Khoa học Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang qua nghiên cứu trường hợp cấp Huyện

TÓM TẮT

Mục tiêu của nghiên cứu này là xem xét các vị trí, vai trò, năng lực lãnh đạo

quản lý có ảnh hưởng đến sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ

thống chính trị cấp huyện của tỉnh An Giang. Bài viết dưới đây sử dụng phương

pháp phân tích thống kê nhằm tính toán và so sánh mức độ tác động của từng

nhóm yếu tố văn hóa - môi trường đối với sự tham gia của phụ nữ cấp huyện

trong hệ thống chính trị của tỉnh An Giang. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự

tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ có vai trò tích cực đối với sự phát triển

kinh tế - xã hội ở địa phương; Khoảng cách giới trong việc giữ các vị trí quyền

lực quan trọng tại địa bàn khảo sát vẫn còn hiện hữu; Có sự khác biệt về đánh

giá năng lực của phụ nữ và nam giới khi tham gia lãnh đạo, quản lý; quy định

tuổi về hưu sớm hơn nam giới 5 năm là những khó khăn của cán bộ nữ so với

nam giới khi tham gia lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện hiện nay.

pdf 11 trang Bích Ngọc 03/01/2024 2520
Bạn đang xem tài liệu "Khoa học Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang qua nghiên cứu trường hợp cấp Huyện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khoa học Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang qua nghiên cứu trường hợp cấp Huyện

