Thực trạng trứng gà tồn dư kháng sinh và kiến thức của người kinh doanh trứng tại các chợ ở quận 8 - Thành phố Hồ Chí Minh
Trứng gà là thức ăn bổ dưỡng có thể sử
dụng cho cả trẻ em và người lớn(6). Bên cạnh đó,
trứng cũng tồn tại nguy cơ về an toàn thực
phẩm. Theo nghiên cứu của Tổ chức JICA (Nhật
Bản) năm 2016 tại Việt Nam về tồn dư kháng
sinh trong trứng gà ở các siêu thị tại TP. Hồ Chí
Minh, kết quả cho thấy 16 mẫu trứng có tồn dư
nhiều loại kháng sinh khác nhau(10). Sau khi xử lý
nhiệt, lượng kháng sinh tồn dư trong sữa và
trứng giảm không có ý nghĩa(3). Đối với con
người, thuốc kháng sinh tồn dư trong thực
phẩm tạo ra mối đe dọa tiềm tàng với độc tính
trực tiếp như gây ung thư, phản ứng dị ứng, tiếp
xúc thường xuyên với kháng sinh liều thấp dẫn
đến sự thay đổi của vi sinh vật làm tăng khả
năng kháng thuốc(5,9,1) dẫn đến không hiệu quả
khi điều trị kháng sinh trong lâm sàng(3). Do đó,
việc tồn dư kháng sinh trong trứng gà sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng
và là một vấn đề của sức khỏe cộng đồng.
TP. Hồ Chí Minh là thị trường tiêu thụ lớn
nhất cả nước về sản lượng trứng gia cầm, bình
quân tiêu thụ 3,4 - 4 triệu quả trứng các loại
(trứng gà, vịt) mỗi ngày. Là vị trí khu vực cửa
ngõ của thành phố, Quận 8 tiếp nhận nguồn
cung cấp trứng gia cầm chính từ các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long. Trong khi đó, mức sử
dụng kháng sinh ở các trang trại gà tại Đồng
bằng sông Cửu Long là khá cao, khoảng 06 lần
so với một số nước châu Âu, phần lớn được
dùng với mục đích dự phòng hơn là điều trị(2).
Cho tới nay, các nghiên cứu về vấn đề trứng tồn
dư kháng sinh tại TP. Hồ Chí Minh rất hạn chế,
trong khi tình trạng sử dụng kháng sinh cấm và
lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi thì chưa
được kiểm soát chặt chẽ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng trứng gà tồn dư kháng sinh và kiến thức của người kinh doanh trứng tại các chợ ở quận 8 - Thành phố Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 453 THỰC TRẠNG TRỨNG GÀ TỒN DƯ KHÁNG SINH VÀ KIẾN THỨC CỦA NGƯỜI KINH DOANH TRỨNG TẠI CÁC CHỢ Ở QUẬN 8 -THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Xuân Diễm*, Trần Ngọc Minh Tuấn*, Huỳnh Ngọc Thanh**, Phan Bích Hà* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Theo nghiên cứu của Tổ chức JICA (Nhật Bản) năm 2016 tại Việt Nam về tồn dư kháng sinh trong trứng gà ở các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh, kết quả cho thấy 16 mẫu trứng có tồn dư nhiều loại kháng sinh khác nhau. Đối với con người, tiếp xúc thường xuyên với kháng sinh liều thấp dẫn đến sự thay đổi của vi sinh vật làm tăng khả năng kháng thuốc, dẫn đến không hiệu quả khi điều trị kháng sinh trong lâm sàng. Do đó, việc tồn dư kháng sinh trong trứng gà sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng và là một vấn đề của sức khỏe cộng đồng. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ tồn dư kháng sinh trong trứng gà được bán tại các chợ trên địa bàn Quận 8 - TP. Hồ Chí Minh và tỉ lệ kiến thức đúng của tiểu thương kinh doanh trứng gà về tồn dư kháng sinh. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2017. 136 mẫu trứng gà (bao gồm gà ta và gà công nghiệp, có nhãn hiệu và không nhãn hiệu) từ 67 địa điểm kinh doanh trứng gà tại 14 chợ trên địa bàn quận 8 – TP. Hồ Chí Minh được kiểm nghiệm hàm lượng kháng sinh trong trứng gà bằng phương pháp sắc ký lỏng ghép khối phổ hai lần (LC-MS/MS). Sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn phỏng vấn trực tiếp 67 tiểu thương về kiến thức tồn dư kháng sinh trong trứng gà. Kết quả: 45/136 mẫu trứng gà có tồn dư kháng sinh chiếm 33,1%. Tỉ lệ tồn dư kháng sinh ở trứng gà ta và trứng gà công nghiệp lần lượt là 54,6% và 22,8%. 59,7% tiểu thương có kiến thức chung chưa đúng về kháng sinh trong trứng gà. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trứng gà tồn dư kháng sinh và loại trứng gà (p<0,001; PR=2,39; KTC (95%): 1,51 – 3,89); giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với trình độ học vấn (p=0,011; PR=2,1; KTC (95%): 1,18-3,73); giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với tập huấn kiến thức an toàn thực phẩm (p <0,001; PR=3,56; KTC (95%): 1,54-8,29); giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với thông tin nghe về kháng sinh trong trứng gà (p=0,002; PR=2,62; KTC (95%): 1,39-4,96). Kết luận: Kết quả nghiên cứu đánh giá thực trạng tồn dư kháng sinh trong trứng gà tại quận 8 - TP. Hồ Chí Minh, đồng thời cảnh báo nguy cơ về an toàn thực phẩm. Việc sử dụng trứng gà còn tồn dư kháng sinh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng. Từ khóa: kháng sinh, trứng gà ABSTRACT SITUATION ABOUT ANTIBIOTIC RESIDUES IN CHICKEN EGGS AND KNOWLEDGE OF THE TRADERS IN THE MARKETS IN DISTRICT 8 IN HO CHI MINH CITY Nguyen Thi Xuan Diem, Tran Ngoc Minh Tuan, Huynh Ngoc Thanh, Phan Bich Ha * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 453 – 461 Background: According to the study of JICA (Japan) in 2016 in Vietnam on antibiotic residues in chicken eggs in supermarkets in Ho Chi Minh City, the results showed that 16 samples of eggs had many different antibiotic residues. For humans, regular exposure to low-dose antibiotics leads to changes in microorganisms that increase resistance, leading to ineffective treatment. Therefore, antibiotic residues in chicken eggs will directly *Viện Y tế Công cộng TP Hồ Chí Minh **Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN.Nguyễn Thị Xuân Diễm ĐT: 0985682895 Email: nguyenthixuandiem@iph.org.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 454 affect consumer health and is a problem of public health. Objectives: Determining the rate of antibiotic residues in chicken eggs sold at markets in District 8 in Ho Chi Minh City and the right knowledge rate of shopkeeper trading chicken eggs about antibiotic residues. Methods: A cross-sectional descriptive study was carried out from March to July 2017. A total of 136 samples of chicken eggs (including free-range and industrial egg, branded and non-branded) from 67 locations of chicken eggs trading in 14 markets in District 8 in Ho Chi Minh City were tested for antibiotic content by Liquid chromatography-tandem mass spectrometry method (LC-MS/MS). Pre-written questionnaires were used to directly interview 67 traders on antibiotic residues knowledge in chicken eggs. Results: Samples of chicken eggs with antibiotic residues accounted for 33.1% (45/136 samples). The rate of antibiotic residues in chicken eggs and industrial eggs is 54.6% and 22.8%, respectively. There were 59.7% of shopkeepers who had incorrect general knowledge about antibiotics in chicken eggs. There was a statistically significant relationship between chicken eggs with antibiotic residues and chicken eggs (p<0.001; PR=2.39; CI (95%): 1.51 - 3.89); between antibiotic knowledge in chicken eggs and education level (p=0.011; PR=2.1; CI (95%): 1.18-3.73); between antibiotic knowledge in chicken eggs and training on food safety knowledge (p<0.001; PR=3.56; CI (95%): 1.54-8.29); between antibiotic knowledge in chicken eggs and information about antibiotics in chicken eggs (p=0.002; PR=2.62; CI(95%): 1.39-4.96). Conclusions: The results of the study evaluated the status of antibiotic residues in chicken eggs in District 8 in Ho Chi Minh City, and warned of the risk of food insecurity. This is a potential danger to public health. The government needs to strengthen management and supervision of antibiotics used in animal husbandry. Keywords: antibiotics, chicken eggs ĐẶT VẤN ĐỀ Trứng gà là thức ăn bổ dưỡng có thể sử dụng cho cả trẻ em và người lớn(6). Bên cạnh đó, trứng cũng tồn tại nguy cơ về