Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm của cơ sở sản xuất nước uống đóng chai tại tỉnh Bình dương năm 2013
Đặt vấn đề: Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế, xã hội thì việc sử dụng nước uống đóng chai (NUĐC) đang ngày trở lên phổ biến. Tuy nhiên, thực tế NUĐC không phải luôn luôn an toàn. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng an toàn thực phẩm (ATTP) nước uống đóng chai tại tỉnh Bình Dương nơi đang phát triển công nghiệp nhanh là cần thiết. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ mẫu nước uống đóng chai đạt theo tiêu chuẩn, tỉ lệ cơ sở sản suất NUĐC đạt các điều kiện an toàn thực phẩm, tỉ lệ người sản xuất có kiến thức đúng về thực hành ATTP. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên toàn bộ 87 cơ sở sản xuất NUĐC tại tỉnh Bình Dương, các mẫu nước được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước được chọn theo QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT. Kết quả nghiên cứu: Trong số 87 mẫu NUĐC có 56,3% mẫu NUĐC đạt tiêu chuẩn. Trong đó, chỉ tiêu vi sinh vật đạt 57,5%, kim loại nặng đạt 98,8%, lý hóa đạt 100%. Điều kiện về thiết kế nhà xưởng đạt (24,1%); Điều kiện nhà vệ sinh đạt (59,8%); Điều kiện con người đạt (62,1%); Vệ sinh bao bì đạt (60,9%). Trong 194 người sản xuất được khảo sát, tỉ lệ có kiến thức đúng về thực hành sản xuất (13,9%). Có mối liên quan giữa chất lượng nước uống đóng chai với điều kiện con người [PR=1,8; KTC95%(1,2 ‐ 2,8); p=0,015], dung tích vỏ chai [PR=1,5; KTC95%(1,1 ‐ 2,1); p=0,005] và vệ sinh bao bì [PR=1,9; KTC95% (1,1 ‐ 3,4; p=0,021). Kết luận: Thực trạng về điều kiện kiện vệ sinh cơ sở, con người và quá trình vệ sinh bao bì đạt thấp. Tỉ lệ NUĐC đạt theo tiêu chuẩn thấp, đặc biệt là chỉ tiêu vi sinh vật. Có mối liên quan dung tích vỏ chai và vệ sinh bao bì với chất lượng NUĐC
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm của cơ sở sản xuất nước uống đóng chai tại tỉnh Bình dương năm 2013
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 552 THỰC TRẠNG VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM CỦA CƠ SỞ SẢN XUẤT NƯỚC UỐNG ĐÓNG CHAI TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2013 Nguyễn Văn Đạt* Đặt vấn đề: Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế, xã hội thì việc sử dụng nước uống đóng chai (NUĐC) đang ngày trở lên phổ biến. Tuy nhiên, thực tế NUĐC không phải luôn luôn an toàn. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng an toàn thực phẩm (ATTP) nước uống đóng chai tại tỉnh Bình Dương nơi đang phát triển công nghiệp nhanh là cần thiết. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ mẫu nước uống đóng chai đạt theo tiêu chuẩn, tỉ lệ cơ sở sản suất NUĐC đạt các điều kiện an toàn thực phẩm, tỉ lệ người sản xuất có kiến thức đúng về thực hành ATTP. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên toàn bộ 87 cơ sở sản xuất NUĐC tại tỉnh Bình Dương, các mẫu nước được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước được chọn theo QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT. Kết quả nghiên cứu: Trong số 87 mẫu NUĐC có 56,3% mẫu NUĐC đạt tiêu chuẩn. Trong đó, chỉ tiêu vi sinh vật đạt 57,5%, kim loại nặng đạt 98,8%, lý hóa đạt 100%. Điều kiện về thiết kế nhà xưởng đạt (24,1%); Điều kiện nhà vệ sinh đạt (59,8%); Điều kiện con người đạt (62,1%); Vệ sinh bao bì đạt (60,9%). Trong 194 người sản xuất được khảo sát, tỉ lệ có kiến thức đúng về thực hành sản xuất (13,9%). Có mối liên quan giữa chất lượng nước uống đóng chai với điều kiện con người [PR=1,8; KTC95%(1,2 ‐ 2,8); p=0,015], dung tích vỏ chai [PR=1,5; KTC95%(1,1 ‐ 2,1); p=0,005] và vệ sinh bao bì [PR=1,9; KTC95% (1,1 ‐ 3,4; p=0,021). Kết luận: Thực trạng