Khoa học Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang qua nghiên cứu trường hợp cấp Huyện
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 101 – 111 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 
101 
PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ 
Ở TỈNH AN GIANG QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CẤP HUYỆN 
Trần Thị Kim Liên 
ThS. Trường Đại học An Giang 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 21/12/15 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
25/02/16 
Ngày chấp nhận đăng: 03/16 
Title: 
Women’s participation in 
leadership, management in 
political system through the 
research at district level in An 
Giang Province 
Từ khóa: 
Sự tham gia quản lý, lãnh đạo, 
phụ nữ, hệ thống chính trị, cấp 
huyện, bình đẳng giới 
Keywords: 
Participation management, 
leadership, women, political 
system, district, gender equality 
ABSTRACT 
This study aims to consider the positions, the role, management and leadership 
capacity that affected the leadership and management of women participation 
in the district political system in An giang province. The following writing used 
statistical analysis method to calculate and compare the impact of each group 
cultural- environment factors for women participation in the district political 
system in An giang province.The study ‘s result showed that the leadership and 
management of women participation has an active role for the local society – 
economic development; Gender gap in the important power positions at the 
surveyed area still exists; There are differences in evaluating between women 
and men capacity in leadership and management; The law provides that women 
retire five years earlier than men. It’s difficult for women to participate in 
leadership and management role at the district now. 
TÓM TẮT 
Mục tiêu của nghiên cứu này là xem xét các vị trí, vai trò, năng lực lãnh đạo 
quản lý có ảnh hưởng đến sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ 
thống chính trị cấp huyện của tỉnh An Giang. Bài viết dưới đây sử dụng phương 
pháp phân tích thống kê nhằm tính toán và so sánh mức độ tác động của từng 
nhóm yếu tố văn hóa - môi trường đối với sự tham gia của phụ nữ cấp huyện 
trong hệ thống chính trị của tỉnh An Giang. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự 
tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ có vai trò tích cực đối với sự phát triển 
kinh tế - xã hội ở địa phương; Khoảng cách giới trong việc giữ các vị trí quyền 
lực quan trọng tại địa bàn khảo sát vẫn còn hiện hữu; Có sự khác biệt về đánh 
giá năng lực của phụ nữ và nam giới khi tham gia lãnh đạo, quản lý; quy định 
tuổi về hưu sớm hơn nam giới 5 năm là những khó khăn của cán bộ nữ so với 
nam giới khi tham gia lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện hiện nay. 
1. GIỚI THIỆU 
Ở An Giang, trong những năm qua, cấp ủy và 
chính quyền các cấp cũng đã nỗ lực rất lớn trong 
việc thu hẹp khoảng cách giới trên tất cả lĩnh vực 
trong đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực chính 
trị. Song, thực tế cho thấy, phụ nữ tham gia lãnh 
đạo, quản lý còn khá hạn chế. Theo số liệu của 
Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh An Giang, tỷ lệ 
nữ tham gia cấp ủy Đảng của cấp huyện nhiệm kỳ 
2010-2015 thấp hơn nhiệm kỳ 2005-2010 ở tất cả 
các chức danh, đặc biệt chức danh Ủy viên Ban 
Chấp hành nhiệm kỳ 2010-2015 đạt tỷ lệ 10,18% 
thấp hơn nhiệm kỳ 2005-2010 với tỷ lệ 17,26%. 
Tỷ lệ cán bộ nữ được bầu vào Hội đồng nhân dân 
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 101 – 111 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 
102 
cấp tỉnh cũng chỉ đạt 11,26% thấp hơn so với 
nhiệm kỳ trước (14,8%) Việc tỷ lệ cán bộ nữ 
nắm các chức danh chủ chốt trong hệ thống chính 
trị có sự giảm đi mà nguyên nhân chính vẫn là do 
công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán 
bộ nữ trong thời gian qua vẫn còn nhiều nơi chưa 
làm tốt; còn nhiều cơ quan, đơn vị bị hụt hẫng, 
thiếu nguồn cán bộ để kế thừa, thay thế. 
Nghiên cứu ở Singapore của tác giả Tuminez 
(2012) cho rằng, cơ quan lập pháp nào có tỷ lệ 
phụ nữ đông hơn thì các chính sách và luật pháp 
về bảo vệ con người và môi trường sẽ được thông 
qua nhiều hơn so với những cơ quan lập pháp có 
ít đại diện là phụ nữ. Điều này là một trong những 
bằng chứng để chứng minh luận điểm phụ nữ 
tham gia vào các vị trí ra quyết định có vai trò 