an toàn thực phẩm. Theo nghiên cứu của Tổ chức JICA (Nhật Bản) năm 2016 tại Việt Nam về tồn dư kháng sinh trong trứng gà ở các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh, kết quả cho thấy 16 mẫu trứng có tồn dư nhiều loại kháng sinh khác nhau(10). Sau khi xử lý nhiệt, lượng kháng sinh tồn dư trong sữa và trứng giảm không có ý nghĩa(3). Đối với con người, thuốc kháng sinh tồn dư trong thực phẩm tạo ra mối đe dọa tiềm tàng với độc tính trực tiếp như gây ung thư, phản ứng dị ứng, tiếp xúc thường xuyên với kháng sinh liều thấp dẫn đến sự thay đổi của vi sinh vật làm tăng khả năng kháng thuốc(5,9,1) dẫn đến không hiệu quả khi điều trị kháng sinh trong lâm sàng(3). Do đó, việc tồn dư kháng sinh trong trứng gà sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng và là một vấn đề của sức khỏe cộng đồng. TP. Hồ Chí Minh là thị trường tiêu thụ lớn nhất cả nước về sản lượng trứng gia cầm, bình quân tiêu thụ 3,4 - 4 triệu quả trứng các loại (trứng gà, vịt) mỗi ngày. Là vị trí khu vực cửa ngõ của thành phố, Quận 8 tiếp nhận nguồn cung cấp trứng gia cầm chính từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi đó, mức sử dụng kháng sinh ở các trang trại gà tại Đồng bằng sông Cửu Long là khá cao, khoảng 06 lần so với một số nước châu Âu, phần lớn được dùng với mục đích dự phòng hơn là điều trị(2). Cho tới nay, các nghiên cứu về vấn đề trứng tồn dư kháng sinh tại TP. Hồ Chí Minh rất hạn chế, trong khi tình trạng sử dụng kháng sinh cấm và lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi thì chưa được kiểm soát chặt chẽ. Với mong muốn xác định tỉ lệ tồn dư kháng sinh trong trứng gà khi trứng tới bàn ăn để cảnh báo cho người dân tuân thủ nghiêm ngặt việc sử dụng kháng sinh từ trang trại. Vì vậy, để làm rõ vấn đề này, nhất là tại Quận 8 - TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi thực hiện khảo sát tình hình tồn dư kháng sinh trong trứng gà được bán tại các chợ (nhà bán lẻ) trên địa bàn Quận 8 - TP. Hồ Chí Minh. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 455 Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ tồn dư kháng sinh trong trứng gà được bán tại các chợ trên địa bàn Quận 8 - TP. Hồ Chí Minh và các yếu tố liên quan đến tỉ lệ tồn dư kháng sinh. Xác định tỉ lệ kiến thức đúng của tiểu thương kinh doanh trứng gà tại các chợ trên địa bàn Quận 8 - TP. Hồ Chí Minh về tồn dư kháng sinh. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Các mẫu trứng gà có nguồn gốc (thương hiệu) hoặc không có nguồn gốc (không có thương hiệu) được bán tại các điểm kinh doanh trứng gia cầm và người trực tiếp quản lý việc kinh doanh trứng (gọi tắt là tiểu thương) tại các chợ trên địa bàn Quận 8 - TP. Hồ Chí Minh. Tiêu chuẩn nhận vào Người trực tiếp quản lý việc buôn bán trứng gà và mẫu trứng gà còn nguyên vẹn, vỏ trứng không móp, không bể. Tiêu chuẩn loại ra Từ lần vắng mặt đầu tiên, tiểu thương vắng mặt lần thứ 02 tại thời điểm nghiên cứu sẽ không lấy mẫu trứng tại điểm kinh doanh này. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2017. Địa điểm nghiên cứu: Các quầy bán trứng gà tại 14 chợ trên địa bàn Quận 8 – TP. Hồ Chí Minh. Cỡ mẫu Sử dụng công thức ước lượng một tỉ lệ: 2 )(1 )2/1( 2 d n pp Với n là cỡ mẫu tối thiểu, đơn vị mẫu trứng gà (một mẫu trứng gà tương ứng 06 -10 quả có cùng chủng loại); α là xác xuất sai lầm loại I (α = 0,05); Z(1-α/2) là hệ số tin cậy, với độ tin cậy là 95% thì Z(1-α/2) = 1,96; p là tỉ lệ trứng tồn dư kháng sinh trong trứng gà ước tính, theo một nghiên cứu của Tổ chức JICA (Nhật Bản) năm 2016 tại TP. Hồ Chí Minh(10), lấy p = 0,144; d là sai số của ước lượng được lấy ở mức 0,05. Tính được n = 98 mẫu. Dự trù mất mẫu tỉ lệ 2% thì N= Trong đó N là cỡ mẫu sau khi dự trừ mất mẫu, n là cỡ mẫu tính từ công thức (n = 98); vậy N = 122,5. Do đó, cỡ mẫu sau khi dự trù mất mẫu là 123 mẫu trứng. Dựa vào thực tế, từ 