Tóm tắt Luận án Nghiên cứu bảo tồn quần xã thú móng guốc chẵn (Artiodactyla) ở Khu bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai, tỉnh Đồng Nai

Các loài thú móng guốc chẵn (MGC) có vai trò rất quan trọng trong các hệ

sinh thái tự nhiên. Chúng là vật tiêu thụ đầu tiên, chuyển hóa các chất dinh dưỡng

từ thực vật sang các chất dinh dưỡng động vật. Các loài thú MGC cũng có giá trị

kinh tế rất lớn.

Ở Việt Nam, đã ghi nhận được 19 loài thú MGC thuộc 12 giống và 5 họ.

Tuy nhiên, hiện nay khu hệ thú MGC của Việt Nam đã bị suy giảm mạnh cả về

phạm vi vùng cư trú và độ phong phú cá thể. Đã có 2 loài đã bị tuyệt chủng trong

thiên nhiên gồm Bò xám (Bos sauveli), Hươu sao (Cervus nippon) và 15 loài

đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau phải đưa Sách Đỏ Việt Nam.

Vì vậy, đối với Việt Nam, bảo tồn các loài thú MGC và sinh cảnh của chúng

đang là vấn đề hết sức cấp thiết.

Khu bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai (KBTTN-VN Đồng Nai)

được thành lập năm 2004, tổng diện tích là 100.304 ha với 67.904 ha đất lâm

nghiệp và 32.400 ha đất ngập nước hồ Trị An (trước 2012, có tên là Khu bảo

tồn thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu). Có địa hình khá bằng phẳng được che

phủ bởi thảm rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh và bán thường xanh, KBTTNVH Đồng Nai là nơi cư trú của 8 loài thú MGC. Khu hệ thú MGC ở đây còn rất

ít được nghiên cứu. Ngoài một số cuộc điều tra thống kê thành phần loài, chưa

có công trình nghiên cứu nào có tính hệ thống và chuyên sâu về sinh học, sinh

thái và bảo tồn các loài thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai được thực hiện.

Xuất phát từ sự cấp thiết phải bảo tồn và phát triển các loài thú MGC ở Việt

Nam nói chung và ở KBTTN-VH Đồng Nai nói riêng, tôi chọn thực hiện Luận án

“Nghiên cứu bảo tồn quần xã thú móng guốc chẵn (Artiodactyla) ở Khu bảo tồn

thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai, tỉnh Đồng Nai” nhằm cung cấp các thông tin và

tư liệu đầy đủ và cập nhật nhất về tình trạng quần thể các loài, đặc điểm sinh học,

sinh thái một số loài, các đe dọa đến quần thể và sinh cảnh của chúng để đề xuất các

giải pháp quản lý, bảo tồn phù hợp.

pdf 27 trang dienloan 4160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Nghiên cứu bảo tồn quần xã thú móng guốc chẵn (Artiodactyla) ở Khu bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai, tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu bảo tồn quần xã thú móng guốc chẵn (Artiodactyla) ở Khu bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai, tỉnh Đồng Nai

