu trong nhiễm khuẩn bệnh viện ở 
nước Mỹ(2). Trừ một số ngoại lệ, nhiễm 
Staphylococcus coagulase âm thường là cơ hội và 
phần lớn gây nhiễm khuẩn bệnh viện. Hầu hết 
nhiễm khuẩn thực sự xảy ra sau can thiệp y tế 
vào dưới da, là hậu quả của việc sử dụng các 
dụng cụ vào đường mạch máu, những bất 
thường về đường tiết niệu. Như vậy, chiếm tỷ lệ 
cao nhất trong nhóm vi khuẩn Gram dương là 
S. aureus, các vi khuẩn Gram dương khác gặp với 
một tỷ lệ thấp hơn(1,3). 
Có thể nói tác nhân vi khuẩn gây nhiễm 
khuẩn huyết thường gặp nhất trong nghiên cứu 
này là E. coli, Klebsiella spp, A. baumannii, 
S. maltophilia, B. pseudomallei, Pseudomonas, và 
S. aureus, Staphylococcus coagulase âm. 
Sự đề kháng kháng sinh của các vi khuẩn 
thường gây nhiễm khuẩn huyết 
Đề kháng kháng sinh của E. coli và Klebsiella 
Kết quả kháng sinh đồ trên biểu đồ 2 và 3 
cho thấy, E. coli kháng cao với nhiều loại kháng 
sinh, kháng trên 70% với các Cephalosporin III 
(cefpodoxime ceftriaxone), Trimethoprim / 
Sulfamethoxazol và kháng 50 - 70% với 
Fluroquinolon, Ticarcilin, Gentamycin. Ngày nay 
tỷ lệ vi khuẩn đường ruột kháng với các kháng 
sinh nhóm Cephalosporin ngày càng tăng do 
một số chủng sinh men ESBL kháng lại với các β-
lactamase phổ rộng. 
Klebsiella spp có tỷ lệ đề kháng trên 60% với 
các Cephalosporin III (Cefpodoxime, 
Ceftriaxone), Ticarcilin, đề kháng 50 - 60% với 
Ciprofloxacin, Trime/Sulfamethoxazol, 
Gentamycin và đề kháng 30 - 50% với 
Levofloxacin, Cefepime, 
Sulbactam/Cefoperazone, Ceftazidime, 
Ertapenem, Piperacillin/Tazobactam. Đặc biệt 
nhạy cảm trên 70% với Amikacin, Netilmicin và 
Imipenem, Meropenem. Nghiên cứu của chúng 
tôi cho thấy, tỷ lệ đề kháng của Klebsiella spp cao 
hơn các bệnh viện khác đặc biệt là nhóm 
Carbapenem. 
Giải pháp kháng sinh dành cho điều trị 
nhiễm khuẩn E. coli hay Klebsiella ESBL (+) là 
Carbapenem, kể cả Ertapenem. Trong nghiên 
cứu này chúng tôi ghi nhận tỷ lệ E. coli kháng các 
kháng sinh Carbapenem còn rất thấp (< 2%), do 
vậy mà có thể nói Carbapenem vẫn còn là kháng 
sinh có hiệu quả dành cho E. coli và Klebsiella tiết 
ESBL. Trong khi đó Klebsiella trong nghiên cứu 
này có tỷ lệ kháng Carbapenem cao (> 20%). Tuy 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 419
nhiên E. coli, K. pneumoniae có khả năng tiết được 
các enzyme carbapenamase và nguồc gốc trên 
plasmid hay trên transposon, đó là blaKPC và 
NDM1 hiện đang phổ biến tại Nam Á (Ấn Độ và 
Pakistan), Châu Âu và Châu Mỹ. Năm 2011 một 
nghiên cứu của chúng tôi tại BV. Chợ Rẫy cho 
thấy, phát hiện được 19 chủng NDM-1 (11,73%, 
19/162), bao gồm 10 chủng K. pneumoniae 
(52,63%), 4 chủng A. baumannii (21,05%), 3 chủng 
E. coli (15,79%)(2). Vì vậy với đề kháng 
carbapenem của Klebsiella trong nghiên cứu này, 
chúng tôi đề nghị sẽ tiếp tục khảo sát ở một 
nghiên cứu khác. 
Đề kháng kháng sinh của Acinetobacter 
baumannii và Pseudomonas 
Kết quả nghiên cứu thể hiện trên biểu đồ 4 
cho thấy, Acinetobacter baumannii kháng trên 70% 
với hầu hết các kháng sinh, chỉ còn nhạy với 
Doxycylline 75%, Colistin 100%, tỷ lệ này phù 
hợp với nhiều bệnh viện(9). Với tình hình đề 
kháng như vậy, việc điều trị A. baumannii ngày 
càng khó khăn và dẫn đến tỷ lệ tử vong rất cao. 