về điều kiện kiện vệ sinh cơ sở, con người và quá trình vệ sinh bao bì đạt thấp. Tỉ lệ NUĐC đạt theo tiêu chuẩn thấp, đặc biệt là chỉ tiêu vi sinh vật. Có mối liên quan dung tích vỏ chai và vệ sinh bao bì với chất lượng NUĐC. Từ khóa: Nước uống đóng chai, an toàn thực phẩm ABSTRACT THE STATUS OF FOOD SAFETY IN THE PRODUCTION FACILITIES OF BOTTLED WATER IN BINH DUONG PROVINCE 2013 Nguyen Van Dat * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 552 ‐ 559 Background: Nowadays, with the development of economy and society, the use of bottled water is more common. However, the bottled water is not always safe. Therefore, examining food safety status of bottled water in Binh Duong province, where there is a rapidly developing industry is necessary. Objectives: To identify the proportion of bottled water complied with food safety standards, the production facilities of bottled water complied with food safety standards and percentage of producers who have proper knowledge on food safety practice. Method:A cross ‐ sectional study included all 87 production facilities of bottled water in Binh Duong province was conducted. Water samples were selected by systematic random method. The indicator of water quality is selected by QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT. Results: Only 56.3% of the bottled water samples complied with food safety standards. In particular, the microorganic, heavy metal and physicochemical indicators were 57.5%, 100%, and 98.8% respectively. The * Chi Cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Bình Dương Tác giả liên lạc: BS.CKII Nguyễn Văn Đạt ĐT: 0918119493 Email: nguyendat1964@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 553 conditions of food safety at the production facilities were low: including toilet (59.8%); human (62.1%); hygiene packaging (60.9%). The producers had proper knowledge about production practices were very low (13.9%). There was an association between the quality of bottled water with the human condition [PR = 1, 8, 95% CI (1.2 to 2.8), p = 0.015], bottle capacity [PR = 1, 5, 95% CI (1.1 to 2.1), p = 0,005] and hygienic packaging [PR = 1, 9, 95% CI (1.1 to 3.4, p = 0.021). Conclusion: The hygiene conditions of the production facilities, human, and packaging were low. The bottled water samples complied with food safety standards was low, in particular, the microorganisms. There was an association between the quality of bottled water with bottle capacity and hygienic packaging. Keywords: Bottled water, food safety ĐẶT VẤN ĐỀ Nước là một thực phẩm cần thiết cho đời sống và nhu cầu sinh lý của cơ thể. Bên cạnh đó, chất lượng nước cũng đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của Y tế công cộng. Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế, xã hội thì việc sử dụng NUĐC đang ngày trở lên phổ biến ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Có nhiều lý do người tiêu dùng tìm đến NUĐC, trong đó có sự tiện lợi, tính thời trang, hương vị và thường được nhìn nhận là tinh khiết, sạch sẽ và có chất lượng tốt. Tuy nhiên, thực tế NUĐC không phải luôn luôn an toàn. Theo nghiên cứu điều tra chất lượng vi sinh vật và hóa học của nước đóng chai ở Sri Lanka, kết quả cho thấy 63% của các thương hiệu được kiểm tra vượt quá mức cho phép(2). Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 cho thấy chỉ có 42% mẫu NUĐC đạt tiêu chuẩn, báo cáo công tác kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm của Cục ATTP ‐ Bộ Y tế năm 2007 thì chất lượng NUĐC không đạt về vi sinh (E.coli, Coliform) 42,9%. Tỉnh Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, có tốc độ phát triển công nghiệp nhanh. Theo số liệu thống kê của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) Bình Dương đến tháng 12/2012 đã có 87 cơ sở sản xuất NUĐC. Năm 2012, qua báo cáo kết quả thanh kiểm tra 19 cơ sở sản xuất NUĐC có 28,3% cơ sở không đảm bảo điều kiện vệ sinh cơ sở, 42,1% mẫu nhiễm vi sinh vật, 15,7% mẫu không đạt chỉ tiêu về lý hóa, đây là con số đáng báo động về chất lượng NUĐC, bên cạnh đó cũng chưa có một nghiên cứu nào liên quan đến NUĐC trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Do đó, tiến hành nghiên cứu “Thực trạng vệ sinh An toàn thực phẩm cơ sở sản xuất nước uống đóng chai tại tỉnh Bình Dương năm 2013” nhằm đánh giá chất lượng NUĐC theo QCVN mới và thực trạng cơ sở sản xuất NUĐC để giúp cơ quan quản lý kịp thời có các giải pháp can thiệp, kiểm soát và hạn chế tình hình ô nhiễm chất lượng NUĐC. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ các đặc tính của cơ sở sản xuất NUĐC (Nguồn nước sử dụng, công suất sản xuất, thực hiện thủ tục hành chính: Chứng nhận đủ điều kiện ATTP, công bố chất lượng, chứng nhận HACCP). Xác định tỉ lệ cơ sở sản xuất NUĐC đạt các điều kiện ATTP về sản xuất NUĐC theo Thông tư số 16/2012/TT ‐ BYT. Xác định tỉ lệ người sản xuất NUĐC có kiến thức đúng về thực hành sản xuất. Xác định tỉ lệ NUĐC thành phẩm đạt chuẩn tại các cơ sở sản xuất NUĐC. Xác định mối liên quan giữa chất lượng NUĐC với điều kiện ATTP của cơ sở sản xuất NUĐC. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Mô tả cắt ngang. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Từ 01/01/2013 đến 30/9/2013, tại tỉnh Bình Dương. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 554 Đối tượng nghiên cứu Tất cả cơ sở sản xuất NUĐC trên địa bàn tỉnh Bình Dương; Tất cả nước uống đóng chai thành phẩm của các cơ sở sản xuất NUĐC; Tất cả người trực tiếp sản xuất NUĐC đang làm việc tại các khâu vệ sinh bao bì, chiết rót, đóng nắp thành phẩm tại cơ sở sản xuất NUĐC. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu Chọn toàn bộ 87 cơ sở sản xuất NUĐC trên địa bàn tỉnh để đánh giá thực trạng ATTP và tại mỗi cơ sở sản xuất NUĐC chọn ngẫu nhiên 01 mẫu NUĐC để đánh giá chất lượng. Khảo sát kiến thức về ATTP toàn bộ 194 đang người trực tiếp làm việc tại các cơ sở sản xuất NUĐC. Phương pháp phân tích số liệu Số liệu được nhập liệu bằng phần mềm EpiData 3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata 12.0. Sử dụng kiểm định χ2 xác định sự khác biệt 2 tỉ lệ. Dùng mô hình hồi quy Poisson để xác định mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ với thực trạng ATTP hiệu chỉnh cho các biến số nhiễu hoặc tương tác(0). Ước lượng mối liên quan bằng số đo kết hợp tỉ số tỉ lệ hiện mắc (PR). KẾT QUẢ ‐ BÀN LUẬN Đặc tính của cơ sở sản xuất nước uống đóng chai (n=87) Tỉ lệ cơ sở dùng nước giếng khoan (50,6%) để sản xuất NUĐC còn cao. Điều này có thể là do nhà sản xuất muốn giảm chi phí nên sử dụng nước giếng khoan vào quá trình sản xuất. Đa số các cơ sở sản xuất nước uống đóng chai là các cơ sở có công suất vừa và nhỏ, <5.000 lít/ngày (90,8%). Tỉ lệ cơ sở sản xuất nước uống đóng chai có giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP (98,6%) và có công bố chất lượng (97,7%) là cao. Kết quả này là phù hợp với báo cáo của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Bình Dương năm 2012. Tuy nhiên, chỉ có 2,3% cơ sở có chứng nhận HACCP, điều này có thể là do Luật ATTP cũng không bắt buộc cơ sở sản xuất NUĐC phải có chứng nhận này nên đa số các cơ sở chưa thực hiện hoặc không có đủ kinh phí để thực hiện. 2. Thực trạng an toàn thực phẩm cơ sở sản xuất nước uống đóng chai (n=87) Vị trí nhà xưởng Vị trí xây dựng nhà xưởng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước uống đóng chai vì nó có ảnh hưởng quan trọng