Tóm tắt Luận án Nghiên cứu bảo tồn quần xã thú móng guốc chẵn (Artiodactyla) ở Khu bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai, tỉnh Đồng Nai
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP 
---------------------------------- 
NGUYỄN HOÀNG HẢO 
NGHI N CỨU ẢO T N QUẦN TH M NG GU C CH N 
(Artiodactyla) Ở KHU ẢO T N THI N NHI N - 
VĂN H A Đ NG NAI, TỈNH Đ NG NAI 
Chuyên ngành: Lâm sinh 
Mã số: 62 62 02 05 
T M TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LÂM NGHIỆP 
HÀ NỘI, 2016 
- Công trình được hoàn thành tại: 
Trƣờng Đại học Lâm nghiệp - Việt Nam 
- Người hướng dẫn Khoa học: PGS.TS Nguyễn uân Đặng. 
- Phản biện 1: TS. Đồng Thanh Hải 
 Đơn vị công tác: Trường Đại học Lâm nghiệp 
- Phản biện 2: TS. Lê Đức Minh 
 Đơn vị công tác: Trường Đại học Quốc gia Hà Nôi 
Luận án đƣợc bảo vệ: Tại Hội đồng đánh giá luận án cấp cơ 
sở họp tại Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam. 
Vào hồi 14 giờ 00 phút, ngày 12 tháng 11 năm 2015 
 3 
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn Luận án 
Các loài thú móng guốc chẵn (MGC) có vai trò rất quan trọng trong các hệ 
sinh thái tự nhiên. Chúng là vật tiêu thụ đầu tiên, chuyển hóa các chất dinh dưỡng 
từ thực vật sang các chất dinh dưỡng động vật. Các loài thú MGC cũng có giá trị 
kinh tế rất lớn. 
Ở Việt Nam, đã ghi nhận được 19 loài thú MGC thuộc 12 giống và 5 họ. 
Tuy nhiên, hiện nay khu hệ thú MGC của Việt Nam đã bị suy giảm mạnh cả về 
phạm vi vùng cư trú và độ phong phú cá thể. Đã có 2 loài đã bị tuyệt chủng trong 
thiên nhiên gồm Bò xám (Bos sauveli), Hươu sao (Cervus nippon) và 15 loài 
đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau phải đưa Sách Đỏ Việt Nam. 
Vì vậy, đối với Việt Nam, bảo tồn các loài thú MGC và sinh cảnh của chúng 
đang là vấn đề hết sức cấp thiết. 
Khu bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai (KBTTN-VN Đồng Nai) 
được thành lập năm 2004, tổng diện tích là 100.304 ha với 67.904 ha đất lâm 
nghiệp và 32.400 ha đất ngập nước hồ Trị An (trước 2012, có tên là Khu bảo 
tồn thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu). Có địa hình khá bằng phẳng được che 
phủ bởi thảm rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh và bán thường xanh, KBTTN-
VH Đồng Nai là nơi cư trú của 8 loài thú MGC. Khu hệ thú MGC ở đây còn rất 
ít được nghiên cứu. Ngoài một số cuộc điều tra thống kê thành phần loài, chưa 
có công trình nghiên cứu nào có tính hệ thống và chuyên sâu về sinh học, sinh 
thái và bảo tồn các loài thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai được thực hiện. 
Xuất phát từ sự cấp thiết phải bảo tồn và phát triển các loài thú MGC ở Việt 
Nam nói chung và ở KBTTN-VH Đồng Nai nói riêng, tôi chọn thực hiện Luận án 
“Nghiên cứu bảo tồn quần xã thú móng guốc chẵn (Artiodactyla) ở Khu bảo tồn 
thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai, tỉnh Đồng Nai” nhằm cung cấp các thông tin và 
tư liệu đầy đủ và cập nhật nhất về tình trạng quần thể các loài, đặc điểm sinh học, 
sinh thái một số loài, các đe dọa đến quần thể và sinh cảnh của chúng để đề xuất các 
giải pháp quản lý, bảo tồn phù hợp. 
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án 
 Ý nghĩa khoa học: Luận án cung cấp các dẫn liệu khoa học về tình trạng 
quần thể và đặc điểm sinh cảnh của các loài thú MGC trong hệ sinh thái rừng 
 4 
nhiệt đới thường xanh và bán thường xanh đất thấp đặc trưng cho vùng Đông 
Nam Bộ của Việt Nam và đặc điểm sinh học, sinh thái và bảo tồn của loài Cheo 
cheo kanchil (Tragulus kanchil) có giá trị bảo tồn và kinh tế cao nhưng còn ít 
được nghiên cứu. 
 Ý nghĩa thực tiễn: Các kết quả của Luận án là cơ sở khoa học quan trọng 
để xây dựng các giải pháp quản lý, bảo tồn và phát triển các loài thú MGC ở 
KBTTN-VH Đồng Nai nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Các giải pháp quản 
lý, bảo tồn do Luận án đề xuất là những hướng dẫn cụ thể cho Ban Quản lý 
KBTTN-VH Đồng Nai thực hiện các hoạt động quản lý, bảo tồn đa dạng sinh 
học trong phạm vi KBTTN-VH Đồng Nai và có thể áp dụng cho Vườn Quốc 
gia Cát Tiên và các Khu bảo tồn lân cận khác. 
3. Đóng góp mới của luận án 
Luận án đã cung cấp đủ số liệu khoa học tin cậy để khẳng định có 6 loài 
thú MGC đang sinh sống tại KBTTN-VH Đồng Nai và 2 loài thú MGC có thể 
không còn cư trú tại đây; đồng thời, cung cấp thông tin cập nhật và đầy đủ nhất 
về hiện trạng quần thể của mỗi loài trong Khu bảo tồn. 