67 địa điểm kinh doanh trứng gà tại 14 chợ trên địa bàn Quận 8 – TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi lấy 136 mẫu trứng gà và phỏng vấn 67 tiểu thương. Phương pháp chọn mẫu Lấy mẫu toàn bộ. Tại mỗi điểm kinh doanh, lấy hết toàn bộ những mẫu có nhãn hiệu gồm trứng gà công nghiệp và trứng gà ta; đối với mẫu không nhãn hiệu lấy một mẫu trứng gà ta và một mẫu trứng gà công nghiệp (nếu có đầy đủ). Đồng thời tiến hành phỏng vấn tiểu thương tại điểm kinh doanh trứng thông qua bộ câu hỏi soạn sẵn. Một số khái niệm trong nghiên cứu Trứng gà Có vỏ màu vàng cứng, bề ngoài của trứng thường có hình bầu dục, hai đầu không cân bằng, một đầu to một đầu nhỏ. Trứng có bao bì hoặc không có bao bì. Trứng gà công nghiệp có kích cỡ quả trứng lớn, vỏ màu nâu. Trứng gà công nghiệp là sản phẩm của gà công nghiệp. Trứng gà ta có kích cỡ quả trứng nhỏ, vỏ trứng màu hồng phấn, gà đẻ trứng được nuôi theo hình thức thả vườn hoặc làm chuồng thoáng rộng rãi có ổ lót cho gà đẻ trứng. Trứng gà có nguồn gốc là trứng có bao bì nhãn hiệu, chứa trong vỉ nhựa, có nhãn sản phẩm, xác định được nhà cung cấp. Trứng gà không rõ nguồn gốc là Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 456 trứng gà để lẫn lộn trong cùng một khay hoặc giỏ, không có bao bì chứa đựng, không nhãn hiệu, không có nhãn sản phẩm. Tiểu thương Là người trực tiếp quản lý việc kinh doanh trứng tại cửa hàng kinh doanh trứng trong chợ không quan tâm đến có đứng tên trên giấy phép kinh doanh hay không. Tồn dư kháng sinh Là hiện tượng kháng sinh chưa đào thải hết trong cơ thể vật nuôi gây tích lũy tại các mô, các phủ tạng. Việc tồn dư kháng sinh trong trứng là do cơ sở chăn nuôi không tuân thủ theo quy định về thời gian ngưng thuốc, cũng như liều lượng kháng sinh vì sự chuyển hóa kháng sinh trong mỗi cơ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giống, loài, tuổi, tình trạng sức khỏe. Trứng có tồn dư kháng sinh khi kết quả xét nghiệm phát hiện ít nhất một loại kháng sinh. Hàm lượng kháng sinh có trong trứng gà được xác định bằng kiểm nghiệm và biểu thị bằng đơn vị tính là µg/kg. Thu thập dữ liệu Lấy mẫu trứng gà tuân thủ theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 9600-2013. Mẫu sau khi lấy xong cho vào vỉ nhựa, mã hóa bằng ký hiệu và số thứ tự, để vào thùng giấy ở nhiệt độ thường, vận chuyển bằng xe máy về Trung tâm Kiểm nghiệm ATTP Khu vực Phía Nam – Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh trong ngày để xét nghiệm. Mẫu chưa xét nghiệm được bảo quản tại phòng thí nghiệm ở nhiệt độ từ 4 – 8 độ C. Kết quả trả theo ký hiệu mẫu, không thể hiện tên cơ sở. Dựa vào nghiên cứu của Tổ chức JICA (Nhật Bản) năm 2016 tại Việt Nam về tồn dư kháng sinh trong trứng gà ở các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh(10) và Thông tư số 24/2013/TT-BYT “Quy định mức giới hạn tối đa dư lượng thuốc thú y trong thực phẩm”, chúng tôi chọn các kháng sinh xét nghiệm trong nghiên cứu đề tài này bao gồm nhóm Sulfonamides (Sulfachlorpyridazin, Sulfaclozin, Sulfadimethoxine, Sulfamerazine, Sulfadimidine, Sulfadoxine, Sulfamethoxazole, Sulfamethoxypyridazine, Sulfamonomethoxine, Sulfapyridine), nhóm Quinolones (Ciprofloxacin, Danofloxacin, Difloxacin, Enrofloxacin, Marbofloxacin, Norfloxacin, Ofloxacin, Orbifloxacin, Sarafloxacin), nhóm β- lactams (Ampicilin, Aspoxicillin, Oxacillin, Penicillin G, Penicillin V), nhóm Macrolides (Tilmicosin, Spiramycin, Tylosin), nhóm Tetracycline (Tetracycline, Oxytetracycline, Doxycycline, Chlotetracycline), nhóm Diaminopyrimidine (Trimethoprim), nhóm Aminoglycoside (Neomycin, Spectinomycin). Kiểm nghiệm hàm lượng kháng sinh bằng phương pháp sắc ký lỏng ghép khối phổ 2 lần (LC-MS/MS). Phương pháp phân tích được Trung tâm Kiểm nghiệm ATTP Khu vực phía Nam nghiên cứu và xác nhận giá trị sử dụng, có độ chính xác, độ nhạy cao, đáp ứng cho công tác thanh