đến môi trường sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy, vẫn còn 4,6% cơ sở gần các khu vực ô nhiễm như: Nhà vệ sinh, chuồng gia súc, đường giao thông, khu vực dễ ngập lụt. Điều này có thể là do chính sách khuyến khích phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp trong nước vừa và nhỏ của Ủy ban nhân dân tỉnh, các doanh nghiệp sản xuất NUĐC vẫn chưa phải tập trung vào các khu công nghiệp, chính vì vậy mà nhiều cơ sở sản xuất NUĐC hình thành tại nhiều khu vực khác nhau thậm chí là trong cả khu vực dân cư và nhà trọ, những nơi này thường điều kiện môi trường không đảm bảo cho hoạt động sản xuất. Thiết kế nhà xưởng Với tiêu chí đánh giá là cơ sở phải được thiết kế và xây dựng theo nguyên tắc một chiều và có diện tích và cơ cấu diện tích giữa các khu phải phù hợp với công suất (Khu vực sản xuất phải rộng rãi, vỏ chai, bình nước và các dụng cụ dùng để sản xuất nước không làm ảnh hưởng đến các đường nội bộ trong nhà máy và các hoạt động sản xuất) trong nghiên cứu này xác định được 78,3% cơ sở đạt về mặt thiết kế nhà xưởng. Điều này cũng hợp lý vì như đã nêu ở trên phần lớn các cơ sở này đã được chứng nhận đủ điều kiện ATTP và hai tiêu chí thiết kế theo nguyên tắc một chiều và diện tích không bị thay đổi theo thời gian hoặc bị xuống cấp. Kết cấu nhà xưởng Tỉ lệ cơ sở đạt về kết cấu nhà xưởng là rất thấp (24,1%). Trong đó, cơ sở chưa quan tâm đầu tư cho hệ thống phòng chống côn trùng, thiết kế mặt sàn khu vực sản xuất và tường khu vực sản xuất. Tỉ lệ này là thấp hơn so với kết quả thanh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 555 kiểm tra năm 2011 của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm, tỉ lệ đạt là 90%(3). Điều này có thể là do những tiêu chí này nếu định kỳ không được bảo dưỡng, tu sửa, nâng cấp thì sẽ bị xuống cấp. Bên cạnh đó, quá trình vệ sinh bề mặt tường nhà, nền nhà, hệ thống phòng chiết rót là một quá trình mang tính chất thường xuyên liên tục nên để thực hiện tốt các điểm này đòi hỏi người sản xuất phải có ý thức và trách nhiệm cao. Trang thiết bị dụng cụ: Điều kiện về trang thiết bị dụng cụ đạt là 79,3%. Để đánh giá điều kiện về trang thiết bị dụng nghiên cứu đã đánh giá theo 3 tiêu chí chính: Tiêu chí thứ nhất là các dụng cụ tiếp xúc với nước phải làm bằng vật liệu chuyên dùng cho thực phẩm, tất cả phải có chứng nhận tiêu chuẩn sản phẩm được phép dùng trong thực phẩm và phải được vệ sinh sạch sẽ, với tiêu chí này nghiên cứu xác định 86/87 cơ sở đạt, kết quả này là cao hơn so với nghiên cứu của Trần Thị Ánh Hồng, tại Bình Định năm 2011(9). Tiêu chí thứ 2 là dụng cụ chứa gom chất thải trong khu vực sản xuất phải đảm bảo vệ sinh, tương tự như tiêu chí 1 nghiên cứu này cũng tìm thấy tỉ lệ đạt là cao (89,7%). Tiêu chí thứ 3 (83,9%) là đánh giá về dụng cụ lọc nước, tiêu chí này do chuyên gia chuyên về ngành sản xuất nước uống đóng chai đánh giá, các quá trình được kiểm tra là: Làm mềm, khử khoáng; lọc thô; lọc thẩm thấu ngược; khử trùng bằng ozone. Hệ thống thoát nước: Hệ thống thoát nước đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm là tương đối thấp (77%), trong đó chủ yếu là hố chứa nước thải không đảm bảo vệ sinh. So với kết quả nghiên cứu của Trần Thị Ánh Hồng tại Bình Định, năm 2011 kết quả nghiên cứu này là thấp hơn (85%)(9). Sự khác biệt này là do khác biệt về tiêu chí đánh giá. Trong nghiên cứu này xác định cả hệ thống thoát nước trong và ngoài cơ sở, bao gồm cả việc đánh giá hố chứa nước thải. Điều kiện nhà vệ sinh Trong nghiên cứu này, về vị trí xây dựng các khu vực nhà vệ sinh cách khu vực sản xuất 5m có 97,7% cơ sở đạt, về mặt thiết kế cửa nhà vệ sinh không quay trực tiếp vào khu vực sản xuất (91,9%) cơ sở đạt. Kết quả này cũng tương tự với kết quả của Trần Thị Ánh Hồng tại Bình Định năm 2011(9).Tuy nhiên, về trang thiết bị trong nhà vệ sinh (Bồn rửa tay, xà bông, phương tiện làm khô tay) chỉ đạt 62,1%, đa phần các cơ sở không trang bị hoặc trang bị nhưng không đầy đủ các trang thiết bị cần thiết để vệ sinh cá nhân sau khi đi vệ sinh. Điều này là rất nguy hại vì người sản xuất không có điều kiện tốt để vệ sinh cá nhân đặc biệt là vệ sinh bàn tay. Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do người sản xuất thiếu kiến thức hoặc cũng có thể là do người chủ cơ sở tiết kiệm chi phí không trang bị. Điều kiện vệ sinh con người Với 2 tiêu chí đánh giá (Không mắc bệnh truyền nhiễm và thực hành vệ sinh cá nhân) nghiên cứu này chỉ tìm thấy 62,1% cơ sở đạt vệ sinh về mặt người sản xuất. Do đó, trong thời gian tới cần phải có biện pháp can thiệp nhằm nâng cao ý thức chấp hành cho chủ cơ sở và cho người sản xuất nhằm hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ ô nhiễm từ người sản xuất. Bên cạnh đó, tỉ lệ cơ sở có vệ sinh bao bì đạt tiêu chuẩn ATTP là thấp (60,9%). Trong đó, chủ yếu là do quá trình xúc rửa vỏ chai không đảm bảo vệ sinh. Vỏ chai sử dụng Chỉ có 36,8% cơ sở dùng vỏ chai sử dụng 1 lần (vỏ chai dưới 20 lít), đa số các cơ sở này là các cơ sở lớn có quy trình công nghệ tự động. Việc sử dụng vỏ chai 1 lần sẽ hạn chế được nguy cơ ô nhiễm từ quá trình xúc rửa vỏ chai, tuy nhiên sử dụng loại vỏ chai này sẽ làm tăng chi phí cho sản xuất do đó nhà sản xuất còn hạn chế sử dụng. Quy trình công nghệ Đa số các cơ sở sản xuất nước uống đóng chai có công nghệ sản xuất thủ công (86,2%). Chỉ có (13,8%) cơ sở áp dụng công nghệ sản xuất tự động. Kết quả này cũng hợp lý vì trong nghiên cứu này đa số các cơ sở có quy mô vừa và nhỏ, do đó quy trình công nghệ thủ công là chủ yếu. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 556 Tuy nhiên, quá trình sản xuất tự động là quá trình sản xuất khép kín, do đó sẽ hạn chế được tối đa được sự ô nhiễm chéo từ quá trình sản xuất do con người và môi trường gây ra. Để nâng cao chất lượng nước uống đóng chai trong thời gian tới thì cần có giải pháp chuyển đổi quy trình công nghệ từ thủ công qua công nghệ tự động để hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ ô nhiễm do qua trình sản xuất gây ra. Kiến thức của người sản xuất nước uống đóng chai (n=194) Kiến thức về khám sức khỏe Người sản xuất có kiến thức đúng về sức khỏe (Biết được định kỳ khám sức khỏe 1 lần/năm và biết được ít nhất 4 loại bệnh cần phải tạm thời nghỉ việc) là thấp (50,5%). Điều này cho thấy người sản xuất chưa có kiến thức đầy đủ về sức khỏe. Mặc dù họ đã biết là phải khám sức khỏe định kỳ nhưng cụ thể những bệnh nào cần phải tạm nghỉ việc thì người sản xuất chưa biết đầy đủ. Biểu đồ 1: Kiến thức về khám sức khỏe (n=194) Kiến thức về trang phục khi sản xuất Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người sản xuất đã biết được cần phải có mũ, áo, khẩu trang, găng tay (trên 85%) khi sản xuất nước uống đóng chai. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Tiêu Văn Linh tại Bà Rịa Vũng Tàu, năm 2009 (83,3%)(8). Tuy nhiên, chỉ có 68% người sản xuất biết cần phải có giày dép riêng trong khu vực chiết rót. Do dó, chỉ có 51,6% người sản xuất đúng về trang phục khi sản xuất. Kết quả nghiên này cho thấy các cơ sở sản xuất cần quan tâm hơn nữa các quy định về giày dép riêng trong khu vực chiết rót, nếu người sản xuất dùng chung giày dép cho tất cả các khâu sản xuất thì sẽ rất dễ gây ô nhiễm chéo giữa các công đoạn của sản xuất. Kiến thức về vệ sinh bàn tay Tỉ lệ người sản xuất có kiến thức đúng về vệ sinh tay là thấp (28,4%), trong đó người sản xuất chưa biết được cách thức rửa tay đúng tiêu chuẩn và các thời điểm