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. 
Phụ nữ tham gia quản lý lãnh đạo hiện nay đang 
thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên 
cứu và các nhà hoạch định chính sách. Theo số 
liệu thống kê và kết quả nghiên cứu của một số 
công trình nghiên cứu của Tỉnh ủy An Giang 
(2014); Lê Thị Bích Tuyền (2013); Lê Thị Mỹ 
Hiền (2011); Nguyễn Đức Hạt (2006); Nguyễn 
Thu Hà (2008), phụ nữ tham gia trong lãnh đạo và 
quản lý hạn chế cả về số lượng cũng như vị trí 
đảm nhiệm trong hầu hết các cấp của hệ thống 
chính trị. Bởi vậy, việc lý giải nguyên nhân dẫn 
đến tình trạng trên để tìm ra các giải pháp phù hợp 
nhằm tãng cường bình đẳng giới trong đời sống 
chính trị của đất nước là vô cùng quan trọng, góp 
phần quan trọng giúp Việt Nam thực hiện tốt Mục 
tiêu thiên niên kỷ thứ ba – mục tiêu Nâng cao 
bình đẳng giới và vị thế, năng lực của phụ nữ. 
Ngoài ra, các nghiên cứu về giới và bình đẳng 
giới trong lĩnh vực chính trị ở An Giang chưa thật 
sự được quan tâm một cách thỏa đáng và cũng 
chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề phụ nữ 
tham gia lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện được triển 
khai. Nghiên cứu trường hợp trên sẽ có những cơ 
sở ban đầu cho việc hoạch định chính sách khả thi 
trong công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán 
bộ nữ của tỉnh An Giang hiện nay. 
Bài viết này tập trung xem xét, tìm hiểu các vị trí, 
vai trò, năng lực lãnh đạo quản lý của phụ nữ 
trong hệ thống chính trị ở cấp huyện dựa trên số 
liệu khảo sát 300 cán bộ do Trung tâm Nghiên 
cứu Khoa học Xã hội và Nhân văn - Trường Đại 
học An Giang thực hiện tại 2 huyện An Phú và 
Châu Thành của tỉnh An Giang vào tháng 8/2014. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mẫu điều tra theo bảng hỏi của nghiên cứu là mẫu 
xác suất. Mẫu nghiên cứu với 250 trường hợp 
được chọn vẫn đảm bảo là mẫu xác suất đủ lớn để 
các kết quả nghiên cứu từ mẫu này có thể suy 
rộng cho tổng thể nghiên cứu. Tuy nhiên để có 
cách nhìn khách quan hơn trong vấn đề phụ nữ 
lãnh đạo, quản lý từ cách nhìn nhận của nam giới, 
nghiên cứu tiến hành chọn 50 cán bộ lãnh đạo, 
quản lý là nam giới thuộc 2 huyện để phỏng vấn 
bảng hỏi. Khách thể nghiên cứu chủ yếu là cán bộ 
nữ và cán bộ nam là nhóm đối tượng tham chiếu 
khi đánh giá các chỉ báo trong nghiên cứu. Các 
cuộc phỏng vấn sâu sẽ được thực hiện trên cơ sở 
phỏng vấn bán cấu trúc. 
Các dữ liệu định lượng thu được từ cuộc khảo sát 
Xã hội học của nghiên cứu sẽ được xử lý bằng 
phần mềm xử lý dữ liệu định lượng SPSS, phiên 
bản 16.0. Việc phân tích so sánh sẽ được áp dụng 
nhằm làm rõ sự khác biệt/tương đồng về các khía 
cạnh khác nhau giữa các nhóm đối tượng nam và 
nữ trong mẫu nghiên cứu. Phương pháp phân tích 
định lượng cơ bản sẽ bao gồm việc mô tả thống kê 
về tần suất và phân bố tỷ lệ, các bảng chéo, và các 
phép thử về mối tương quan giữa các biến số. 
Phép thử Pearson Chi-Square significance sẽ được 
áp dụng ở những chỗ phù hợp. Ngoài ra, nghiên 
cứu cũng sẽ áp dụng phân tích thống kê đa biến 
nhằm tính toán và so sánh mức độ tác động của 
từng nhóm yếu tố văn hóa - môi trường đối với sự 
tham gia của phụ nữ cấp huyện trong hệ thống 
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 101 – 111 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 
103 
chính trị của tỉnh An Giang. Bên cạnh, nghiên cứu 
thực hiện phương pháp trò chuyện không chính 
thức trong nghiên cứu phụ nữ để khai thác đầy đủ 
các dữ kiện thu được một cách chân thực nhằm 
phát hiện tính chính xác của sự thật được lượng 
hóa trên cơ sở lý thuyết xác suất. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO 
LUẬN 
3.1 Một số khái niệm liên quan đến lãnh đạo, 
quản lý và giới 
Bình đẳng giới là khái niệm nhằm phản ánh một 
sự chia sẻ bình đẳng về quyền lợi giữa nam và nữ 
giới, trong sự tiếp cận bình đẳng của họ về giáo 
dục, sức khoẻ, quản lý và lãnh đạo, bình đẳng về 
tiền lương, về số đại biểu quốc hội và về những 
cái khác (Luật Bình đẳng giới, 2006). Bình đẳng 
giới không mang ý nghĩa đơn giản là sự cân bằng 
về số lượng giữa phụ nữ và nam giới, hoặc trẻ em 
trai và trẻ em gái trong mọi hoạt động của xã hội. 
Bình đẳng giới ở đây được hiểu là những đặc 
điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới 
cùng được thừa nhận và coi trọng như nhau. Phụ 
nữ và nam giới cùng có cơ hội ngang nhau để 
thực hiện các quyền cũng như cơ hội đóng góp và 