kiểm tra, quản lý của các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát kháng sinh trong thịt, trứng gia cầm. Nhập và xử lý số liệu Dữ liệu được nhập bằng phần mềm EpiData 3.1 và xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 13.0. KẾT QUẢ Đặc tính của mẫu nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm của tiểu thương (n=67) Đặc tính Tần số Tỉ lệ (%) Tuổi Dưới 35 tuổi 9 13,4 Trên 35 tuổi 58 86,6 Giới Nam 11 16,4 Nữ 56 83,6 Học vấn Dưới tiểu học 2 3,0 Tiểu học 15 22,4 THCS 25 37,3 THPT 22 32,8 Trung cấp/Cao đẳng/Đại học 3 4,5 Tuổi nghề Dưới 1 năm 6 8,9 Từ 1-5 năm 9 13,4 Từ 6 -10 năm 17 25,4 Trên 10 năm 35 52,3 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 457 Đặc tính Tần số Tỉ lệ (%) Tập huấn kiến thức VSATTP Có 37 55,2 Không 30 44,8 Đa số tiểu thương là nữ giới (83,6%), nam giới chiếm tỉ lệ 16,4%. Các tiểu thương có độ tuổi từ trên 35 tuổi chiếm tỉ lệ 86,6%, các tiểu thương có độ tuổi từ 35 tuổi trở xuống chiếm tỉ lệ 13,4%. Trình độ học vấn của tiểu thương chủ yếu là THCS chiếm tỉ lệ 37,3%, tiếp đến là THPT chiếm tỉ lệ 32,8%, tiểu học chiếm 22,4%, có 4,5% tiểu thương có trình độ trên cấp trung học phổ thông và 3,0% tiểu thương có ... (52,3%), dưới 01 năm chiếm tỉ lệ 8,9%. Tiểu thương có tham gia lớp tập huấn kiến thức VSATTP chiếm tỉ lệ 55,2% và tiểu thương không có tham gia lớp tập huấn kiến thức VSATTP chiếm tỉ lệ 44,8% (Bảng 1). Tồn dư kháng sinh trong trứng gà Bảng 2: Tần suất và tỉ lệ % trứng gà tồn dư kháng sinh (n=136) Đặc tính Tần số Tỉ lệ (%) Nguồn gốc (n=136) Có 41 30,1 Không 95 69,9 Tồn dư kháng sinh (n=136) Không 91 66,9 Có 45 33,1 Kết quả nghiên cứu 136 mẫu trứng gà, phân theo nguồn gốc, tỉ lệ trứng gà không có nguồn gốc chiếm tỉ lệ cao (69,9%), trứng gà có nguồn gốc chiếm tỉ lệ thấp (30,1%). Tỉ lệ tồn dư kháng sinh chung trên tổng số 136 mẫu trứng gà chiếm 33,1% (Bảng 2). Trứng gà không nhãn hiệu chiếm tỉ lệ cao, 88,6% đối với trứng gà ta và 60,9% đối với gà công nghiệp. Trứng gà có nhãn hiệu chiếm tỉ lệ thấp, trong đó trứng gà ta có nhãn hiệu chiếm tỉ lệ 11,4% và trứng gà công nghiệp có nhãn hiệu chiếm tỉ lệ 39,1%. Tỉ lệ tồn dư kháng sinh ở trứng gà ta chiếm 54,6%, trứng gà công nghiệp tồn dư kháng sinh chiếm tỉ lệ 22,8% (Bảng 3). Bảng 3: Phân loại tồn dư KS và nguồn gốc theo phân loại trứng gà (n=136) Đặc tính Trứng gà ta (N = 44) Trứng gà CN (N = 92) Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Nhãn hiệu 5 (11,4%) 39 (88,6%) 36 (39,1%) 56 (60,9%) Tồn dư KS 24 (54,6%) 20 (45,5%) 21 (22,8%) 71 (77,2%) Tỉ lệ tiểu thương có kiến thức đúng về tồn dư kháng sinh Bảng 4: Kiến thức chung đúng về kháng sinh trong trứng gà (n=67) Đặc tính Tần số Tỉ lệ (%) Kiến thức chung đúng về KS trong trứng gà Đúng 27 40,3 Chưa đúng 40 59,7 Nghe thông tin về KS trong trứng gà Có 29 43,3 Không 38 56,7 Kết quả cho thấy tiểu thương có kiến thức chung chưa đúng về tồn dư kháng sinh trong trứng gà chiếm tỉ lệ cao hơn (59,7%) so với tiểu thương có kiến thức chung đúng về tồn dư kháng sinh trong trứng gà (40,3%). Tiểu thương chưa từng nghe nói về tồn dư kháng sinh trong trứng gà chiếm tỉ lệ cao 56,7%, tiểu thương có nghe nói về tồn dư kháng sinh trong trứng gà chiếm tỉ lệ 43,3% (Bảng 4). Mối liên quan giữa tỉ lệ tồn dư kháng sinh trong trứng gà với nguồn gốc trứng, loại trứng gà Không có mối liên quan giữa trứng gà tồn dư kháng sinh với nguồn gốc trứng (p >0,05). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trứng gà tồn dư kháng sinh và loại trứng gà (p< 0,001; PR=2,39; KTC (95%): 1,51 – 3,89). Trong đó, trứng gà ta có tồn dư kháng sinh cao gấp 2,39 lần so với trứng gà công nghiệp (Bảng 5). Bảng 5: Mối liên quan giữa trứng tồn dư kháng sinh với nguồn gốc và loại trứng gà Biến số Trứng tồn dư KS PR (KTC 95%) p Có (%) Không (%) Nguồn gốc Có nguồn gốc 11 (26,8) 30 (73,2) 0,74 (0,41-1,33) 0,308 Không nguồn gốc 34 (35,8) 61 (64,2) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 458 Biến số Trứng tồn dư KS PR (KTC 95%) p Có (%) Không (%) Loại trứng gà Trứng gà ta 24 (54,5) 20 (45,5) 2,39 (1,51-3,89) <0,001 Trứng gà CN 21 (22,8) 71 (77,2) Mối liên quan giữa kiến thức về kháng sinh trong trứng gà và biến số nền Không có mối liên quan giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với tuổi, giới (p>0,05). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với trình độ học vấn (p=0,011; PR=2,1; KTC: 1,18- 3,73). Trong đó, người có trình độ trên trung học cơ sở có kiến thức đúng gấp 2,1 lần so với người có trình độ từ trung học cơ sở trở xuống. Không có mối liên quan giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với tuổi nghề (p >0,05). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với tập huấn kiến thức VSATTP (p <0,001; PR=3,56; KTC (95%): 1,54-8,29). Trong đó, những người được tập huấn kiến thức VSATTP có kiến thức đúng cao gấp 3,56 lần so với những người không được tập huấn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với thông tin nghe về kháng sinh trong trứng gà (p=0,002; PR=2,62; KTC (95%): 1,39-4,96). Trong đó, những người có nghe thông tin về kháng sinh trong trứng gà có kiến thức đúng cao gấp 2,62 lần so với những người không nghe thông tin về kháng sinh (Bảng 6). Bảng 6: Mối liên quan giữa kiến thức về kháng sinh trong trứng gà và biến số Biến số Kiến thức về KS trong trứng gà PR (KTC 95%) p Có (%) Không (%) Tuổi Dưới 35 tuổi 5 (55,6) 4(44,4) 0,68 (0,35-1,34) 0,316 Từ 35 tuổi trở lên 22 (37,9) 36 (62,1) Giới Nam 5 (45,5) 6 (54,5) 0,86 (0,42-1,78) 0,703 Nữ 22 (39,3) 34 (60,7) Trình độ học vấn 0,011 THCS trở xuống 12 (28,6) 30 (71,4) Trên THCS 15(60,0) 10 (40,0) 2,1 (1,18-3,73) Tuổi nghề Dưới 1 năm 3 (50,0) 3 (50,0) 1 0,560 Từ 1-5 năm 2 (22,2) 7 (77,8) 0,44 (0,10-1,93) Từ 6-10 năm 6 (35,3) 11 (64,7) 0,71 (0,25-1,99) Trên 10 năm 16 (45,7) 19 (54,3) 0,91 (0,38-2,31) Tập huấn VSATTP Có 22(59,5) 15(40,5) 3,56(1,54-8,29) <0,001 Không 5(16,7) 25(83,3) Thông tin về KS Có 18(62,1) 11(37,9) 2,62(1,39-4,96) 0,002 Không 9(23,7) 29(76,3) BÀN LUẬN Tỉ lệ tồn dư kháng sinh chung trên tổng số 136 mẫu trứng gà là 33,1%, kết quả này cao hơn 2,3 lần so với nghiên cứu năm 2016 của Tổ chức JICA (14,4%) về tồn dư kháng sinh trong trứng gà ở TP. Hồ Chí Minh(10). Do đề tài chúng tôi thu thập mẫu tại các chợ còn Tổ chức JICA thu thập mẫu tại các siêu thị, có thể lý giải được tại các siêu thị có hệ thống quản lý chất lượng giám sát chặt chẽ nguồn thực phẩm từ nhà cung cấp trước khi nhập hàng vào siêu thị và bán lại cho người tiêu dùng nên trứng tồn dư kháng sinh từ các mẫu lấy tại siêu thị có chiếm tỉ lệ thấp. Trong khi đó, trứng được bán tại các chợ dân sinh, do Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 459 người kinh doanh tự nhập hàng thông qua thỏa thuận hợp lý với nhà cung cấp, không có hệ thống quản lý chất lượng giám sát, kiểm nghiệm nên khả năng tồn dư kháng sinh trong mẫu trứng bán tại các chợ cao. Việc tồn dư kháng sinh trong trứng tại các chợ dân sinh cao hơn tại siêu thị cũng đã được ghi nhận trong nghiên cứu tại Đài Loan vào năm 2014, tỉ lệ trứng tồn dư kháng sinh tại các chợ cao hơn gấp 3 lần tại các siêu thị (12% so với 4%; p = 0,006) với tỉ lệ tồn dư kháng sinh chung trong trứng gà là 8%(11). Tình trạng tồn dư kháng sinh trong trứng được phát hiện ở nhiều nước trên thế giới, tại Cộng hòa Dominica (năm 2014) chiếm tỉ lệ 51%(7) và Nigeria (năm 2014) chiếm tỉ lệ 75,2%(8). Phát hiện này cao hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi (33,1%) lần lượt gấp 1,5 lần và 2,3 lần. Cộng hòa Dominica và Nigeria là hai nước thuộc Châu Mỹ Latinh và Châu Phi, kinh tế kém phát triển, thiếu hụt lương thực, vấn đề an toàn thực phẩm, y tế chưa được chú trọng, bên cạnh đó kháng sinh được sử dụng rộng rãi thiếu kiểm soát là nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ tồn dư kháng sinh trong trứng cao. Nghiên cứu cho thấy, các mẫu trứng qua phân tích có tồn dư kháng sinh hầu hết là các kháng sinh cấm dùng trong thú y tại Việt Nam theo Thông tư số 08/VBHN- BNN&PTNT và kháng sinh cấm dùng cho gà đẻ trứng theo quy định của Châu Âu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu năm 2014 - 2015 của Tổ chức JICA(10) về các kháng sinh cấm tồn dư trong trứng gà. Hiện nay, ở Việt Nam số lượng trang trại nuôi gà với quy mô nhỏ lại thiếu thông tin về kháng sinh và dễ dàng mua được các loại thuốc kháng sinh từ các cửa hàng nông dược(4), người chăn nuôi có thể tự mua kháng sinh dùng cho người để điều trị cho gà với mục đích nhanh khỏi bệnh mà không biết được tác hại thật sự của việc sử dụng không đúng đối tượng và liều lượng. Chúng tôi đã tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trứng gà tồn dư kháng sinh và loại trứng gà (p <0,001; PR=2,39; KTC (95%): 1,51 – 3,89). Trứng gà ta có tồn dư kháng sinh cao gấp 2,39 lần so với trứng gà công nghiệp. Trứng gà ta thường được nuôi tại các hộ gia đình hoặc trang trại nhỏ, lẻ. Do việc chọn lựa gà mái đẻ trứng phần lớn dựa vào kinh nghiệm, thiếu chọn lọc nên gà mái đẻ có nguy cơ mắc bệnh trong thời gian đẻ trứng. Mặt khác, việc lựa chọn loại kháng sinh, quyết định liều lượng, thời gian ngừng thuốc và phối hợp kháng sinh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người chăn nuôi hoặc từ chỉ dẫn của bạn bè, người thân. Điều này dẫn đến việc sử dụng kháng sinh không hợp lý trong phòng-trị bệnh cho gà đẻ trứng. Đối với gà công nghiệp, thường được nuôi tại các trại chăn nuôi quy mô vừa và lớn, được chọn lọc chỉ toàn gà mái để nuôi lấy trứng, sức khỏe gà mái ổn định. Ngoài ra, người chăn nuôi được cán bộ thú y địa phương giám sát, tuyên truyền và tập huấn kiến thức dùng kháng sinh hợp lý. Do đó, nguy cơ tồn dư kháng sinh trong trứng công nghiệp ít hơn 2,39 lần so với trứng gà ta. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với trình độ học vấn (p=0,011; PR=2,1; KTC (95%): 1,18-3,73). Trong đó, người có trình độ trên THCS có kiến thức đúng gấp 2,1 lần so với người có trình độ từ THCS trở xuống. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với tập huấn kiến thức VSATTP (p <0,001; PR=3,56; KTC (95%): 1,54-8,29). Trong đó, những người được tập huấn kiến thức VSATTP có kiến thức đúng cao gấp 3,56 lần so với những người không được tập huấn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với thông tin nghe về kháng sinh trong trứng gà (p=0,002; PR=2,62; KTC (95%): 1,39- 4,96). Trong đó, những người được có nghe thông tin về kháng sinh trong trứng gà có kiến thức đúng cao gấp 2,62 lần so với những người không nghe thông tin về kháng sinh trong trứng gà. Như vậy, tiểu thương có trình độ càng cao, được tập huấn kiến thức VSATTP, có nghe thông tin về kháng sinh thì có nhiều điều kiện tiếp nhận thông tin về tồn dư kháng sinh trong trứng gà cũng như trong thực phẩm, đồng thời Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 460 các tiểu thương này có quan tâm đến vấn đề an toàn thực phẩm. Do các tiểu thương được học và tiếp nhận thông tin từ truyền thông, từ nhân viên y tế. Kiến thức đúng về tồn dư kháng sinh trong trứng gà và trong thực phẩm là kiến thức khoa học. Vì vậy, tiểu thương trình độ học vấn thấp, không tham gia tập huấn kiến thức VSATTP, chưa từng nghe thông tin về kháng sinh trong trứng gà hoặc thực phẩm thì họ có ít hiểu biết về vấn đề này. KẾT LUẬN Trong 136 mẫu trứng gà được thu thập tại 14 chợ trên địa bàn Quận 8 – TP. Hồ Chí Minh đem phân tích 33 loại kháng sinh thuộc các nhóm Sulfamide, Quinolone, β-Lactams, Macrolides, Tetracylin, Aminoglycoside và Diaminopyrimidine, kết quả cho thấy tỉ lệ tồn dư kháng sinh chung chiếm 33,1%. Trong đó, trứng gà ta tồn dư kháng sinh chiếm tỉ lệ 54,6%, trứng gà công nghiệp