Vì vậy, việc chọn lựa điều trị phối hợp kháng 
sinh hiện nay cho A. baumannii đa kháng là rất 
cần thiết và việc kiểm soát môi trường, thực 
hành tốt công tác kiểm soát nhiễm khuẩn là hết 
sức cần thiết và cấp bách. 
Tương tự như Acinetobacter, vi khuẩn 
Pseudomonas (biểu đồ 5) thường được ghi nhận là 
vi khuẩn đa kháng(1,3,4,6,11). Tỷ lệ kháng Colistin 
trong nghiên cứu này đã bắt đầu gia tăng vì vậy 
cần phải thận trọng trong việc sử dụng Colistin, 
đặc biệt không nên sử dụng Colistin là kháng 
sinh đơn lẻ để điều trị nhiễm khuẩn. 
Đề kháng kháng sinh của S. maltophilia và 
B. pseudomallei 
Vi khuẩn S. maltophilia hiện nay được xem là 
một trong các trực khuẩn Gram âm gây nhiễm 
khuẩn bệnh viện kháng Carbapenem 
(Imipenem, Meropenem), là đề kháng tự nhiên, 
việc sử dụng kháng sinh trong lâm sàng tùy 
thuộc vào kết quả kháng sinh đồ. Kết quả nghiên 
cứu này ghi nhận một tỷ lệ cao S. maltophilia còn 
nhạy 100% với Doxycycline, Ciprofloxacin, 
81,8% với Trimethoprim/Sulfamethoxazol. Tuy 
nhiên, vấn đề kiểm soát môi trường hiện nay cần 
phải báo động để hạn chế phát sinh những 
chủng vi khuẩn mới và tăng đề kháng. 
Mặc dù vi khuẩn B. pseudomallei còn nhạy với 
nhiều kháng sinh nhưng việc lựa chọn kháng 
sinh điều trị là phải dựa vào kháng sinh đồ vì 
đây là vi khuẩn có phổ đề kháng khó lường 
trước được, việc điều trị phải tuân thủ theo phác 
đồ gồm 2 giai đoạn: tấn công và duy trì tiệt 
khuẩn. Chính vì vậy, việc tổng kết dữ liệu đề 
kháng kháng sinh của vi khuẩn B. pseudomallei là 
rất cần thiết cho các bác sĩ lâm sàng. 
Đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Gram 
dương 
Trong nhóm cầu khuẩn Gram dương, tác 
nhân gây bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất là S. aureus. 
Chúng tôi ghi nhận 98,4% vi khuẩn này còn 
nhạy cảm Vancomycin với MIC của Vancomycin 
là < 2µg/ml. Ghi nhận MIC của Vancomycin là 
rất quan trọng vì giúp các bác sĩ lâm sàng có thể 
tiên đoán hiệu quả điều trị của Vancomycin. 
Theo khuyến cáo của các hội nghị quốc tế, MIC ≥ 
2µg/ml có thể thất bại trên điều trị lâm sàng 
khoảng 60%, mặc dù kết quả trên đĩa kháng sinh 
vẫn còn nhạy(1,7,3,9). 
Staphylococcus coagulase âm là một nhóm vi 
khuẩn, mà vai trò quan trọng của nó trong y học 
nổi trội lên trong ba thập kỷ qua. Chúng có vị trí 
nổi bật trong nhiễm khuẩn bệnh viện, thường 
gặp khi cấy máu. Hiện nay, nhiễm khuẩn bệnh 
viện do Staphylococcus coagulase âm đóng vai trò 
dẫn đầu trong nhiễm khuẩn bệnh viện(1,7,3). Tuy 
nhiên tại Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu 
thống kê về tỷ lệ nhiễm khuẩn do Staphylococcus 
coagulase âm. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 420
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu này, chúng tôi rút ra những 
kết luận sau: 
Các tác nhân vi khuẩn thường gặp gây 
nhiễm khuẩn huyết 
E. coli chiếm tỉ lệ cao nhất (20,6%), tiếp 
theo là S. aureus (18,5%), Klebsiella spp. (8,9%), 
A. baumannii (8%), S. maltophilia (6,8%), 
Staphylococcus coagulase âm (5,9%) và 
P. aeruginosa (4%). 
Mức độ kháng kháng sinh của các vi khuẩn 
phân lập được 
Vi khuẩn E. coli và Klebsiella spp. có mức độ 
kháng cao nhất (hơn 70% và 60%) với các kháng 
sinh Cephalosporin thế hệ thứ III, kháng thấp 
hơn với một số kháng sinh khác. Còn nhạy cảm 
cao (hơn 90% và 70%) với Amikacin, Netilmicin, 
Imipenem và Meropenem. 
Vi khuẩn A. baumannii kháng trên 70% với 
hầu hết các loại kháng sinh. Nhạy cảm với 
Doxycylline 75%, Colistin 100%, 
Vi khuẩn P. aeruginosa kháng trên 40% với 
hầu hết các loại kháng sinh. Còn nhạy cảm rất tốt 
(trên 80%) với Piperacillin/tazobactam. 