thụ hưởng vào quá trình phát triển của đất nước. 
Điều này cũng không có nghĩa là phụ nữ và nam 
giới là hoàn toàn như nhau hay giống hệt nhau, 
song những điểm tương đồng và khác biệt của họ 
được xã hội thừa nhận và được coi trọng ngang 
nhau. 
Lãnh đạo và quản lý là hai khái niệm không đồng 
nhất nhưng có ảnh hưởng tương tác qua lại lẫn 
nhau. Lãnh đạo là người đề ra chủ trương, đường 
lối, định hướng phương pháp hoạt động cho một 
tổ chức, một đơn vị. Quản lý là điều khiển, tổ 
chức thực hiện công việc. Theo đó, lãnh đạo 
thường giải quyết những việc có tính tổng thể hơn 
là cụ thể, còn quản lý thường giải quyết những 
việc có tính cụ thể hơn là tổng thể. Warren Bennis 
(giáo sư, tiến sĩ, ông làm cố vấn về kinh tế cho 4 
đời Tổng thống Mỹ: Kennedy, Johnson, Carter và 
Reagan) nói rằng có sự khác biệt giữa lãnh đạo và 
quản lý: lãnh đạo có nghĩa là chọn đúng việc cần 
làm, còn quản lý thì mang nghĩa là làm công việc 
cho tốt. 
Quản lý là một dạng tương tác đặc biệt của con 
người với môi trường xung quanh nhằm đạt được 
mục tiêu trên cơ sở sử dụng các tài nguyên (con 
người, tri thức, tiền, vật chất, không gian, thời 
gian...) từ góc độ thực hiện một chương trình của 
một tổ chức, đồng thời duy trì chế độ thực hiện 
một chương trình và một mục đích của hoạt động 
đã được ý thức hoá của một tập đoàn người, của 
một tổ chức xã hội hoặc của một cá nhân nào đó 
với tư cách là một chủ thể quản lý. Quản lý chính 
là sự tác động liên tục có tổ chức, có ý thức hướng 
mục đích của chủ thể vào đối tượng nhằm đạt 
được hiệu quả tối ưu so với yêu cầu đặt ra. 
Để thực hiện bình đẳng giới trong xã hội, trong 
các chính sách, luật pháp, chế độ... của quốc gia 
phải được xây dựng trên quan điểm giới, phản ánh 
được nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích của cả hai 
giới. Do vậy, sự có mặt của nữ giới trong lĩnh vực 
lãnh đạo, quản lý sẽ góp phần đưa quan điểm giới 
nhiều hơn vào quá trình xây dựng chính sách, luật 
pháp của quốc gia. 
3.2 Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Mẫu thu được qua khảo sát 300 đối tượng là cán bộ 
đang công tác trong hệ thống chính trị cấp huyện An 
Phú và Châu Thành thuộc tỉnh An Giang. Trong đó, 
huyện An Phú chiếm 50,7% và huyện Châu Thành 
chiếm 49,3% với một số đặc điểm chính như sau: 
Về giới tính, có 243 đối tượng cán bộ là nữ giới, 
chiếm 81,0% và có 57 đối tượng cán bộ là nam, 
chiếm 19,0%. Như vậy, số lượng cán bộ nữ chiếm 
2/3 trong tổng số cán bộ được khảo sát. Bởi vì, 
mục tiêu khảo sát chủ yếu là cán bộ nữ và cán bộ 
nam là nhóm đối tượng tham chiếu khi đánh giá 
các chỉ báo trong nghiên cứu. 
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 101 – 111 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 
104 
Về tuổi, trong 210 đối tượng được khảo sát, tuổi 
thấp nhất là 24 tuổi và cao nhất là 58 tuổi, độ tuổi 
trung bình là 36,3 tuổi. Trong đó, cán bộ được khảo 
sát tập trung vào nhóm tuổi từ 30 - 40 tuổi (chiếm 
44,5%) và hai nhóm tuổi còn lại dưới 30 tuổi và từ 
40 tuổi trở lên không có chênh lệch nhiều. Điều này 
cho thấy, tuổi trung bình của đội ngũ cán bộ đang 
công tác trong hệ thống chính trị cấp huyện ở An 
Giang tương đối phù hợp với công tác quy hoạch và 
bổ nhiệm vị trí lãnh đạo, quản lý. 
Về thâm niên công tác, số năm công tác trung 
bình của cán bộ ở hai huyện được khảo sát là 12,9 
năm, thâm niên thấp nhất là 1 năm và cao nhất là 
30 năm. Trong đó, nhóm cán bộ có thâm niên 
công tác từ 5 - 10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất và 
thấp nhất là nhóm cán bộ có thâm niên dưới 5 
năm. 
Về chất lượng đội ngũ cán bộ, một trong những 
tiêu chí để đánh giá chất lượng cán bộ và khả 
năng thăng tiến của cán bộ là trình độ học vấn và 
trình độ lý luận chính trị. Có tới 98% cán bộ được 
khảo sát có trình độ từ cao đẳng trở lên. Trong đó, 
cán bộ có trình độ đại học trở lên chiếm 82,7% và 
cán bộ có trình độ sau đại học chiếm 0,7%. Kết 
quả này phản ánh rằng, cán bộ cấp huyện tại các 
cơ quan thuộc hai huyện được khảo sát có trình độ 
chuyên môn khá cao. Đây là một trong những 
điều kiện thuận lợi để giúp cán bộ hoàn thành tốt 
nhiệm vụ được phân công và có cơ hội được bổ 
nhiệm nhiều hơn. Tuy nhiên, trình độ lý luận 
chính trị của đội ngũ cán bộ ở hai huyện khảo sát 
còn khá thấp, chỉ có 9,7% cán bộ được khảo sát 
có trình độ lý luận chính trị cao cấp và còn lại là 
từ trung cấp trở xuống. 
Về khối cơ quan công tác, tỷ lệ cán bộ tham gia 