Luận án đã xác định 4 dạng sinh cảnh chính cho thú MGC tại KBTTN-VH Đồng 
Nai, mô tả chi tiết đặc điểm của mỗi dạng sinh cảnh, tình trạng sử dụng sinh cảnh của 
mỗi loài thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai và xác định được 18 điểm sinh cảnh 
đặc biệt quan trọng cho thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai; chỉ ra sự khác biệt 
trong hình thức sử dụng sinh cảnh của mỗi loài. 
Luận án là công trình đầu tiên xác định một cách có hệ thống và khoa học 
vị trí phân loại của quần thể Cheo cheo tại KBTTN-VH Đồng Nai thuộc loài 
Cheo cheo kanchil (Tragulus kanchil) thông qua các số liệu về hình thái ngoài, 
hình thái sọ và trình tự ADN gen thể; cung cấp nhiều thông tin, tư liệu khoa học 
mới về đặc điểm sinh học và sinh thái của quần thể Cheo cheo kanchil tại 
KBTTN-VH Đồng Nai. 
Luận án là công trình đầu tiên đưa ra các giải pháp quản lý, bảo tồn cụ thể 
chi tiết cho từng loài thú MGC đang sinh sống trong KBTTN-VH Đồng Nai và 
cải tạo sinh cảnh của chúng. Các giải pháp này cũng có giá trị sử dụng đối với 
các quần thể thú MGC ở VQG Cát Tiên và các Khu bảo tồn khác của Việt 
Nam. 
 5 
Chƣơng 1: 
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHI N CỨU 
1.1. Khái quát về hệ thống phân loại thú MGC 
1.1.1. Đặc điểm và hệ thống phân loại bộ móng guốc chẵn (Artiodactyla) 
 Thú MGC gồm các loài thú có kích thước cơ thể từ rất lớn tới trung bình, 
các chân đều mang số ngón chẵn (2 hoặc 4 ngón) và có guốc. Thú MGC được 
chia thành 2 nhóm: nhóm có sừng và nhóm không có sừng. 
 Thú MGC ăn thực vật và có dạ dày thích nghi với việc tiêu hóa chất 
xenluloza thực vật. Trong dạ dày có hệ sinh vật và ký sinh trùng cộng sinh 
phong phú giúp phân hủy xenluloza. Đa số các loài có đặc điểm nhai lại thức 
ăn. 
Theo Wilson et al. (2005), bộ móng guốc chẵn (Artiodactyla) trên thế giới 
có khoảng 240 loài thuộc 89 giống và 10 họ. 
1.1.2. Thành phần loài khu hệ thú MGC Việt Nam 
Theo thống kê gần đây nhất của Đặng Ngọc Cần và cs. (2008), khu hệ thú 
MGC ở Việt Nam có 19 loài thuộc 12 giống và 5 họ (Bảng 1.2). Trong đó, có 1 
loài đã bị tuyệt chủng (Bò xám Bos sauveli), một loài đã bị tuyệt chủng trong 
thiên nhiên (Hươu sao Cervus nippon) và một loài có vị trí phân loài chưa rõ 
ràng (Lợn rừng trường sơn Sus bucculentus) (Groves et al. 2008). 
Bảng 1.2: Thành phần loài thú MGC ở Việt Nam 
TT Tên Việt Nam Tên khoa học 
 1. Họ Lợn Suidae Gray, 1821 
1. Lợn rừng trường sơn Sus bucculentus Heude, 1892 
2. Lợn rừng Sus scrofa Linnaeus, 1758 
 2. Họ Cheo cheo Tragulidae Milne-Edwards, 1864 
3. Cheo cheo kanchil Tragulus kanchil (Raffles, 1821) 
4. Cheo cheo lưng bạc Tragulus versicolor Thomas, 1910 
 3. Họ Hƣơu xạ Moschidae Gray, 1821 
5. Hươu xạ Moschus berezovskii Flerov, 1929 
 4. Họ Hƣơu, Nai Cervidae Goldfuss, 1820 
6. Hươu vàng Axis porcinus (Zimmermann, 1780) 
 6 
TT Tên Việt Nam Tên khoa học 
7. Hươu sao Cervus nippon Temminck, 1838 
8. Mang thường, hoẵng Muntiacus muntjak (Zimmermann, 1780) 
9. Mang ruzơven Muntiacus rooseveltorum Osgood, 1932 
10. Mang trường sơn Muntiacus truongsonensis (Giao et al., 1997) 
11. Mang lớn Muntiacus vuquangensis (Tuoc et al., 1994) 
12. Nai cà tông Rucervus eldii (Mclelland, 1842) 
13. Nai đen Rusa unicolor (Kerr, 1792) 
 5. Họ Trâu bò Bovidae Gray, 1821 
14. Bò tót Bos frontalis Lambert, 1804 
15. Bò rừng Bos javanicus d’Alton, 1823 
16. Bò xám
Bos sauveli Urbain, 1937 
17. Trâu rừng Bubalus bubalis (Linnaeus, 1758) 
18. Sao la Pseudoryx nghetinhensis Dung et al., 1993 
19. Sơn dương Capricornis milneedwardsii David, 1869 
Ghi chú: hệ thống phân loại theo Wilson & Reeder 2005. 
Hiện nay, vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu động vật về 
hệ thống phân loại và thành phần loài Cheo cheo ở Việt Nam. Nhiều tác giả 
(Van Peenen et al. 1969, Đặng Huy Huỳnh 1986, Corbet et al. 1992, Đặng Huy 
Huỳnh và cs. 1994, Đặng Huy Huỳnh và cs. 2008,..) cho rằng ở Việt Nam chỉ 
có một giống Cheo cheo (Tragulus) với 2 loài: Cheo cheo nam dương Tragulus 
javanicus Osbeck, 1765 (tên đồng vật là Tragulus kanchil Gray, 1861) và Cheo 
cheo napu hay Cheo cheo lớn Tragulus napu F. Cuvier, 1822 (Tên đồng vật là: 
Tragulus versicolor Thomas 1910). Một số tác giả khác (Đặng Ngọc Cần và cs. 
2008, Nguyễn Xuân Đặng và cs. 2009) lại cho rằng ở Việt Nam có 2 loài Cheo 
cheo là: Tragulus kanchil và Tragulus versicolor. 
Meijaard & Groves (2004) thẩm định lại hệ thống phân loại giống Cheo 
