Tóm tắt Luận án Nghiên cứu cho thấy sử dụng nẹp vít ngay thì đầu IIIA thân xương dài chi trên không làm tăng tỉ lệ nhiễ BĐN (p>0,05); tỉ lệ lành xương và phục hồi chức năn (p<0,001). Như vậy sử dụng nẹp vít ngay thì đầu trong thân xương dài chi trên là ph
TỔNG QUAN ĐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG HỞ
1.5.5. Các phương pháp bất động xương gãy
1.5.5.1. Phương pháp cắt lọc vết thương và bó bột
Đây là một phương pháp đơn giản dễ thực hiện. Tuy nhiên phương
pháp này có nhiều nhược điểm là: dễ bị di lệch thứ phát do lỏng bột, rất
khó khăn cho việc chăm sóc vết thương hàng ngày, teo cơ, cứng khớp.
1.5.5.2. Phương pháp kết xương bằng đinh nội tủy
Phương pháp này có ưu điểm là kỹ thuật đơn giản, không cần lóc
màng xương nhiều, tương đối dễ thực hiện, không đòi hỏi trang thiết bị
hiện đại. Nhưng khuyết điểm là làm mất độ cong sinh lý của xương và
không chống được di lệch xoay
Bạn đang xem tài liệu "Tóm tắt Luận án Nghiên cứu cho thấy sử dụng nẹp vít ngay thì đầu IIIA thân xương dài chi trên không làm tăng tỉ lệ nhiễ BĐN (p>0,05); tỉ lệ lành xương và phục hồi chức năn (p<0,001). Như vậy sử dụng nẹp vít ngay thì đầu trong thân xương dài chi trên là ph", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu cho thấy sử dụng nẹp vít ngay thì đầu IIIA thân xương dài chi trên không làm tăng tỉ lệ nhiễ BĐN (p>0,05); tỉ lệ lành xương và phục hồi chức năn (p<0,001). Như vậy sử dụng nẹp vít ngay thì đầu trong thân xương dài chi trên là ph
1 GIỚI THIỆU LUẬN ÁN Đặt vấn đề Gãy hở thân xương dài chi trên là loại chấn thương hay gặp trong cấp cứu chấn thương chỉnh hình. Ở Việt Nam, lao động thủ công với các máy móc lạc hậu, thiếu điều kiện bảo hộ làm tỉ lệ gãy hở chi trên tăng cao với các đặc điểm tổn thương rất nặng nề. Chính vì vậy việc điều trị tốt các trường hợp gãy hở nặng chi trên nhằm đưa bệnh nhân về cuộc sống bình thường, có thể tiếp tục sinh hoạt và lao động là vấn đề cấp thiết của ngành chấn thương chỉnh hình. Đối với gãy hở độ IIIA (Gustilo-Anderson) là loại gãy xương phức tạp, tổn thương phần mềm nặng nề và nguy cơ nhiễm khuẩn cao thì kết hợp xương bằng bất động ngoài là một lựa chọn kinh điển vì có tính an toàn cao. Tuy nhiên chi trên có một số các đặc điểm khác với chi dưới như sau: (1) tỉ lệ nhiễm khuẩn ổ gãy ở chi trên chỉ bằng một phần ba chi dưới; (2) chi trên có các vận động tinh tế và uyển chuyển, nhất là động tác sấp ngửa cẳng tay, đòi hỏi phải phục hồi các cấu trúc giải phẫu hoàn chỉnh - là một ưu điểm của kết hợp xương bằng nẹp vít; (3) khung bất động ngoài ở chi trên sẽ làm cho việc tập luyện phục hồi chức năng sấp ngửa cẳng tay, gấp duỗi khuỷu bị ảnh hưởng khá nhiều. Chính vì những đặc điểm trên nên từ thập niên 1980, trên thế giới đã có một số tác giả báo cáo nghiên cứu về điều trị gãy hở độ IIIA thân xương chi trên bằng nẹp vít thì đầu và cho kết quả khá tốt dù số lượng mẫu còn nhỏ. Việt Nam là nước đang phát triển lại có khí hậu nóng ẩm nên gãy hở độ IIIA chi trên của chúng ta có nhiều điểm khác biệt so với các nước phát triển Âu - Mỹ về: số lượng, độ phức tạp, độ vấy bẩn của vết thương, đặc điểm