công tác ở khối chính quyền chiếm cao nhất và 
thấp nhất là cán bộ công tác khối Đảng. Có 21,5% 
cán bộ đang tham gia vị trí lãnh đạo, quản lý từ 
cấp phó trưởng phòng trở lên và có 78,5% là cán 
bộ đang ở vị trí chuyên viên. 
3.3 Vị trí của đội ngũ cán bộ nữ tham gia lãnh 
đạo, quản lý cấp huyện 
Trong những năm gầy đây, công tác phát triển cán 
bộ nữ đã được các cấp ủy đảng ở An Giang đặc 
biệt quan tâm. Chính vì thế, phụ nữ tham gia lãnh 
đạo, quản lý các cấp ở An Giang càng ngày nhiều 
hơn. Mặc dù vậy, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia vào vị 
trí lãnh đạo, quản lý vẫn còn ít hơn so với nam giới. 
Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ đã đánh giá rằng “tỷ 
lệ nữ tham gia công tác trong các cơ quan Nhà 
nước, tổ chức chính trị, chính trị xã hội trên phạm 
vi toàn tỉnh còn hạn chế, chưa tương xứng với lực 
lượng nữ trí thức trong độ tuổi” (Ban Vì sự tiến bộ 
của phụ nữ, 2013). 
Kết quả khảo sát ở Bảng 1 cho thấy, tỷ lệ cán bộ 
nữ có vị trí lãnh đạo, quản lý ở các khối cơ quan 
công tác đều ít hơn so với nam giới. Trong nhóm 
cán bộ nữ có vị trí lãnh đạo, quản lý, tỷ lệ nữ ở 
khối Đảng có vị trí lãnh đạo, quản lý chiếm cao 
nhất và thấp nhất là nữ cán bộ ở khối Chính 
quyền. Phát hiện này dường như không thống 
nhất với các nghiên cứu trước đây (Đặng Ánh 
Tuyết và Phan Thuận, 2011; Nguyễn Thị Tuyết 
Nga và Phan Thuận, 2012; Lê Thị Bích Tuyền, 
2013), cán bộ nữ thường có vị trí lãnh đạo, quản 
lý thường tập trung ở khối đoàn thể. Sở dĩ có sự 
khác biệt này là vì, thứ nhất, các nghiên cứu trước 
đây đã tập trung phân tích vị trí lãnh đạo, quản lý 
ở cấp tỉnh và cơ sở; thứ hai, các nghiên cứu đó chỉ 
ra vị trí lãnh đạo, quản lý cấp trưởng thường ở 
khối đoàn thể và cấp phó thường ở các khối Đảng 
và Chính quyền. Trong khi đó, nghiên cứu ở bối 
cảnh An Giang đã không phân tích ở khía cạnh 
này, cho nên sự khác biệt vẫn là điều dễ hiểu. 
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 101 – 111 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 
105 
Bảng 1. Vị trí lãnh đạo quản lý theo giới tính và khối công tác (%) 
Chức vụ lãnh đạo 
Nam N ... tình hình thực tế 42,0 33,3 24,7 
Kỹ năng thuyết phục và cổ động 32,0 30,7 37,3 
Năng lực quyết đoán 51,7 26,7 21,7 
Điều hành công việc 33,0 25,7 41,3 
Kỹ năng giao tiếp 46,7 22,7 30,7 
Tổ chức thực hiện 45,3 18,7 36,0 
Kiểm tra, giám sát 62,0 18,7 19,3 
Can đảm và quyết tâm 43,7 16,3 40,0 
Khả năng thích nghi 44,0 16,0 40,0 
Hầu hết cán bộ thừa nhận giữa phụ nữ và nam 
giới có năng lực lãnh đạo, quản lý như nhau 
chiếm tỷ lệ khá cao. Mặc dù vậy, so sánh tỷ lệ 
đánh giá nam giới giỏi hơn hay phụ nữ giỏi hơn ở 
từng năng lực thì kết quả đã phản ánh rõ ràng 
rằng, có sự khác biệt giới rõ nét về một số năng 
lực, phẩm chất lãnh đạo, quản lý giữa nam và nữ. 
Một số phẩm chất, năng lực thiên về nam giới như 
điều hành công việc, năng lực quyết đoán, ứng 
phó với tình hình thực tế, khả năng linh hoạt, năng 
động, sáng tạo. Đây là những phẩm chất đòi hỏi 
nhiều về yếu tố “nam tính” theo kỳ vọng của số 
đông trong xã hội, đặc biệt là khả năng điều hành 
công việc và quyết đoán. Những phẩm chất này 
thường được thể hiện hàng ngày trong đời sống 
lãnh đạo, quản lý của người cán bộ. Do đó, khi 
nhắc đến người lãnh đạo, quản lý, người ta thường 
cho rằng đó là nam giới (Lê Thị Mỹ Hiền, 2011). 
Điển hình số liệu khảo sát ở đây, năng lực quyết 
đoán được đánh giá nam giỏi hơn nữ chiếm 
51,7% so với 26,7% đánh giá nữ giỏi hơn. Điều 
này cho thấy, yếu tố văn hóa (tính nam và tính nữ) 
có ảnh hưởng đáng kể phẩm chất/ năng lực lãnh 
đạo của mỗi giới (xem Bảng 4). 
Trong khi đó, cán bộ nữ được đánh giá cao hơn về 
một số phẩm chất, năng lực có xu hướng mềm 
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 101 – 111 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 
108 
mại, đòi hỏi nhiều yếu tố nữ tính hơn như tuyên 
truyền vận động, ứng xử khéo léo, tinh thần trách 
nhiệm, hiểu biết nhân viên đồng nghiệp. Nghiên 
cứu trước đây (Lê Thị Bích Tuyền, 2013; Nguyễn 
Thị Thu Hà, 2008) cũng cho thấy xu hướng tương 
tự. Điều này đã nói lên rằng, yếu tố nam tính và 
nữ tính cũng ảnh hưởng đến hình ảnh lãnh đạo, 
quản lý của hai giới. Nam giới luôn mạnh mẽ và 
phụ nữ mềm mại trong cách ứng xử. Ví dụ, khả 
năng ứng xử khéo léo, khả năng tuyên truyền vận 
động của phụ nữ được đánh giá cao hơn nam giới 
chiếm tỷ lệ rất cao (tỷ lệ này lần lượt là 68,7% và 
61,7%). Điều này phản ánh sự nữ tính là một 