Vi khuẩn S. maltophilia đề kháng tự nhiên với 
Carbapenem (100%). Kháng trên 70% với nhiều 
kháng sinh. Nhạy 100% với Doxycylline, 
Ciprofloxacin. 
Vi khuẩn B. pseudomallei đề kháng tự nhiên 
với các kháng sinh Amynoglycoside (100%). 
Còn nhạy cảm với nhiều kháng sinh thông 
thường khác. 
Các cầu khuẩn gram dương kháng với nhiều 
kháng sinh. Vi khuẩn S. aureus nhạy cảm trên 
95% với Vancomycin, Teicoplanin, Fosfomycin. 
Vi khuẩn Staphylococcus coagulase âm nhạy cảm 
trên 90% với Doxycylline, Teicoplanin, 
Fosfomycin và nhạy 100% với Vancomycin. 
* Đề xuất: Cần xác định được tác nhân vi 
khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết và sử dụng 
kháng sinh hợp lý để tăng hiệu quả điều trị và 
hạn chế sự kháng thuốc của vi khuẩn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alberti C, Brun- Buisson C, Kim JH, et al. (2002). 
“Epidemiology of sepsis and infection in ICU patients from an 
international multicenter cohort study”. Intensive Care Med, 
28(2), pp. 108-121. 
2. Bone RC (1993). “Gram negative sepsis: a dilema of modern 
medicine”. Clinical microbiology reviews, pp. 57 - 58. 
3. Bone RC, Balk RA, Cerra FB, et al (1992). “Definitions for 
sepsis and organ failure and guidelines for the use of 
innovative therapies in sepsis.TheACCP/SCCM Consensus 
Conference Committee. American College of Chest 
Physicians/Society of Critical Care Medicine”. Chest, 101(6): 
1644 – 1655. 
4. Cao Minh Nga (2009). “Các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết 
và sự đề kháng kháng sinh”. Tạp chí Y học TP. HCM, phụ bản 
của tập 13, số 1, 2009, tr.250-261. 
5. Đào Tuyết Trinh, Nguyễn Vũ Trung (2009). “Nghiên cứu căn 
nguyên vi khuẩn, nấm gây nhiễm khuẩn huyết và tính nhạy cảm với 
kháng sinh của các chủng phân lập tại viện các bệnh truyền nhiễm 
và nhiệt đới quốc gia từ 1/ 2007 - 12/ 2007”. Tạp chí y học thực 
hành số 4, 31 - 33. 
6. Đoàn Mai Phương và cộng sự (2010). “Đặc điểm các tác nhân 
gây nhiễm khuẩn máu tại bệnh viện Bạch Mai năm 2008”. Tạp chí y 
học lâm sàng số 48, tr. 32 - 38. 
7. Garg A, Anupurba S, Garg J (2007). “Bacteriological profile and 
antimicrobial resistance of blood culture isolates from a university 
hospital”. Journal, Indian academy of clinical medicine, Vol. 8, 
no. 2: 139 – 143. 
8. Nguyễn Thanh Bảo, Cao Minh Nga, Trần T. Thanh Nga, Vũ 
T. Kim Cương, Nguyễn Sử Minh Tuyết, Huỳnh Minh Tuấn, 
Vũ Bảo Châu (2012). “Chọn lựa kháng sinh ban đầu trong 
điều trị nhiễm khuẩn bệnh viện tại một số bệnh viện ở TP. 
HCM”. Tạp chí Y học TP. HCM, tập 16, phụ bản số 1, tr. 206 – 
214. 
9. Phạm Hùng Vân (2009). “Nghiên cứu đa trung tâm khảo sát 
tình hình đề kháng các kháng sinh của các trực khuẩn Gram - 
âm dễ mọc gây nhiễm khuẩn bệnh viện phân lập từ 1/2007 
đến 5/2008”. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh. Tập 13, phụ 
bản số 2, tr 138 - 148. 
10. Phạm T. Ngọc Thảo (2010). “Đặc điểm bệnh nhân nhiễm 
khuẩn huyết điều trị tại khoa ICU Bệnh viện Chợ Rẫy” Y Học 
TP. Hồ Chí Minh Số 14, tháng 2 (2010): tr 348 – 352. 
11. Trần T. Thanh Nga (2011). “Tình hình nhiễm khuẩn huyết và 
đề kháng kháng sinh tại Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2010” Y Học 
Thực Hành số 781, tr.62. 
12. Trần Xuân Chương, Nguyễn Thị Phương Thảo (2013 ). “Đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị nhiễm khuẩn 
huyết tại bệnh viện Trung Ương Huế 2009-2012”. Trường Đại 
Học Y Dược Huế, Bệnh Viện Trung Ương Huế. Hội nghị khoa 
học truyền nhiễm toàn quốc 2013. 
Ngày nhận bài báo: 27/10/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014 
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015 

File đính kèm:

  • pdftac_nhan_vi_khuan_gay_nhiem_khuan_huyet_va_su_de_khang_khang.pdf