vi khuẩn... Để trả lời câu hỏi liệu rằng điều trị loại gãy này bằng nẹp vít ngay thì đầu có an toàn và hiệu quả không so với phương pháp kinh điển là bất động ngoài, chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu kết 2 quả điều trị gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên bằng nẹp vít thì đầu" với các mục tiêu nghiên cứu sau: 1. Đánh giá kết quả điều trị gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên bằng kết hợp xương nẹp vít thì đầu so với kết hợp xương bằng bất động ngoài. 2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên bằng kết hợp xương nẹp vít thì đầu. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp mới Nghiên cứu cho thấy sử dụng nẹp vít ngay thì đầu trong gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên không làm tăng tỉ lệ nhiễm khuẩn so với BĐN (p>0,05); tỉ lệ lành xương và phục hồi chức năng cao hơn BĐN (p<0,001). Như vậy sử dụng nẹp vít ngay thì đầu trong gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên là phương pháp an toàn và hiệu quả. Bố cục của luận án Luận án có 121 trang, gồm: đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu 3 trang; tổng quan tài liệu 34 trang; đối tượng và phương pháp nghiên cứu 22 trang; kết quả 30 trang; bàn luận 28 trang; kết luận và kiến nghị 4 trang. Luận án có 49 bảng, 9 biểu đồ, 1 sơ đồ, 20 hình, 119 tài liệu tham khảo bao gồm 11 tiếng Việt, 108 tiếng Anh. Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.3. PHÂN LOẠI GÃY XƯƠNG HỞ Gãy xương hở thường được phân loại theo Gustilo-Anderson. Độ I là gãy xương hở có vết thương dưới 1 cm với sự vấy bẩn và tổn thương mô mềm tối thiểu. Độ II là vết thương trên 1 cm, tổn thương mô mềm mức độ trung bình và xương gãy ngang hoặc chéo. Độ III là cơ chế chấn thương năng lượng cao, tổn thương mô mềm rộng, nguy cơ nhiễm trùng cao. Độ III được chia làm 3 nhóm nhỏ hơn: độ IIIA có các đặc điểm trên nhưng vẫn còn phần mềm đủ che phủ xương sau khi đã cắt 3 lọc kĩ; độ IIIB thì phải cần vạt che phủ xương; độ IIIC là có tổn thương động mạch chính cần khâu nối. Lưu ý rằng ở cẳng tay, tổn thương cả 2 động mạch quay và trụ mới được xếp vào độ IIIC. Phân loại này chính xác nhất là sau khi mổ vì đôi khi trước mổ chúng ta không đánh giá hết tổn thương. 1.5. TỔNG QUAN ĐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG HỞ 1.5.5. Các phương pháp bất động xương gãy 1.5.5.1. Phương pháp cắt lọc vết thương và bó bột Đây là một phương pháp đơn giản dễ thực hiện. Tuy nhiên phương pháp này có nhiều nhược điểm là: dễ bị di lệch thứ phát do lỏng bột, rất khó khăn cho việc chăm sóc vết thương hàng ngày, teo cơ, cứng khớp. 1.5.5.2. Phương pháp kết xương bằng đinh nội tủy Phương pháp này có ưu điểm là kỹ thuật đơn giản, không cần lóc màng xương nhiều, tương đối dễ thực hiện, không đòi hỏi trang thiết bị hiện đại. Nhưng khuyết điểm là làm mất độ cong sinh lý của xương và không chống được di lệch xoay. 1.5.5.3. Phương pháp kết hợp xương bằng bất động ngoài Phương pháp này thường được sử dụng cho những trường hợp bị mất mô mềm nhiều, vết thương quá dơ nguy cơ nhiễm khuẩn cao. Ưu điểm của phương pháp này là hạn chế hiệu ứng dị vật, dẫn đến giảm nguy cơ nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, khi sử dụng ở chi trên lại có khá nhiều nhược điểm như: nguy cơ tổn thương mạch máu, thần kinh, gân cơ; nhiễm khuẩn chân đinh; cồng kềnh, hạn chế khả năng tập vận động sớm và nguy cơ không liền xương. 