cheo (Tragulus) dựa trên phân tích nhiều chỉ tiêu hình thái sọ. Theo hệ thống 
phân loại này, Tragulus javanicus, Tragulus kanchil, Tragulus napu và 
Tragulus versicolor là những loài độc lập. 
Như vậy, theo Meijaard và Grove (2004), loài Tragulus javanicus không 
có ở Việt Nam, thay vào đó là loài Tragulus kanchil và loài Tragulus napu 
 7 
không có ở Việt Nam, thay vào đó là loài Tragulus versicolor. 
Loài Tragulus kanchil có kích thước cơ thể lớn hơn loài Tragulus 
versicolor và không có ở Nam Dương, vì vậy, tên tiếng Việt "Cheo cheo nam 
dương" hay "Cheo cheo nhỏ " dùng cho loài này đều không phù hợp, Luận án 
đề nghị dùng tên "Cheo cheo kanchil" thay thế. 
Cheo cheo kanchil là loài thú quý, hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 
2007 (bậc VU) và có giá trị kinh tế cao, nhưng còn rất ít được nghiên cứu về 
sinh học, sinh thái. Vì vậy, Luận án đã nghiên cứu sâu về sinh học, sinh thái của 
Cheo cheo kanchil làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các giải pháp quản lý, 
bảo tồn hiệu quả và nhân nuôi phát triển loài thú quý, hiếm này. 
1.2. Tình trạng bảo tồn của thú MGC 
1.2.1. Tình trạng bảo tồn của thú MGC trên thế giới 
 Danh lục Đỏ IUCN (2015) đã thống kê có 8 loài thú MGC đã bị tuyệt 
chủng và 122 loài khác đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau: 11 
loài ở mức “rất nguy cấp – CR”, 40 loài ở mức “nguy cấp – EN”, 33 loài ở mức 
“sẽ nguy cấp – VU”, 20 loài ở mức “gần bị đe dọa – LR, nt” và 18 loài ở mức 
“thiếu dữ liệu – DD”. 
1.2.2. Tình trạng bảo tồn của thú MGC ở Việt Nam 
 Trong số 19 loài thú MGC ghi nhận ở Việt Nam có tới 14 loài đang bị đe 
dọa tuyệt chủng và đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (2007), chưa kể đến 3 
loài rất hiếm trong tự nhiên nhưng chưa được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam là 
Lợn rừng trường sơn (Sus bucculentus), Mang ruzơven (Muntiacus 
rooseveltorum) và Mang pù hoạt (Muntiacus puhoatensis). Ba loài này đã được 
đưa vào Danh lục Đỏ IUCN (2015) ở mức “thiếu dữ liệu – DD”. Đây là lời 
cảnh báo khẩn cấp cho tình trạng bảo tồn của khu hệ thú MGC Việt Nam. 
1.3. Một số đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của thú MGC 
1.3.1. Phân bố và sinh cảnh của thú MGC 
 Các loài thú MGC có phân bố rộng và thích nghi với rất nhiều dạng sinh 
cảnh khác nhau trên trái đất. Ở Việt Nam các loài thú MGC sống và hoạt động 
chủ yếu trong rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh và các trảng cỏ cây bụi trên núi 
đất có bình độ thấp và ít dốc, một số loài sinh sống cả rừng trên núi đá, rừng 
tràm và rừng ngập mặn. Các loài khác nhau thường có khu vực sống khác nhau 
 8 
nhưng nhìn chung các loài thú MGC của Việt Nam không đòi hỏi khắt khe về 
điều kiện sống. 
1.3.2. Đặc điểm dinh dưỡng và thức ăn 
Họ Lợn (Suidae) và họ Lợn Taya (Tayassuidae): ăn tạp, có dạ dày đơn 
(một ngăn) và không nhai lại. Các loài thú MGC khác: chuyên ăn thực vật, có 
dạ dày phức và ruột tịt nhỏ; sử dụng hệ vi sinh vật sống trong dạ dày để phân 
hủy xenlulô và lignin; tất cả đều có tập tính nhai lại thức ăn. Họ Cheo cheo có 
dạ dày 3 ngăn, các họ còn lại có dạ dày 4 ngăn. Đa số các loài thú MGC có nhu 
cầu bổ sung khoáng chất ngoài thiên nhiên từ các điểm mỏ khoáng, gio cháy 
của cây cỏ. Thú càng lớn như Bò tót, Bò rừng, Hươu, Nai nhu cầu bổ sung 
muối khoáng càng cao, ngoại trừ các loài họ Lợn, nhu cầu thấp hơn vì ăn tạp. 
1.3.3. Sinh sản 
Hầu hết các loài chỉ sinh con mỗi năm một lứa, Lợn rừng có thể sinh 4-8 
con mỗi lứa, các loài thú MGC khác thường chỉ sinh 1-2 con mỗi năm. Thời 
gian mang thai từ 3-10 tháng. Chu kỳ động dục từ 20-30 ngày. Mùa sinh sản 
thường trùng với thời gian bắt đầu sinh trưởng mạnh của thực vật. 
1.3.4. Tập tính 
Các loài họ Trâu bò hoạt động chủ yếu vào ban ngày nhất là sáng sớm và 
chiều tà, các loài họ Hươu nai, họ Cheo cheo, họ Hươn xạ hoạt động chủ yếu 
vào ban đêm, các loài họ Lợn hoạt động kiếm ăn cả ban ngày và ban đêm. 
Rất ít loài MGC sống đơn lẻ, hầu hết các loài đều sống theo đàn, ngoại trừ 
các loài Mang, Hươu xạ và Cheo cheo. Các loài thú MGC có các loại "vũ khí" 
khác nhau để đấu tranh sinh tồn, chủ yếu là đấu tranh giữa các cá thể trong cùng 
loài. Vũ khí của các loài Hươu nai và các loài Trâu bò là sừng, của các loài 
Lợn, Cheo cheo là nanh. 
1.4. Tình hình nghiên cứu thú MGC ở Vệt Nam và vùng nghiên cứu 
1.4.1. Tình hình nghiên cứu thú MGC ở Việt Nam 