chiếm tỉ lệ 22,8%. Chúng tôi tìm thấy mối liên quan quan có ý nghĩa thống kê giữa trứng gà tồn dư kháng sinh và loại trứng gà (p <0,001; PR=2,39; KTC (95%): 1,51-3,89). Trong đó, trứng gà ta có tồn dư kháng sinh cao gấp 2,39 lần so với trứng gà công nghiệp. Không có mối liên quan giữa giữa trứng gà tồn dư kháng sinh với nguồn gốc trứng. Kiến thức chung đúng của tiểu thương về kháng sinh trong trứng gà đạt 40,3%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với trình độ học vấn (p=0,011; PR=2,1; KTC (95%): 1,18-3,73). Trong đó, người có trình độ trên trung học cơ sở có kiến thức đúng gấp 2,1 lần so với người có trình độ từ trung học cơ sở trở xuống. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức kháng sinh trong trứng gà với tập huấn kiến thức VSATTP (p <0,001; PR=3,56; KTC (95%): 1,54-8,29). Ngoài ra, những người được tập huấn kiến thức VSATTP có kiến thức đúng cao gấp 3,56 lần so với những người không được tập huấn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức về tồn dư kháng sinh trong trứng gà và thông tin có nghe về kháng sinh (p=0,002; PR=2,62; KTC (95%): 1,39–4,96). Trong đó, người có từng nghe về kháng sinh trong trứng gà có kiến thức đúng cao gấp 2,62 lần so với người không nghe thông tin về kháng sinh. KIẾN NGHỊ Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho người dân nói chung và người kinh doanh trứng gia cầm về việc tác hại của tồn dư kháng sinh trong thực phẩm và khả năng lây truyền các vi sinh vật kháng thuốc vào người thông qua chuỗi thực phẩm. Mở rộng thêm các nghiên cứu sâu hơn về tồn dư kháng sinh trong trứng gà tại trang trại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ahaduzzaman M, Hassan M, Alam M, et al (2014). Antimicrobial Resistance Pattern against Staphylococcus aureus in Environmental Effluents. Research Journal for Veterinary Practitioners, 2(1):13-16. 2. Carrique-Mas JJ, Campbell JI., Wagenaar JA, et al (2015). Antimicrobial usage in chicken production in the Mekong Delta of Vietnam. Zoonoses Public Health, 62(S1):70-78. 3. Chowdhury S, Hassan MM, Alam M, et al (2015). Antibiotic residues in milk and eggs of commercial and local farms at Chittagong, Bangladesh. Vet World, 8(4):467-71. 4. Do TT Nga, Horby P, Wertheim HF, et al (2014). Antibiotic sales in rural and urban pharmacies in northern Vietnam: an observational study. BMC Pharmacol Toxicol, pp.15-6. 5. Hassan MM, Amin KB, Ahaduzzaman M, Alam M, Faruk MSA and Uddin I (2014). Antimicrobial resis tance pattern against E. coli and salmonella in layer poultry. Research Journal for Veterinary Practitioners, 2(2):30-35. 6. Kassis N, Drake SR, Beamer SK, et al (2010). Development of nutraceutical egg products with omega-3-rich oils. LWT - Food Science and Technology, 43(5):777-783. 7. Moscoso S, de los Santos FS, Andino AG, et al (2015). Detection of quinolones in commercial eggs obtained from farms in the Espaillat Province in the Dominican Republic. Journal of Food Protection, 78(1):214-217. 8. Olatoye O, Kayode ST (2012). Oxytetracycline residues in retail chicken eggs in Ibadan, Nigeria. Food Addit Contam Part B Surveill, 5(4):255-9. 9. Paige JC, Tollefson L, Miller M (1997). Public health impact on drug residues in animal tissues. Vet Hum Toxicol, 39(3):162-9. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 461 10. Yamaguchi T, Okihashi M, Harada K, et al (2017). Detection of antibiotics in chicken eggs obtained from supermarkets in Ho Chi Minh City, Vietnam. Journal of Environmental Science and Health Part B, pp.1-4. 11. Yang SC, Yu MC, Lee YH and Wang JL (2016). Antibiotic Residues in Meat and Eggs in Taiwan: A Local Surveillance. British Journal of Medicine & Medical Research, 12(11):1-6. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
File đính kèm:
- thuc_trang_trung_ga_ton_du_khang_sinh_va_kien_thuc_cua_nguoi.pdf