trong những yếu tố tạo ra sự thành công của phụ 
nữ trong việc tuyên truyền, vận động. 
Có thể thấy, các bằng chứng nghiên cứu đã thể hiện 
khá rõ về sự khác nhau trong phẩm chất, năng lực 
của mỗi giới. Chính vì thế, đã có sự phân chia lãnh 
địa hoạt động một cách rõ ràng trong lĩnh vực chính 
trị của nam giới và phụ nữ, góp phần khẳng định các 
phát hiện trước đó về sự khác biệt giữa cán bộ nam 
và cán bộ nữ trong việc tham gia công tác ở các khối 
cơ quan. Nam giới thường tham gia lãnh đạo, quản 
lý ở các khối Đảng, chính quyền, trong khi đó, phụ 
nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở khối đoàn thể chính 
trị - xã hội. Các bằng chứng định tính cũng thống 
nhất với kết quả định lượng rằng, công tác ở khối 
Đảng đòi hỏi sự quyết đoán và tự tin khi ra các quyết 
định. Vì thế, nam giới phù hợp với điều này hơn phụ 
nữ bởi vì phụ nữ chưa thể quyết đoán và còn dè dặt 
khi đưa ra các quyết định của mình. Trong khi đó, ở 
các cơ quan thuộc khối đoàn thể, phụ nữ thường phù 
hợp hơn vì sự chu đáo, khả năng giao tiếp khéo léo 
cũng như khả năng vận động của họ tốt hơn nam 
giới. 
Như vậy, có sự khác biệt về đánh giá năng lực của 
phụ nữ và nam giới khi tham gia lãnh đạo, quản 
lý. Phụ nữ thường được đánh giá cao hơn nam 
giới về các năng lực liên quan đến kỹ năng và tình 
cảm. Chính điều này đã tạo ra một phong cách 
lãnh đạo riêng của phụ nữ. Vì thế, nó đã tác động 
không nhỏ đến sự tham gia ra quyết định của họ ở 
cơ quan, đơn vị. 
3.5 Vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo, quản 
lý cấp huyện 
Phụ nữ luôn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp 
giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa 
“nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không 
giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội 
chỉ một nửa” (Hồ Chí Minh, Tập 9, Trang 523). 
Về những đóng góp của phụ nữ, Bác khẳng định 
“trong cuộc kháng chiến vĩ đại vừa qua, cũng như 
trong công cuộc xây dựng từ ngày hoà bình trở 
lại, phụ nữ ta đã góp phần xứng đáng” (Hồ Chí 
Minh, Tập 8, Trang 132), cụ thể “nào giúp đỡ 
chiến sĩ, tăng gia sản xuất. Nào chống nạn mù 
chữ, tham gia tuyển cử, tuần lễ vàng, đời sống 
mới việc gì phụ nữ cũng hăng hái tham gia” 
(Hồ Chí Minh, Tập 4, Trang 248). Trong bối cảnh 
hiện nay, người phụ nữ không ngừng đóng góp 
tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội 
đất nước. Do đó, vai trò của họ cũng được khẳng 
định các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực chính trị. 
Để có cơ sở đánh giá về vai trò của phụ nữ trong 
lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu cũng đã tiến hành 
trưng cầu ý kiến về tính hiệu quả trong các hoạt 
động mà phụ nữ tham gia giải quyết. Kết quả 
khảo sát cho thấy, hoạt động tuyên truyền, vận 
động thực hiện các chủ trương, chính sách của 
Đảng và Nhà nước được đánh giá rất tốt và tương 
đối tốt chiếm tỷ lệ cao nhất và thấp nhất là hoạt 
động thực thi các chương trình phát triển kinh tế - 
xã hội và hoạt động đóng góp ý kiến, phản biện xã 
hội Nhìn chung, cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý 
tham gia khá tốt các hoạt động được thể hiện ở 
Bảng 5. Tuy nhiên, mức độ lại khác nhau. Có lẽ, 
những phẩm chất / năng lực của phụ nữ cũng đã 
quy định tính hiệu quả của các hoạt động này. 
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 101 – 111 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 
109 
Bảng 5. Đánh giá về tính hiệu quả của phụ nữ tham gia vào các hoạt động (%) 
Các hoạt động Rất tốt 
Tương đối 
tốt 
Không tốt 
Khó đánh 
giá 
Hoạt động tuyên truyền, vận động thực hiện chủ 
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước 
16,3 61,0 7,7 15,0 
Hoạt động vận động thực hiện các chương trình 
an sinh xã hội 
14,3 56,3 11,3 18,0 
Hoạt động kiểm tra, giám sát 13,7 56,0 18,7 11,7 
Hoạt động đánh giá thực hiện vai trò thực thi 
chương trình hoạch định phát triển kinh tế - xã hội 
12,0 44,7 21,1 22,3 
Hoạt động lãnh đạo, quản lý 11,0 62,7 14,0 12,3 
Hoạt động đóng góp ý kiến, phản biện xã hội của 
từng tổ chức trong quản lý kinh tế - xã hội ở địa 
phương 
9,3 47,0 21,0 22,7 
Hoạt động thực thi các chương trình phát triển 
kinh tế - xã hội ở địa phương 
8,3 50,0 18,7 23,0 
Sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động thuộc 
lĩnh vực lãnh đạo quản lý đã góp phần làm cho 
tính hiệu quả của nó được tăng lên. Chính vì thế, 
phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý có vai trò quan 