 Nghiên cứu thú MGC ở Việt Nam được bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 đầu thế 
kỷ 20 cùng với lịch sử nghiên cứu thú (Mammalia) của Việt Nam. Các nghiên 
cứu tập trung vào 2 hướng chính là: thống kê thành phần loài thú MGC ở các 
vùng miền và nghiên cứu sinh học, sinh thái của một số loài có giá trị kinh tế 
hoặc giá trị bảo tồn cao. Về thống kê thành phần loài có các công trình lớn như: 
 9 
 Van Peenen và cs. (1969), Đặng Huy Huỳnh và cs. (1981), Đào Văn Tiến 
(1985), Đặng Huy Huỳnh và cs, Đặng Ngọc Cần và cs. (2008). 
 Nghiên cứu về sinh học, sinh thái và bảo tồn các loài thú MGC ở Việt 
Nam không có nhiều, một số công trình nghiên cứu đáng chú ý nhất thuộc 
hướng này có: Lê Hiền Hào (1973), Đặng Huy Huỳnh (1986), Đặng Huy Huỳnh 
và cs. (2008, 2010). 
 Nhìn chung, đã có một số công trình nghiên cứu về sinh học, sinh thái của 
một số loài thú MGC ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa nhiều và 
đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác bảo tồn và sử dụng bền vững 
các loài thú MGC nguy cấp, quý, hiếm và có giá trị kinh tế, bảo tồn ở Việt 
Nam. 
1.4.2. Tình hình nghiên cứu thú MGC ở vùng nghiên cứu và lân cận 
 Công tác nghiên cứu thú MGC ở KBTTN-VH Đồng Nai và vùng lân cận 
mới chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát phát hiện thành phần loài và xác định các 
đe dọa đối với các loài và sinh cảnh, các nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh 
thái và bảo tồn của các loài thú MGC trong vùng nghiên cứu còn rất hạn chế, 
trừ một số nghiên cứu về loài Bò tót. Đây là một trở ngại đáng kể cho công tác 
quản lý, bảo tồn thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai và vùng lân cận. 
Chƣơng 2: 
MỤC TI U, NỘI DUNG, Đ I TƢỢNG, PHẠM VI 
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU 
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 
 Mục tiêu chung của Luận án là cung cấp dữ liệu khoa học làm cơ sở xây 
dựng các giải pháp bảo tồn và phát triển quần thể các loài thú MGC ở KBTTN-
VH Đồng Nai. 
2.2. Nội dung nghiên cứu 
- Điều tra hiện trạng quần thể các loài thú MGC trong vùng nghiên cứu. 
- Nghiên cứu đặc điểm sinh cảnh và sự phân bố theo sinh cảnh của thú 
MGC trong vùng nghiên cứu. 
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái của loài Cheo cheo kanchil có 
giá trị bảo tồn cao trong vùng nghiên cứu. 
 10 
- Điều tra ... ở Việt Nam. Vào tháng 6/2009, có 3 cá thể cái Cheo cheo kanchil 
1 tháng tuổi được đưa vào nuôi tại Trung tâm cứu hộ của KBTTN-VH Đồng 
Nai. Đến tháng 7/2011, các cá thể này sinh con lứa đầu. Như vậy, tuổi thành 
thục sinh sản của Cheo cheo kanchil khoảng 2 năm tuổi. 
• Tranh giành con cái và giao phối 
Hoạt động đánh nhau, tranh giành Cheo cheo kanchil cái thường xảy ra 
vào khoảng thời gian từ 7 giờ sáng đến 14 giờ chiều. Hoạt động giao phối của 
Cheo cheo kanchil xảy ra vào mùa khô (tháng 2) và mùa mưa (tháng 7, tháng 8) 
với tần suất giao phối cao nhất vào tháng 8. Thời gian xảy ra giao phối, tập 
trung từ 15 giờ đến 18 giờ. Cheo cheo kanchil giao phối ở tư thế con đực nằm 
trên lưng con cái, thời gian giao phối khoảng 3 – 5 phút. 
• Mùa sinh sản 
Kết quả theo dõi 3 năm trong điều kiện nuôi bán hoang dã đã ghi nhận 
được 31 lần Cheo cheo kanchil sinh con với tổng số 35 con non. Tỷ lệ con non 
được sinh ra phát triển khỏe mạnh chiếm 82,86 %. Trong điều kiện nuôi bán 
hoang dã, Cheo cheo kanchil sinh sản ở hầu hết các tháng trong năm, tập trung 
nhiều vào các tháng 5 và 6. Tháng 2 và tháng 9 không có cá thể cái nào sinh 
sản. Điều này, có thể do thời tiết bất lợi vào tháng 2 là tháng nắng nóng nhất 
của mùa khô và tháng 9 là tháng mưa nhiều nhất của mùa mưa. 
 21 
• Thời gian mang thai, tỷ lệ cá thể cái sinh con và phát triển thai 
Qua theo dõi trong điều kiện nuôi bán hoang dã, đã xác định thời gian 
mang thai của loài Cheo cheo kanchil ở KBTTN-VH Đồng Nai vào khoảng 125 
– 150 ngày. Tỷ lệ Cheo cheo kanchil cái sinh con năm 2010, đạt 50% số lượng 
con cái ở tuổi sinh sản, năm 2011 đạt 68,18% và năm 2012 đạt 56,36%. Cheo 
cheo kanchil sinh sản mỗi năm 01 lần và mỗi lứa 01 con. 
• Chăm sóc con và sinh trưởng của con non 
Chỉ có Cheo cheo kanchil mẹ chăm sóc con. Cheo cheo kanchil đực 
không tham gia vào việc nuôi dưỡng chăm sóc con. 
Trong khoảng 2 tuần đầu, Cheo cheo kanchil con chủ yếu nằm ngủ và bú 
mẹ, cứ 1-2 giờ chúng bú mẹ một lần, mỗi lần khoảng 5-10 phút. Cheo cheo 