1.5.5.4. Phương pháp kết hợp xương bằng nẹp vít Phương pháp này có nhiều ưu điểm như: nắn chỉnh trực tiếp phục hồi hoàn toàn hình thể giải phẫu của xương gãy; cố định ổ gãy vững chắc, chống được các di lệch đặc biệt là di lệch xoay; cho phép bệnh nhân tập vận động sớm tránh teo cơ cứng khớp và bệnh nhân có cảm 4 giác thoải mái hơn so với mang các phương tiện cố định khác như BĐN hay bó bột. Tuy nhiên phương pháp này cũng có một số nhược điểm như: lo ngại hiệu ứng dị vật làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn và quá trình phẫu thuật làm tróc nhiều màng xương, ảnh hưởng đến vấn đề nuôi dưỡng ổ gãy trong quá trình liền xương. 1.6. BIẾN CHỨNG 1.6.1. Nhiễm khuẩn Nhiễm khuẩn sau KHX là một biến chứng nặng nề và rất khó điều trị. Khi dụng cụ KHX được gắn vào cơ thể sẽ có một quá trình kết dính sinh học giữa các tế bào của cơ thể chủ tạo một màng phủ lên dụng cụ. Có những vi khuẩn như Staphylococci có thể bám dính vào bề mặt dụng cụ và “chiến đấu” với tế bào cơ thể chủ để chiếm đóng bề mặt này. Một khi đã bám dính được, các vi khuẩn này sẽ tạo nên lớp màng sinh học (glycocalyx) và dần dần biến đổi kiểu hình và trở nên đề kháng với miễn dịch của cơ thể cũng như với kháng sinh. Hơn nữa, bản thân dụng cụ kim loại cũng gây nên những suy giảm đặc hiệu về chức năng của hệ thống miễn dịch tại chỗ làm giảm khả năng chống nhiễm khuẩn. Bất kỳ một tổn thương phần mềm đi kèm cũng gây nên sự suy giảm chức năng bảo vệ của cơ thể, chính vì thế nên gãy xương hở, đặc biệt gãy hở độ III với mức độ tổn thương phần mềm nhiều và mật độ vi khuẩn ở vết thương cao là một chống chỉ định cho KHX bên trong trong suốt một thời gian dài. Nhưng ngày nay do hiểu rõ những cơ chế gây nhiễm khuẩn sau KHX nẹp vít nên chúng ta có thể làm giảm thiểu nguy cơ nhiễm khuẩn bằng các biện pháp: cắt lọc thật kỹ vết thương để bảo đảm loại bỏ các dị vật và mô hoại tử, tưới rửa nhiều nước để giảm thiểu mật độ vi khuẩn, đồng thời loại bỏ một số yếu tố toàn thân làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn như hút thuốc lá, suy dinh dưỡng 1.8. TÌNH HÌNH ĐIỀU TRỊ GÃY HỞ THÂN XƯƠNG DÀI CHI TRÊN 1.8.1. Tình hình điều trị trên thế giới 5 Năm 1986, Moed đã điều trị KHX nẹp vít thì đầu cho 50 TH gãy hở thân xương cẳng tay (20 độ I, 19 độ II và 11 độ III). Kết quả có 3 TH nhiễm khuẩn sâu, 10 TH gãy hở độ III theo dõi được kết quả xa có 2 ổ gãy xương trụ và 1 ổ gãy xương quay không lành, tỉ lệ 15,8%; PHCN đạt rất tốt và tốt là 70%, không chấp nhận là 30%. Tác giả cho rằng đây là phương pháp an toàn, không làm tăng tỉ lệ nhiễm khuẩn. Năm 1991, Jones đã báo cáo một nghiên cứu cho 18 TH gãy hở độ III hai xương cẳng tay (7 độ IIIA, 8 độ IIIB, 3 độ IIIC) điều trị bằng KHX nẹp vít thì đầu. Kết quả có 1 TH nhiễm khuẩn dẫn đến viêm xương, 1 TH cắt cụt vì hoại