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng 
chứng định lượng từ kết quả khảo sát cho thấy, có 
20,3% cán bộ được hỏi cho rằng, phụ nữ có vai 
trò rất quan trọng trong lãnh đạo, quản lý và 
59,0% cho rằng là quan trọng. Nếu tính tỷ lệ cộng 
dồn thì có tới 2/3 tổng số người cho rằng phụ nữ 
có vai trò quan trọng trong lãnh đạo, quản lý. Có 
thể nói, bằng chứng này đã góp phần khẳng định 
vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý hiện 
nay. Tuy nhiên, việc đánh giá này có sự khác biệt 
về giới rất rõ ràng. Bằng chứng cho thấy, có 
23,5% cán bộ nữ cho rằng phụ nữ có vai trò rất 
quan trọng trong lãnh đạo, quản lý so với 7,0% 
của nam giới; trong khi đó, có tới 50,9% cán bộ 
nam giới cho rằng bình thường so với 12,3% của 
cán bộ nữ. Mặc dù vậy, tỷ lệ người thừa nhận vai 
trò quan trọng của phụ nữ trong lãnh đạo chiếm 
cũng khá cao (40,4% của cán bộ nam và 63,4% 
của cán bộ nữ). Điều này cho thấy, mặc dù có sự 
khác biệt giới khi đánh giá về vai trò của phụ nữ 
trong lãnh đạo, quản lý nhưng đa số đều thừa 
nhận vai trò này. 
Các bằng chứng định tính cũng khẳng định rằng, 
phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý đóng góp tích 
cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 
Hầu hết cán bộ được phỏng vấn sâu đã đưa ra 
nhiều kết quả thuyết phục về tính hiệu quả của 
công việc khi phụ nữ tham gia vào lãnh đạo, quản 
lý. 
Tôi rất tán đồng với những kết quả mà phụ nữ đã 
làm trong quá trình tham gia lãnh đạo, quản lý. Sự 
tham gia của chị em đã góp phần làm tăng tiếng nói 
của phụ nữ trong các cuộc họp, đảm bảo quyền và 
lợi ích cho phụ nữ (PVS Nữ, 40 tuổi, Khối công tác 
Chính quyền). 
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 101 – 111 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 
110 
Phụ nữ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển 
kinh tế - xã hội bởi vì chị em đã thực hiện tốt các 
cuộc vận động, tuyên truyền về mô hình làm kinh 
tế ở địa phương cũng như giảm tệ nạn bạo lực gia 
đình, góp phần xây dựng đời sống gia đình hạnh 
phúc (PVS Nam, 38 tuổi, Khối công tác Chính 
quyền). 
Như vậy, các dữ liệu định tính và định lượng đều 
thống nhất rằng, sự tham gia lãnh đạo, quản lý của 
phụ nữ có vai trò tích cực đối với sự phát triển 
kinh tế - xã hội ở địa phương nói riêng và cả nước 
nói chung. Có thể nói, phát hiện này góp phần 
củng cố cho các phát hiện của các nghiên cứu 
trước đó (Đặng Ánh Tuyết và Phan Thuận, 2011; 
Lê Thị Bích Tuyền, 2013), dù ở cấp lãnh đạo, 
quản lý nào (từ tỉnh cho đến cơ sở), phụ nữ tham 
gia lãnh đạo, quản lý đều thể hiện đầy đủ các vai 
trò này. Chính vì thế, Ủy ban về các vấn đề xã hội 
- Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt 
Nam (2009) đánh giá rằng, việc tăng cường tiếng 
nói của phụ nữ trên chính trường và trong đời 
sống xã hội có thể làm tăng ảnh hưởng của các 
chương trình và chính sách, làm giảm tình trạng 
tham nhũng và tăng cường năng lực quản lý nhà 
nước (trang 68). Cho nên, từ nhiều năm qua, vấn 
đề quyền bình đẳng của phụ nữ trong chính trị đã 
được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, được thể 
hiện trong các chủ trương, đường lối của Đảng và 
pháp luật của Nhà nước. Nhờ đó, thúc đẩy sự 
tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ ở địa 
phương nói riêng, cả nước nói chung ngày càng 
nhiều hơn. 
3.6 Kết luận 
Kết quả của nghiên cứu này đã góp phần khẳng 
định vai trò, vị trí của phụ nữ trong lãnh đạo, quản 
lý đối với hệ thống chính trị là rất quan trọng 
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất 
nước nói chung và của tỉnh An Giang nói riêng. 
Nghiên cứu đã cung cấp các bằng chứng về vị trí, 
thực trạng phụ nữ làm cấp phó vẫn còn phổ biến 
trong hệ thống chính trị cấp huyện ở An Giang. 
Số lượng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý chỉ 
dừng lại ở mức độ hạn chế, về độ tuổi và vị trí 
lãnh đạo, quản lý như: cán bộ nữ có vị trí lãnh 
đạo, quản lý có độ tuổi trung bình thấp hơn 4 năm 
so với nam giới, phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản 
lý ở cấp huyện chủ yếu ở khối cơ quan tổ chức 
đoàn thể, thiếu vắng trong khối Đảng, khối chính 
quyền - những lĩnh vực hoạt động mà vốn được 
coi là có tính quyết định cao các vấn đề chiến 
lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Độ tuổi 
trung bình giữa vị trí lãnh đạo, quản lý theo giới 
tính cho thấy nữ ở độ tuổi 41,38; nam ở độ tuổi 