kanchil mẹ thường đi kiếm ăn và về cho con bú giữa các lần kiếm ăn. Sau 
khoảng 2 – 3 tuần tuổi, Cheo cheo kanchil con bắt đầu kiếm ăn ngoài và vẫn còn 
bú sữa. Trên 3 tháng tuổi, Cheo cheo kanchil con thôi bú mẹ và tự kiếm ăn độc 
lập. 
Cheo cheo kanchil sơ sinh có khối lượng trung bình 0,18 kg và dài thân-
đầu là 22,5 cm, sau 3 tháng tuổi khối lượng đạt 0,45kg (tăng 2,5 lần), dài thân-
đầu đạt 34 cm (tăng 1,5 lần). Sau đó Cheo cheo kanchil tăng trưởng chậm cho 
đến khi trưởng thành. 
3.4.5. Tập tính hoạt động 
• Hoạt động kiếm ăn 
Trong điều kiện nuôi bán hoang dã, hoạt động kiếm ăn của Cheo cheo 
kanchil diễn ra ở hầu hết các giờ trong ngày nhưng nhiều hơn vào sáng sớm và 
chiều tối, ít hơn vào 9 giờ sáng đến 15 giờ chiều, đây là khoảng thời gian Cheo 
cheo kanchil nghỉ ngơi để nhai lại thức ăn. Hoạt động kiếm ăn trong mùa khô 
thấp hơn mùa mưa. 
• Uống nước 
Hoạt động uống nước của Cheo cheo kanchil diễn ra nhiều lần và vào nhiều 
quảng thời gian khác nhau trong ngày. Số lần uống nước vào mùa khô nhiều gấp 
1,75 đến 2,87 lần so với mùa mưa. Số lần uống nước ban ngày nhiều hơn ban 
đêm và cao nhất vào thời gian từ 10h đến 18h (Hình 3.32). Như vậy, rõ ràng số 
lần uống nước phụ thuộc vào nhiệt độ thời tiết trong ngày và theo mùa. 
 22 
Hình 3.32: (trái) Biểu đồ so sánh tỷ lệ % số lần uống nƣớc trong các giờ 
trong ngày và (phải) Cheo cheo kanchil uống nƣớc từ máng, bên cạnh là 
viên đá liếm khoáng 
• Nhu cầu muối khoáng 
Trong thiên nhiên, Cheo cheo kanchil thường hay đến các điểm suối hoặc 
hố nước giàu khoáng để uống hoặc liếm đất bổ sung khoáng cho cơ thể. Trong 
khu nuôi cứu hộ của KBTTN-VH Đồng Nai, quan sát cho thấy, một ngày Cheo 
cheo kanchil thường đến liếm khoáng khoảng 5 – 10 lần trong khi ăn thức ăn. 
• Vận động đi lại 
 Kết quả nghiên cứu cho thấy, vào mùa mưa hoạt động vận động đi lại của 
Cheo cheo kanchil diễn ra cao hơn mùa khô 1,7 đến 2,6 lần và diễn ra tương đối 
đều trong các quảng thời gian trong ngày. Vào mùa khô, Cheo cheo kanchil vận 
động ít hơn và tập trung vào khoảng 7h sáng đến 18h tối. Nhìn chung, cho cả 
hai mùa Cheo cheo kanchil hoạt động vận động nhiều hơn vào thời gian từ 6h 
sáng đến 18h tối. 
• Nghỉ ngơi và nhai lại 
 Sau khi ăn no chúng đứng hoặc nằm nghỉ dưới bóng mát hoặc trong hốc 
cây, nhà trú. Trong thời gian nghỉ ngơi, Cheo cheo kanchil thường kết hợp liếm 
lông, nhai lại thức ăn và quan sát xung quanh. Hoạt động nghỉ ngơi và nhai lại 
của Cheo cheo kanchil trong mùa mưa thường diễn ra trong khoảng từ 1 – 6h và 
19 – 24h, trong mùa khô từ 7h sáng đến 15h chiều. 
• Bài tiết phân 
 Cheo cheo kanchil bài tiết phân nhiều lần trong ngày. Chúng bài tiết phân 
vào một nơi cố định trong vài ngày liên tục, cho đến khi lượng phân đủ nhiều 
chúng mới chuyển đi nơi khác. Điều đó cho thấy Cheo cheo kanchil là loài sống 
định cư nhiều ngày tại một vùng sống nhất định. Khi bài tiết, chúng đứng ở tư 
thế hai chi trước thẳng, hai chi sau dạng ra và hơi chùng xuống. 
 23 
3.5.2. Tình trạng quản lý bảo tồn thú MGC hiện nay ở KBTTN-VH Đồng Nai 
Trong thời gian qua KBTTN-VH Đồng Nai đã thực hiện tốt công tác 
quản lý, bảo vệ rừng; ý thức bảo vệ rừng của cộng đồng dân cư sống trong và 
xung quanh KBTTN-VH Đồng Nai ngày càng được nâng cao. 
Tuy nhiên, trong KBTTN-VH Đồng Nai, còn nhiều cụm dân cư sinh 
sống, đa phần người dân còn có cuộc sống khó khăn và còn phải lệ thuộc vào 
tài nguyên rừng, tình trạng săn, bắt động vật rừng, tàn phá sinh cảnh, chăn thả 
gia súc trong rừng, vẫn còn xảy ra. Do thiếu thông tin về loài, dẫn đến tình 
trạng quy hoạch thiếu hoặc sai vùng bảo tồn thích hợp hay chưa có được sự lựa 
chọn và đưa ra các giải pháp ưu tiên để quản lý, bảo tồn kịp thời và hiệu quả. 
3.5.3. Các áp lực đối với bảo tồn thú MGC và sinh cảnh của chúng ở 
KBTTN-VH Đồng Nai 
 Luận án đã xác định các loại đe dọa và mức độ nghiêm trọng của chúng 
như sau (sắp xếp theo mức độ nghiêm trọng từ cao đến thấp): 1) Săn bắt động 
vật hoang dã, 2) Thu hái lâm sản ngoài gỗ, 3) Xâm lấn của các loài ngoại lai, 4) 
Chăn thả gia súc bên trong Khu bảo tồn, 5) Cháy rừng, 6) Xâm lấn đất rừng làm 
đất nông nghiệp và tàn phá sinh cảnh, 7) Khai thác gỗ trái phép và 8) Xây dựng 
cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế bên trong Khu bảo tồn. Các tác động nghiêm 
trọng nhất là: Săn bắt động vật hoang dã; Thu hái lâm sản ngoài gỗ; Xâm lấn 
của các loài ngoại lai; Chăn thả gia súc bên trong KBTTN-VH Đồng Nai. 