tử chi, PHCN đạt 66% tốt. Tác giả cho rằng mặc dù đây chỉ là kết quả ban đầu nhưng là một sự khích lệ cho phương pháp KHX nẹp vít ngay thì đầu cho các tổn thương nặng ở chi trên. Năm 1992, Duncan báo cáo nghiên cứu về điều trị gãy hở hai xương cẳng tay bằng KHX nẹp vít ngay thì đầu. Tác giả đã mổ được 69 TH nhưng chỉ có 14 TH độ III (10 độ IIIA, 2 độ IIIB, 2 độ IIIC). Kết quả là 10 TH độ IIIA đều lành xương, không TH nào bị nhiễm khuẩn sâu, phục hồi chức năng: 3 TH rất tốt, 3 TH tốt, 2 TH chấp nhận, 2 TH không chấp nhận. Trong khi đó, các TH độ IIIB và IIIC đều nhiễm khuẩn nặng. Tác giả kết luận rằng với gãy hở độ I, II, IIIA có thể KHX nẹp vít ngay thì đầu sau khi cắt lọc kỹ vết thương; đối với độ IIIB và IIIC thì không nên vì kết quả rất xấu. Năm 2010, Connolly báo cáo 46 TH gãy hở thân xương cánh tay (32 độ I và II, 14 độ III) được điều trị bằng nẹp vít ngay thì đầu. Kết quả có 3 TH phải cắt cụt trên khuỷu (độ IIIC), 2 TH phải tháo nẹp, không có TH nào nhiễm khuẩn hay khớp giả. Tác giả cho rằng gãy hở xương cánh tay có thể KHX ngay thì đầu nếu cắt lọc kỹ. 1.8.2. Tình hình điều trị trong nước Năm 2003, Phạm Cầm Kỳ báo cáo 54 TH gãy hở độ I và II hai xương cẳng tay, được phẫu thuật KHX nẹp vít thì đầu tại Bệnh viện 6 103. Kết quả gần: có 3 TH nhiễm khuẩn nông và không TH nào nhiễm khuẩn sâu. Kết quả xa: liền xương hết di lệch 33 TH (91,7%), liền xương còn di lệch ít 3 TH và không có TH nào khớp giả. Đánh giá kết quả phục hồi chức năng rất tốt đạt 86,1%, tốt 11,1%, trung bình 2,8% và không có kém. Theo tác giả đối với gãy hở độ I, độ II đến sớm, mổ cấp cứu cắt lọc vết thương triệt để có thể KHX nẹp vít cho kết quả tốt. Năm 2013, Lê Văn Lộc đã báo cáo kết quả điều trị KHX nẹp vít thì đầu cho 65 BN gãy hở độ I và II tại bệnh viện CTCH TP.HCM. Kết quả nhiễm khuẩn nông là 4,62 % và không có TH nào biến chứng nhiễm khuẩn sâu. Kết quả nắn chỉnh ổ gãy hết di lệch cả hai xương chiếm 92,3%, di lệch ít là 7,7% và không có TH nào có di lệch lớn. Kết quả liền xương đạt 100%. Đánh giá kết quả PHCN rất tốt đạt 90,2%, tốt 7,8%, trung bình 2% và không có kết quả kém. Năm 2013, Phạm Văn Tính nghiên cứu 35 TH gãy hở độ I, độ II thân xương cánh tay được KHX nẹp vít thì đầu tại Bệnh viện Chợ Rẫy, kết quả 3.33% nhiễm khuẩn sâu, không liền xương 6,67%, bong nẹp 3,33%, không có TH nào liệt thần kinh quay sau mổ. Kết quả chung đạt rất tốt là 73,3%, tốt là 13,3%, kém là 13,3%. Cho đến nay, chưa tìm thấy nghiên cứu nào về điều trị gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên. Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2.2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân bị gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên (xương cánh tay, xương quay, xương trụ) được đưa đến khoa Cấp Cứu bệnh viện C ấn Thương Chỉnh Hình TP.HCM từ tháng 10/2011 đến tháng 8/2014 thoả các điều kiện sau: thời gian từ lúc bị chấn thương đến lúc mổ ≤ 24 7 giờ; bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo, có đủ nhận thức; ≥16 tuổi; đồng ý tham gia vào nghiên cứu. 