cần phải rửa tay. Kết quả này là thấp hơn so với nghiên cứu trước đây của Tiêu Văn Linh tại Vũng tàu năm 2009 (97,1%)(8). Kết quả xét nghiệm nước (n=87) Chỉ tiêu kim loại nặng Để đánh giá kim loại nặng, nghiên cứu đánh giá các chỉ tiêu: Antimony, Arsen, Bari, Bor, Bromat, Cadimi, Crom, Đồng, Chì, Mangan, Thủy ngân, Molydben, Nicken, Selen. Kết quả xét nghiệm cho thấy mẫu NUĐC đạt chỉ tiêu kim loại nặng là 98,8%, đa số kim loại nặng đều nằm trong giới hạn cho phép theo QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT. Chỉ có chỉ tiêu Bromat không đạt. Tuy nhiên, mức độ vượt quá giới hạn của chỉ tiêu này là không cao (0,3mg/l). So với khu vực phía bắc, thì kết quả nghiên cứu này là tương đương so với nghiên cứu của Trần Thị Nga tại Hà Nam năm 2011, đa số các chỉ tiêu kim loại nặng đạt theo quy định chỉ có chỉ tiêu Pb đạt 94,7%(10). So với khu vực Đông Nam Bộ thì kết quả nghiên cứu này là thấp hơn so với nghiên cứu của Đặng Ngọc Chánh tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2008 (100%). Chỉ tiêu lý hóa Tất cả các chỉ tiêu lý hóa (Clor, Clorat, Clorit, Xyanid, Nitrat, Nitrit, Fluorid) đều nằm trong giới hạn cho phép theo QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT. Kết quả này là tương đương với nghiên cứu của Trần Thị Nga tại Hà Nam năm 2011(11)). Tuy nhiên, kết quả này là cao hơn so với nghiên cứu của Đặng Ngọc Chánh về khảo sát chất lượng nước uống đóng chai trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2006”(42%). Sự khác biệt này có thể là do khác biệt về địa bàn nghiên cứu và thời gian nghiên cứu. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 557 Chỉ tiêu vi sinh vật Bảng 1: Kết quả xét nhiệm chỉ tiêu vi sinh vật (n=87) Tên chỉ tiêu Tiêu chuẩn Đạtn (%) TV(KTV) Nhỏ nhất Lớn nhất Coliform tổng số 0 73(83,9) 65(20 - 76) 5 9,5.104 Streptococci feacal 0 86 (98,8) 5(5 - 5) 5 5 Pseudomonas aeruginosa 0 56 (64,4) 90(25 - 1.200) 2 5,5.104 Bào tử vi khuẩn kị khí khử sulfit 0 83 (95,4) 5(2 - 10) 1 13 Đạt tất cả chỉ tiêu trên 0 50 (57,5) - - - Ghi chú: TV: Trung vị; KTV: Khoảng tứ vị. Nhỏ nhất, lớn nhất, khoảng tứ vị và trung vị chỉ tính trên số mẫu không đạt ‐ Coliform tổng số: Có 83,9% mẫu NUĐC đạt chất lượng theo QCVN, so với nghiên cứu của Trần Thị Ánh Hồng năm 2011 tại khu vực miền trung (70%) và khu vực Đông Nam Bộ theo nghiên cứu của Đặng Ngọc Chánh tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 (68%) thì kết quả nghiên cứu này có tỉ lệ đạt về chỉ tiêu Coliform là cao. So với các nước trên thế giới, nghiên cứu này cũng mẫu NUĐC đạt về chỉ tiêu Coliform là cao hơn: nghiên cứu Kassenga, G. R ở Tanzania, năm 2007 (có 73,8% mẫu nước có coliform tổng số đạt)(6). ‐ Streptococci feacal: Chỉ có 1 mẫu NUĐC không đạt chỉ tiêu Streptococci feacal và có hàm lượng thấp (5 Streptococci feacal/100ml). Kết quả này là cao hơn so với nghiên cứu của Đặng Ngọc Chánh như đã nêu ở trên (Có 76% mẫu NUĐC đạt chỉ tiêu Streptococci feacal)(11). Nhìn chung chỉ tiêu Streptococci feacal trong các mẫu nước uống đóng chai tại thời điểm nghiên cứu là tương đối an toàn cho người sử dụng. ‐ Pseudomonas aeruginosa:Chỉ có 56/87 (64,4%) mẫu NUĐC có hàm lượng Pseudomonas aeruginosa đạt theoquy định. So với các nghiên cứu được tiến hành tại Việt Nam và trên thế giới thì nghiên cứu này có tỉ lệ đạt thấp hơn: nghiên cứu tại khu vực tỉnh Bình Định năm 2011 (98%), tỉnh Hà Nam năm 2011 (94,7%), nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 có kết quả là (84,7%), nghiên cứu được tiến hành ở Trinidad năm 2003 có 92,4% mẫu nước uống đóng chai đạt chỉ tiêu Pseudomonas aeruginosa(6). ‐ Bào tử vi khuẩn kị khí khử sulfit: Có 95,4% mẫu NUĐC có hàm lượng bào tử vi khuẩn kị khí khử sulfit đạt theo quy