3.5.4. Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý bảo tồn thú MGC tại 
KBTTN-VH Đồng Nai 
3.5.4.1. Đinh hướng giải pháp bảo tồn cho từng loài thú MGC 
 Bảo tồn Bò tót (Bos frontalis) 
- Tăng cường tuần tra rừng tới tất cả các tiểu khu, đặc biệt là các tiểu khu 
có Bò tót phân bố tập trung để kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi săn 
bắt động vật rừng, phá hoại và quấy nhiễu sinh cảnh của Bò tót. 
- Thực hiện cải tạo sinh cảnh cho Bò tót và các loài thú MGC khác ở các 
trảng cỏ và bàu nước quan trọng. Tạo thêm các điểm muối khoáng nhân tạo 
trong vùng hoạt động của Bò tót để cung cấp khoáng chất cho loài. 
- Thực hiện chương trình giám sát thường xuyên quần thể Bò tót, nhằm xác 
định sự thay đổi vùng hoạt động của Bò tót theo mùa và theo năm. 
 24 
- Thực hiện công tác bảo tồn và khai thác nguồn gen của loài Bò tót bằng 
hoạt động di dời đàn Bò tót từ huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước về nhân nuôi 
bán hoang dã tại KBTTN- VH Đồng Nai. 
 Bò rừng (Bos javanicus) 
 Bò rừng không thường xuyên sinh sống trong KBTTN-VH Đồng Nai mà 
ở các khu rừng lân cận Khu bảo tồn. Vì vậy, cần có các biện pháp tác động tạo 
điều kiện thuận lợi cho các đàn Bò rừng này di chuyển về sinh sống tại 
KBTTN-VH Đồng Nai. 
Các biện pháp cần thực hiện sớm như: UBND tỉnh Đồng Nai cần sớm 
thực hiện dự án sắp xếp ổn định dân cư 2 xã Mã Đà và Hiếu Liêm ra ngoài 
vùng lõi của Khu bảo tồn. Thanh lý các hợp đồng giao khoán đất để triển khai 
thực hiện chương trình cải tạo sinh cảnh khu vực trảng Bò, trảng Min. 
 Nai đen (Rusa unicolor) và Hoẵng (Muntiacus munjak): 
 Để phục hồi và phát triển các quần thể Nai đen và Hoẵng trong KBTTN-
VH Đồng Nai cần ngăn chặn tình trạng săn bắt động vật hoang dã và phá hoại, 
quấy nhiễu sinh cảnh của chúng, đặc biệt là chăn thả gia súc tự do trong Khu 
bảo tồn. Các hoạt động bảo tồn Nai đen và Hoẵng tương tự như các hoạt động 
bảo tồn Bò tót và có thể lồng ghép với nhau. 
 Cheo cheo kanchil (Tragulus kanchil) 
 Quần thể Cheo cheo kanchil ở KBTTN-VH Đồng Nai là khá lớn hoàn 
toàn có thể tự phát triển bền vững nếu được bảo vệ tốt. Vì vậy, công tác bảo tồn 
Cheo cheo kanchil cần tập trung vào ngăn chặn tình trạng săn bắt, tăng cường 
kiểm tra tháo gỡ bẫy, đú và kiểm soát sự quấy nhiễu sinh cảnh, tổ chức các hoạt 
động gây nuôi sinh sản Cheo cheo kanchil cho mục đích kinh tế. 
 Lợn rừng (Sus scrofa) 
 Lợn rừng khá phổ biến ở KBTTN-VH Đồng Nai. Lợn rừng sinh sản và phát 
triển nhanh, nên công việc cần làm để bảo tồn quần thể Lợn rừng là kiểm soát tình 
trạng săn bắt động vật hoang dã trong Khu bảo tồn, tổ chức các trang trạng nuôi 
lợn rừng để phát triển kinh tế địa phương. 
3.5.4.2. Thực hiện chương trình giám sát các loài thú MGC 
 Mục đích của chương trình giám sát nhằm xác định xu thế biến đổi của 
các quần thể thú MGC và các nguyên nhân gây ra sự biến đổi đó làm cơ sở để 
điều chính các giải pháp quản lý bảo tồn loài cho phù hợp. 
 Các chỉ thị giám sát mỗi loài gồm sự bắt gặp trực tiếp loài trong thiên 
 25 
nhiên và các dấu vết hoạt động của chúng (dấu chân, phân, vết ăn, cọ mình). 
Các tác động đến quần thể và sinh cảnh của thú MGC. 
 Sử dụng hệ thống tuyến điều tra lặp lại và hệ thống điểm điều tra của 
Luận án đã được thực hiện trên toàn bộ diện tích KBTTN-VH Đồng Nai. Áp 
dụng các phương pháp điều tra, hệ thống biểu mẫu và phương pháp tính toán số 
liệu của Luận án để áp dụng thực hiện chương trình giám sát. 
3.5.4.3. Các giải pháp hành chính 
- Tăng cường tuần tra, kiểm soát trên toàn địa bàn KBTTN-VH Đồng Nai 
và vùng giáp ranh. 
- Thảo luận với cộng đồng và ký thỏa thuận không thả rông gia súc nhằm 
giảm những tác động tiêu cực đến thú hoang dã. Tuyên truyền nâng cao nhận 
thức của người dân địa phương về tầm quan trọng của rừng và đa dạng sinh 
học; về các quy định bảo vệ rừng và động vật hoang dã. 
- Di dời, sắp xếp ổn định dân cư đang sinh sống trong vùng lõi KBTTN-VH 
Đồng Nai ra ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bảo tồn tài nguyên đa 
dạng sinh học trong vùng lõi KBTTN-VH Đồng Nai. Xây dựng và thực hiện dự án 
vùng đệm nhằm nâng cao đời sống vật chất của nhân dân địa phương. 
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo tồn đa dạng sinh học. 
KẾT LUẬN, T N TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ 
1. Kết luận 
1.1. Thần phần loài và tình trạng quần thể thú MGC ở K TTN-VH Đồng Nai 