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân đã được mổ cắt lọc ở tuyến trước; bệnh nhân có di chứng hay bệnh lý trước đó ở chi bị gãy hở; bệnh nhân chấn thương đa cơ quan; bệnh nhân đái tháo đường không kiểm soát tốt đường huyết. 2.2. CỠ MẪU Theo Duncan khi điều trị gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên bằng nẹp vít thì tỷ lệ rất tốt và tốt đạt 60% (p1 = 0,6). Đối với nhóm BĐN, theo Smith thì tỷ lệ rất tốt và tốt là 37,5% (p2 = 0,375). Tính theo công thức trên thì N = 77. Ước tính số lượng BN mất dấu hay không theo dõi đủ thời gian là 10%, theo đó cần tối thiểu 85 BN vào mỗi nhóm nghiên cứu. Theo nguyên tắc của nghiên cứu RCT, nghiên cứu sẽ đánh giá giữa kỳ khi mỗi nhóm đạt khoảng 50% số lượng BN (tối thiểu 43 BN). Sau khi đánh giá kết cục chính của nghiên cứu là kết quả phục hồi chức năng của hai nhóm, có hai khả năng sẽ xảy ra: nếu sự khác biệt giữa hai nhóm với p ≥ 0,001 thì nghiên cứu sẽ tiếp tục được tiến hành cho đến đủ số mẫu; nếu p<0,001 thì chúng tôi sẽ ngừng nghiên cứu theo quy tắc O’Brien-Flemming và Peto-Haybittle. Theo các quy tắc này thì nghiên cứu sẽ được kết thúc trước thời hạn do cỡ mẫu đã đủ để chỉ ra sự khác biệt quá rõ về kết cục chính giữa hai nhóm, nếu tiếp tục tiến hành sẽ làm hại cho một nhóm, vi phạm y đức. 2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu Thử nghiệm can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng (RCT). 2.3.3. Cách phân bố ngẫu nhiên 8 Bệnh nhân sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên vào 2 nhóm bằng cách: nếu ngày bệnh nhân được phẫu thuật là ngày lẻ của tháng thì bệnh nhân được xếp vào nhóm can thiệp và phương pháp KHX sẽ là nẹp vít; nếu ngày bệnh nhân được phẫu thuật là ngày chẵn của tháng thì bệnh nhân được xếp vào nhóm chứng và phương pháp KHX sẽ là bất động ngoài. 2 4. CÁCH TIẾN HÀNH Tiến hành thăm khám bệnh nhân, xác định các triệu chứng, ghi nhận các biến số. Cấy vi khuẩn lần I tại vị trí gãy hở. Dụng cụ: Nhóm nẹp vít: nẹp nén ép động DCP 3,5mm cho hai xương cẳng tay và DCP 4,5mm cho xương cánh tay. Đối với các TH gãy nát, mất xương hay gãy nhiều tầng mà nẹp DCP không đủ chiều dài để bất động ổ gãy thì có thể sử dụng nẹp tạo hình. Nhóm BĐN: khung BĐN kiểu Muller cẳng tay và cánh tay. Cắt lọc vết thương: Kết hợp xương: Nhóm nẹp vít: Bộc lộ ổ gãy, nắn ổ gãy và đặt nẹp. Nếu có mảnh thứ 3 lớn thì có thể cố định bằng 1 vít nén ép. Bắt vít cố định ổ gãy tối thiểu 6 vỏ xương mỗi đầu. Nhóm BĐN: Nắn ổ gãy, cần xác định vùng an toàn để đặt đinh. Khoan và đặt hai đinh Schanz ở mỗi đầu đoạn gãy (đối với xương cánh tay là 3 đinh), rồi đặt khung và cố định ổ gãy. Dùng màn hình tăng sáng để bảo đảm kết quả nắn xương được tốt nhất. Sau khi kết hợp xương: Rửa VT kỹ, cắt lọc lại lần nữa những mô dập nát. Cấy vi khuẩn và làm kháng sinh đồ lần hai. Khâu phục hồi lại tối đa các cấu trúc giải phẫu như: gân, cơ, mạch máu, thần kinh Trong các TH mất hay tuốt gân cơ, tiến hành chuyển gân ngay. Khâu da thưa nếu vết mổ không quá căng và để hở da khâu mũi chờ “kiểu dây giày” nếu mất da rộng. Theo dõi sau mổ: Bệnh nhân được hẹn tái khám để kiểm tra: tình trạng vết thương, đo tầm vận động, chụp X quang kiểm tra. 9 Tập phục hồi chức năng: phối hợp với bác sĩ chuyên khoa phục hồi chức năng để có chương trình tập cụ thể riêng cho từng bệnh nhân. 2.5. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ 2.5.1. Kết quả gần 2.5.1.1. Đánh giá diễn tiến vết thương: vết thương lành sau đóng kín da thì đầu, sau khâu da thì hai, sau ghép da; nhiễm khuẩn nông, nhiễm khuẩn sâu. 2.5.1.2. Kết quả kết hợp xương: Xương cánh tay: đo trục xương. Hai xương cẳng tay: đo các chỉ số RL, MRB, L.MRB 2.5.2. Kết quả xa 2.5.2.1. Liền xương 2.5.2.2. Phục hồi chức năng Đánh giá phục hồi chức năng do bệnh nhân thực hiện: Bảng thang điểm DASH và khả năng trở lại công việc của BN Đánh giá phục hồi chức năng do bác sĩ thực hiện: Đối với xương cánh tay, đánh giá theo bảng Steward-Hundley cải tiến. Đối với xương cẳng tay, đánh giá theo bảng Anderson và bảng Grace–Eversmann. 2.5.2.3. Biến chứng Ghi nhận tất cả các biến chứng có thể xảy ra trong quá trình bệnh nhân tái khám như: chèn ép khoang, ... hưng L.MRB là tương đương, cho thấy dù xương có kích thước lớn hay nhỏ thế nào thì L.MRB là hằng định. 4.3.2. Kết quả xa 4.3.2.2. Kết quả lành xương Tỉ lệ liền xương: Nhóm nẹp vít có một TH không liền xương (nhiễm khuẩn), tỉ lệ 98,2%. Nhóm BĐN có 13 TH không liền xương (71,7%), thấp hơn nhóm nẹp vít có ý nghĩa thống kê (p=0). Trong đó có: 2 TH không liền xươ g sau 6 tháng với khe gãy ngày càng rộng; 2 TH di lệch thứ phát nhiều và 9 TH bị nhiễm khuẩn chân đinh sâu phải tháo BĐN. Như vậy nhiễm khuẩn chân đinh là nguyên nhân chính (69,2%) dẫn đến thất bại trong điều trị bằng BĐN, tương tự Levin, Smith và Mostafavi. Tỉ lệ liền xương của chúng tôi tương đương với Chapmann (87,5%), thấp hơn Duncan và Colloney (100%), nhưng cao hơn Moed (81,8%). Tuy nhiên các nghiên cứu này có mẫu rất nhỏ (n ≤ 11). T ời gian liền xương: Ở nhóm nẹp vít, thời gian liền xương của xương quay là 17,7 tuần, xương trụ là 19,9 tuần và xương cánh tay là 23,7 tuần. Sau khi loại trừ các TH không liền xương ra, thời gian liền xương trung bình không có sự khác biệt giữa 2 nhóm (p>0,05). Như vậy, tuy nhóm nẹp vít có tỉ lệ liền xương cao hơn hẳn so với nhóm BĐN nhưng thời gian liền xương thì như nhau. 17 4.3.2.3. Kết quả phục hồi chức năng Phục hồi tầm vận động: Ở tất cả các cung vận động, kết quả phục hồi ở mọi thời điểm đều cho kết quả ở nhóm nẹp vít cao hơn nhóm BĐN có ý nghĩa thống kê. Ở nhóm nẹp vít các vận động phục hồi sớm, đa số đều phục hồi đến mức cao nhất sau 12 tuần. Trong khi đó ở nhóm BĐN, dù biên độ có cải thiện sau 12 tuần nhưng vẫn còn thấp và tăng dần đến 1 năm sau mổ. Điều này cũng dễ dàng lý giải vì với khung BĐN vướng víu, cản trở vận động, bệnh nhân chỉ có thể tập vận động hết tầm sau khi tháo khung (trung bình 17,6 tuần). PHCN theo đánh giá của người điều trị: Phân loại phục hồi chức năng cho gãy xương cẳng tay: Bảng Anderson: nhóm nẹp vít có kết quả tốt hơn nhóm BĐN có ý nghĩa thống kê (p=0), trong đó tỉ lệ đạt rất tốt cao hơn gấp đôi và tỉ lệ thất bại chỉ bằng 1/17 so với nhóm BĐN. Nhóm nẹp vít có 1 TH thất bại do nhiễm khuẩn và 10 TH không hài lòng, tất cả đều là do hạn chế cung