định, kết quả này là tương đương với các nghiên cứu như đã nêu ở trên và nguy cơ ô nhiễm chỉ tiêu này là tương đối thấp. Kết quả xét nghiệm chung cho tất cả chỉ tiêu Tỉ lệ mẫu nước uống đóng chai đạt tiêu chuẩn theo QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT là thấp, 56,3%. Kết quả này phù hợp với kết quả khảo sát của Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh (Năm 2006 chỉ có 51% mẫu nước đạt tiêu chuẩn TCVN 6096:2004; năm 2007 tỉ lệ mẫu NUĐC đạt tiêu chuẩn là 45,4% và năm 2008 chỉ có 43,8% mẫu NUĐC được thử nghiệm đạt tiêu chuẩn(6). Điều này cho thấy, chất lượng NUĐC trên địa bàn tỉnh Bình Dương đang là vấn đề cấp thiết và cần có chính sách can thiệp. Chất lượng nước uống đóng chai và các yếu tố liên quan Những biến số được đưa vào phân tích đa biến bao gồm những biến số có mối liên quan có ý nghĩa thống kê trong phân tích đơn biến và những biến số trong phân tích đơn biến có giá trị p từ 0,05 đến dưới 0,25. Do đó, những biến số đưa vào phân tích đa biến gồm: Biến số phụ thuộc: Chất lượng nước; Biến số độc lập: Trang thiết bị dụng cụ, kết cấu nhà xưởng, nhà vệ sinh, vệ sinh bao bì, điều kiện con người, hệ thống thoát nước, nguồn nước sử dụng; Biến số kiểm soát: Dung tích vỏ chai, quy trình công nghệ. Sau khi khử các yếu tố gây nhiễu bằng mô hình hồi Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 558 quy Poisson(0) và kiểm định mô hình có kết quả như sau: Bảng 2. Chất lượng nước và các yếu tố liên quan Các đặc tính PR KTC95% P Điều kiện con người đạt 1,8 1,1 - 2,8 0,015 Vệ sinh bao bì đạt 1,9 1,1 - 3,4 0,021 Dung tích vỏ chai <20 lít (Vỏ chai dùng 1 lần) 1,5 1,1 - 2,1 0,005 Kết cấu nhà xưởng đạt 1,2 0,9 - 1,6 0,09 Trang thiết bị dụng cụ đạt 2,3 0,9 - 6,1 0,08 Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa chất lượng nước uống với điều kiện con người [PR=1,8, KTC95% (1,1 ‐ 2,8), P=0,015]. Cơ sở đạt điều kiện con người có tỉ lệ mẫu NUĐC đạt cao hơn 1,8 lần so với cơ sở không đạt điều kiện con người. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa chất lượng NUĐC với vệ sinh bao bì [PR=1,9 KTC95% (1,1 ‐ 3,4), p=0,0021]. Kết quả này là phù hợp với nghiên cứu của Trần Thị Ánh Hồng như đã nêu ở trên(9). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa chất lượng NUĐC với dung tích vỏ chai [PR=1,5; KTC95% (1,1 ‐ 2,11), p=0,005]. Trong nghiên cứu này chưa tìm thấy mối liên quan giữa: kết cấu nhà xưởng (p=0,09) và trang thiết bị dụng cụ (p=0,08) với chất lượng nước uống đóng chai. KẾT LUẬN Số lượng cơ sở dùng nguồn nước giếng khoan để sản xuất NUĐC còn nhiều (50,6%); Số lượng cơ sở áp dụng các quy trình quản lý chất lượng còn rất thấp (2,3%); Đa số cơ sở sản xuất NUĐC có công suất nhỏ dưới 5.000 lít/ngày (90,8%), dùng vỏ chai trên 20 lít (63,2%) và sản xuất nước uống đóng chai theo công nghệ thủ công (86,2%). Các điều kiện về an toàn thực phẩm đạt còn thấp: Điều kiện về thiết kế nhà xưởng đạt (24,1%); Điều kiện nhà vệ sinh đạt (59,8%); Điều kiện con người đạt (62,1%); Vệ sinh bao bì đạt (60,9%). Người sản xuất có kiến thức đúng về thực hành sản xuất là rất thấp (13,9%), đặc biệt là kiến thức đúng về vệ sinh bàn tay (28,4%). Tỉ lệ mẫu nước uống đóng chai đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm theo QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT là thấp (56,3%). Trong đó, chỉ tiêu vi sinh vật chỉ đạt 57,5%. Trong đó, ô nhiễm nhiều nhất là Coliform tổng số và Pseudomonas aeruginosa. Có mối liên quan giữa điều kiện con người, dung tích vỏ chai sử dụng và vệ sinh bao bì với chất lượng nước uống đóng chai. KIẾN NGHỊ Về phía cơ quan quản lý ‐ Công tác truyền thông: Vận động, khuyến khích các cơ sở sản xuất NUĐC hạn chế sử dụng nước giếng khoan vào quá trình