45,07 do đó, cán bộ nữ trong hệ thống chính trị 
cấp huyện ở An Giang phải trưởng thành trước 5 
năm so với nam giới thì mới có thể khẳng định vị 
trí của họ. 
Nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của phụ nữ 
trong lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện tại tỉnh An 
Giang có vai trò quan trọng đối với sự phát triển 
kinh tế - xã hội. Do đó, khi người trả lời được hỏi 
đánh giá như thế nào về vai trò của phụ nữ trong 
lãnh đạo, quản lý xã hội ở huyện, mặc dù có sự 
khác biệt về giới nhưng đa số các cán bộ được hỏi 
đều thừa nhận phụ nữ có vai trò quan trọng trong 
lãnh đạo, quản lý (40,4% của cán bộ nam và 
63,4% của cán bộ nữ). 
Như vậy, để đảm bảo sự hài hòa giữa mục tiêu 
của Nghị quyết 11 và thực trạng của địa phương, 
lãnh đạo cấp tỉnh cần có giải pháp thực hiện quy 
hoạch, đề bạt theo một chu trình tổng thể 10 năm 
hoặc 15 năm. Công tác quy hoạch, đề bạt cần phải 
công khai, minh bạch với tinh thần dân chủ để tạo 
điều kiện cho cán bộ nữ có hướng phấn đấu, bên 
cạnh đó, công tác tạo nguồn cán bộ nữ cũng là 
một vấn đề nhằm đảm bảo không thiếu hụt cán bộ 
khi được quy hoạch ở chức vụ lãnh đạo, quản lý. 
Để thực hiện điều này, lãnh đạo các cấp, ban, 
ngành từ tỉnh đến huyện, xã (phường) đặc biệt chú 
ý tới việc tạo điều kiện, cơ hội cho phụ nữ tham 
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 101 – 111 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 
111 
gia vào các khoá đào tạo về lý luận chính trị, quản 
lý Nhà nước và kiến thức chuyên môn cũng như 
việc tham gia hoạt động xã hội. Bởi vì “đầu tư 
giáo dục cho phụ nữ là một trong những loại hình 
đầu tư đem lại nhiều lợi ích nhất cho một quốc 
gia” (Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển 
châu Á, CIDA, 2006). Ngoài ra, trong các chương 
trình, hoạt động lồng ghép giới, cũng nên có sự tham 
gia của nam giới. Khi đó, nam giới sẽ thấy được vai 
trò của mình trong quá trình thực hiện bình đẳng 
giới, đặc biệt là bình đẳng giới trong tham chính. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ. (2013). Báo cáo kết 
quả thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trên 
lĩnh vực chính trị. 
Đặng Ánh Tuyết và Phan Thuận. (2011). Phụ nữ 
trong lãnh đạo, quản lý cấp phường, xã ở Hà 
Tĩnh hiện nay, Báo cáo đề tài khoa học. Học 
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí 
Minh, Hà Nội. 
Hồ Chí Minh. (2000). Toàn tập, Tập 8: trang 132. 
Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 
Hồ Chí Minh. (2000). Toàn tập, Tập 9, trang: 523. 
Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 
Hồ Chí Minh. (2000). Toàn tập, Tập 4: trang 248. 
Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 
Kellerman, B. & Rhode, D. L. (dịch). (2009). Phụ 
nữ và quyền lãnh đạo. Đồng Nai: Nhà xuất 
bản Tổng hợp. 
Lê Thị Bích Tuyền. (2013). Sự tham gia lãnh đạo, 
quản lý cấp tỉnh của phụ nữ ở Đồng Tháp hiện 
nay. Luận văn thạc sỹ Xã hội học. Học viện 
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
Lê Thị Mỹ Hiền. (2011). Báo cáo nghiên cứu: 
Quan điểm, thái độ và hành vi của người dân, 
cán bộ về khía cạnh giới trong lãnh dạo, quản 
lý UBND xã, phường. 
Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, 
CIDA. (2006). Đánh giá tình hình giới ở Việt 
Nam, Hà Nội. 
Nguyễn Thị Thu Hà. (2008). Định kiến giới đối 
với nữ giới trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý. 
Tạp chí Nghiên cứu Gia đình, (01). 
Nguyễn Đức Hạt. (2007). Nâng cao năng lực lãnh 
đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị. 
Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 
Nguyễn Thị Tuyết Nga và Phan Thuận. (2012). 
Ảnh hưởng của yếu tố văn hóa đến sự tham 
gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ cấp xã 
phường ở Hà Giang. Báo cáo nghiên cứu khoa 
học. 
Quốc hội. (2006). Luật Bình đẳng giới. Hà Nội: 
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 
Tỉnh ủy An Giang. (2014). Dự thảo báo cáo sơ 
kết 7 năm thực hiện nghị quyết số 11- NQ/TW 
của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác phụ nữ 
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa. 
Tuminez. (2012). Vươn tới đỉnh cao. Báo cáo Phụ 
nữ lãnh đạo Châu Á 
Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội. (2009). 
Giới và lồng ghép giới với hoạt động của 
Quốc hội. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị 
quốc gia. 

File đính kèm:

  • pdftap_chi_khoa_hoc_phu_nu_tham_gia_lanh_dao_quan_ly_trong_he_t.pdf