Đã ghi nhận được 8 loài thú MGC, trong đó có 2 loài có thể không còn cư 
trú ở KBTTN-VH Đồng Nai là Sơn dương và Hươu vàng; 6 loài hiện còn sinh 
sống trong KBTTN-VH Đồng Nai gồm: Lợn rừng, Nai đen, Hoẵng, Cheo cheo 
kanchil, Bò tót và Bò rừng. 
Có 4 loài được ưu tiên bảo tồn, gồm 4 loài thuộc Sách Đỏ Việt Nam 
(2007), 3 loài thuộc Danh lục Đỏ IUCN (2015), 3 loài thuộc Nghị định 
32/2006/NĐ-CP (2006) và 2 loài thuộc Nghị định 160/2013/NĐ-CP (2013). 
1.2. Sinh cảnh và sử dụng sinh cảnh của MGC ở K TTN-VH Đồng Nai 
Luận án đã xác định được 4 dạng sinh cảnh chính cho thú MGC. Các loài 
thú MGC sử dụng 2 dạng sinh cảnh (SC1, SC2) cho cả 4 mục đích (kiếm ăn, trú 
ẩn, giao lưu, nguồn nước); sinh cảnh 3 (SC3) chỉ sử dụng cho mục đích kiếm ăn, 
 26 
giao lưu và nước uống; sinh cảnh 4 (SC4) chỉ sử dụng cho mục đích uống nước 
và đằm mình. Đã ghi nhận được 18 điểm sinh cảnh đặc biệt quan trọng đối với 
thú MGC gồm: 4 điểm khoáng, 10 nguồn nước, 4 bãi kiếm ăn quan trọng. 
1.3. Đặc điểm sinh học, sinh thái của Cheo cheo kanchil ở KBTTN-VH Đồng Nai 
Nghiên cứu đã khẳng định quần thể Cheo cheo ở KBTTN-VH Đồng Nai 
thuộc loài Cheo cheo kanchil (Tragulus kanchil). 
Đã xác định được 241 loài thực vật thuộc 65 họ là cây thức ăn, trong đó 
chúng ưa thích nhất 74 loài. Lượng thức ăn trung bình ngày trong mùa mưa 
(786 g/ngày/cá thể) cao hơn trong mùa khô (569,1 g/ngày/cá thể). 
Cheo cheo cái bắt đầu sinh sản ở khoảng 2 năm tuổi. Sinh sản xảy ra ở hầu 
hết các tháng trong năm, tập trung nhiều vào tháng 5-6. Mỗi năm Cheo cheo 
kanchil đẻ một lứa, mỗi lứa 1 con, thời gian mang thai khoảng 125 – 150 ngày. 
1.4. Các đe dọa và giải pháp bảo tồn thú MGC ở K TTN-VH Đồng Nai 
Đã xác định 8 đe dọa chính đối với thú MGC và sinh cảnh của chúng. Các tác 
động nghiêm trọng nhất là: Săn bắt động vật hoang dã; Thu hái lâm sản ngoài gỗ; 
Xâm lấn của các loài ngoại lai; Chăn thả gia súc bên trong KBTTN-VH Đồng Nai. 
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp quản lý quần thể và 
sinh cảnh của mỗi loài thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai và một số giải 
pháp cho bảo tồn đa dạng sinh học nói chung trong KBTTN-VH Đồng Nai. 
2. Tồn tại 
Các loài có số lượng cá thể tương đối phong phú phải áp dụng phương 
pháp tính toán số lượng rất phức tạp, Luận án chưa có đủ điều kiện để thực hiện 
các phương pháp tính số lượng phức tạp này. Các nghiên cứu về di truyền và 
dịch bệnh của các loài thú MGC cũng chưa được thực hiện. 
3. Khuyến nghị 
3.1. Trên cơ sở các giải pháp đề xuất tăng cường quản lý bảo tồn các loài 
thú MGC tại KBTTN-VH Đồng Nai là những hướng dẫn cụ thể đề nghị Ban quản 
lý thực hiện các hoạt động quản lý bảo tồn đa dạng sinh học trong phạm vi Khu 
bảo tồn và có thể áp dụng cho VQG Cát Tiên và các Khu bảo tồn lân cận khác. 
3.2. Tiếp tục nghiên cứu về sinh học, sinh thái của loài Cheo cheo 
kanchil, chú trọng vào các nghiên cứu về di truyền, dịch bệnh. 
3.3. Thực hiện các nghiên cứu về nhân nuôi bảo tồn loài Cheo cheo 
kanchil, Bò tót như một giải pháp can thiệp chủ động để giảm nguy cơ suy thoái 
di truyền trong các quần thể nhỏ, bị cô lập. 
CÁC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Đ CÔNG 
 CỦA TÁC GIẢ LI N QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Hoàng Hảo (2005), Kết quả điều tra bò 
hoang (Bos spp.) ở tỉnh Bình Phước, Tạp chí Sinh học, tập 27, (4A), 
trang 60-62. 
2. Đặng Huy Phương, Lê Xuân Cảnh, Nguyễn Trường Sơn, Nguyễn Hoàng 
Hảo (2010), Các loài thú ghi nhận ở Khu bảo tồn thiên nhiên và Di tích 
Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, Tạp chí Công nghệ sinh học, tập, (3A), trang 
1031-1038. 
3. Nguyễn Hoàng Hảo, Trần Văn Mùi, Nguyễn Xuân Đặng (2011), Hiện 
trạng quần thể các loài thú móng guốc ở Khu bảo tồn thiên nhiên - 
Văn hóa Đồng Nai, tỉnh Đồng Nai, Báo cáo khoa học về sinh thái 
và tài nguyên sinh vật, Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 4, 
Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội 21/10/2011, ISSN 1859-4425, trang 
580-585. 
4. Nguyễn Hoàng Hảo, Trần Văn Mùi, Nguyễn Xuân Đặng (2012), Kết 
quả khảo sát đánh giá một số loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, 
hiếm tại Khu bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai, tỉnh Đồng 
Nai, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,(22), trang 89-92. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_nghien_cuu_bao_ton_quan_xa_thu_mong_guoc_cha.pdf