sản xuất, có chính sách hỗ trợ áp dụng các quy trình quản lý chất lượng vào quá trình sản xuất; Khuyến khích các các cơ sở dùng vỏ chai chỉ sử dụng một lần; Nâng cao kiến thức về thực hành sản xuất, đặc biệt là kiến thức đúng về vệ sinh bàn tay cho người sản xuất nước uống đóng chai. ‐ Công tác thanh, kiểm tra: Tăng cường thanh, kiểm tra các cơ sở sản xuất NUĐC không để các cơ sở có chất lượng nước không đạt và không đủ điều kiện an toàn thực phẩm tiếp tực sản xuất nước uống đóng chai, đặc biệt là các điều kiện: Điều kiện về thiết kế nhà xưởng, điều kiện nhà vệ sinh; điều kiện con người;vệ sinh bao bì. ‐ Công tác giám sát nguy cơ ô nhiễm: Định kỳ tổ chức giám sát ô nhiễm thực phẩm nước uống đóng chai và đặc biệt chú ý giám sát các chỉ tiêu vi sinh vật, đặc biệt là Coliform tổng số và Pseudomonas aeruginosa. Về phía cơ sở sản xuất Từng bước áp dụng các quy trình quản lý chất lượng vào quá trình sản xuất; Thường xuyên tổ chức hướng dẫn cho người sản xuất nâng cao kiến thức và thực hành trong quá trình sản xuất; Thường xuyên nâng cấp, bảo dưỡng các điều kiện về thiết kế nhà xưởng; điều kiện nhà vệ sinh, điều kiện con người, vệ sinh bao bì; Định kỳ giám sát các chỉ tiêu vi sinh vật, đặc biệt là Coliform tổng số và Pseudomonas aeruginosa. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 559 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Barros AJ, Hirakata VN (2003) Alternatives for logistic regression in cross ‐ sectional studies: an empirical comparison of modelsthat directly estimate the prevalence ratio.BMC Medical Research Methodology. 3 (20) 123 ‐ 133 2. Bharath JM. Mosodeen S. Motilal S (2003) Microbial quality of domestic and imported brands of bottled water in Trinidadʺ. International journal of food microbiology. 81 (1) 53 ‐ 3. Chi cục ATVSTP (2011) ʺBáo cáo công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2011ʺ. Lưu Hành nội bộ. Sở Y tế Bình Dương. Tr. 3 ‐ 8. 4. Cục ATVSTP (2007) Tài liệu hội nghị tổng kết chương trình mục tiêu quốc gia VSATTP năm 2007ʺ. Lưu hành nội bộ. Bộ Y tế. Tr. 7 ‐ 9. 5. Herath ATCL, Abayasekara R, Chandrajith NKA (2012)Temporal variation of microbiological and chemical quality of noncarbonated bottled drinking water sold in Sri Lankaʺ. Journal of food science. 77 (3) 160 ‐ 164. 6. Kassenga GR. (2007) The health ‐ related microbiological quality of bottled drinking water sold in Dar es Salaam. Tanzania. Journal of water and health. No 5 (1). page179 ‐ 185. 7. Labo phân tích ‐ Khoa sức khỏe môi trường (2009) Chất lượng nước uống đóng chai trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến năm 2008ʺ. Kỷ yếu hội nghị khoa học an toàn thực phẩm năm 2009. Cục ATVSTP. Tr 261 ‐ 264. 8. Tiêu Văn Linh (2009) Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm ở bếp ăn tập thể trường mẫu giáo ‐ tiểu học basn trú tỉnh bà Rịa Vũng Tàu năm 2009. Luận văn tốt nghiệp CKII. Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh. Tr 56 ‐ 85. 9. Trần Thị Ánh Hồng (2012). Nghiên cứu chất lượng nước uống đóng chai về mặt vi sinh vật trên địa bàn tỉnh Bình Định năm 2011. Tạp chí y học thực hành. 842. 135 ‐ 147. 10. Trần Thị Thanh Nga (2012) Khảo sát chất lượng nước uống đóng chai trên địa bàn tỉnh Hà Nam năm 2011. Tạp chí y học thực hành. 842.119 ‐ 128. 11. Vũ Trọng Thiện, Đặng Ngọc Chánh, Trần Thị Nga (2008) ʺKhảo sát chất lượng nước uống đóng chai trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minhʺ. Tạp chí Y học Tp Hồ Chí Minh. 12 (4). 192 ‐ 197. Ngày nhận bài báo: 17/5/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24/6/2014 Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
File đính kèm:
- thuc_trang_ve_sinh_an_toan_thuc_pham_cua_co_so_san_xuat_nuoc.pdf