gập duỗi cổ tay trên 200 so với bên lành. Đây là một tiêu chuẩn đánh giá rất khắt khe vì gấp duỗi cổ tay là vận động bị chi phối nhiều bởi các xương khớp vùng cổ tay và các gân cơ cẳng tay nên các tổn thương phần mềm đi kèm sẽ làm ảnh hưởng. Chính vì nguyên nhân trên nên các tác giả nghiên cứu về gãy hở độ III không dùng bảng đánh giá này. Khi so sánh kết quả với các nghiên cứu về gãy kín và hở độ I, II, tỉ lệ rất tốt và tốt của nghiên cứu này đạt 77,6%, thấp hơn Anderson (86%), Phạm Cầm Kỳ (97,2%) và Trần Đăng Khai (87,7%). Tuy nhiên, kết quả như thế là chấp nhận được vì đây là gãy hở độ IIIA, tổn thương phần mềm nhiều nên phục hồi chức năng kém hơn. Bảng Grace-Evermann: nhóm nẹp vít đạt kết quả tốt hơn nhóm BĐN có ý nghĩa thống kê (p=0). Trong nhóm BĐN, tỉ lệ rất tốt và tốt chỉ đạt 36,6% và so với tỉ lệ 91,8% của nhóm nẹp vít là thấp hơn rất 18 nhiều. So sánh các tác giả khác có cùng nghiên cứu về gãy hở độ IIIA, kết quả rất tốt và tốt tương đương Johnes (85,7%), cao hơn Moed (63,63%) và Duncan (60%). Lý giải cho nguyên nhân đạt được kết quả rất tốt như thế, có thể vì bảng đánh giá này rất dễ đạt, chỉ dựa vào 2 tiêu chí là liền xương và vận động sấp ngửa cẳng tay, mà đây là 2 kết quả nghiên cứu này đạt được rất tốt. Phân loại phục hồi chức năng cho gãy xương cánh tay: Bảng Steward-Hundley: nhóm nẹp vít đạt kết quả tốt hơn nhóm BĐN có ý nghĩa thống kê (p=0,006). Trong nhóm BĐN, tỉ lệ rất tốt và tốt chỉ đạt 20%, trong khi khá và kém chiếm đến 80%. Sở dĩ kết quả như thế vì đa phần các trường hợp được đặt BĐN đều bị hạn chế dạng vai hay đưa trước trên 20% so với tay lành. Điều này có thể là hệ quả của việc mang khung làm vướng cơ, không thể tập vận động dạng hết tầm của khớp vai trong thời gian dài. Phân loại phục hồi chức năng chung: Do bảng phân loại Anderson cho gãy xương cẳng tay và bảng phân loại Steward-Hundley cho gãy xương cánh tay đều xếp thành 4 bậc, chỉ khác tên gọi, nên nghiên cứu này tạm xếp chung tất cả các TH thành bảng chung với 4 phân loại: rất tốt, tốt, trung bình và kém. Theo đó, nhóm nẹp vít có kết quả rất tốt đạt 64,3%; cao gần gấp 3 lần so với nhóm BĐN, một lần nữa khẳng định khả năng phục hồi chức năng vượt trội của nhóm nẹp vít. Phân loại PHCN theo đánh giá của bệnh nhân: Nhóm nẹp vít có điểm DASH thấp hơn nhóm BĐN có ý nghĩa thống kê (p=0,0036). Như vậy theo đánh giá của chính bệnh nhân thì kết quả phục hồi chức năng của nhóm nẹp vít cũng cho kết tốt hơn, phù hợp với các đánh giá chức năng dựa vào người điều trị như bảng Anderson, Grace-Eversmann. Khả năng trở lại nghề cũ của bệnh nhân: 19 Nhóm nẹp vít có tỉ lệ bệnh nhân trở lại nghề cũ cao hơn nhóm BĐN có ý nghĩa thống kê (p=0,025). Tuy yếu tố này phụ thuộc rất nhiều vào tính chất công việc cũng như cảm giác chủ quan của từng bệnh nhân nhưng điều này cũng phần nào cho thấy phương pháp KHX nẹp vít ngay thì đầu giúp bệnh nhân phục hồi chức năng tốt hơn. 4.3.2.5. Biến chứng Dính gân: nhóm nẹp vít là 7,14% và nhóm BĐN là 19,6%, khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p=0,06). Để giảm thiểu biến chứng này chúng tôi cố gắng khâu nối gân tỉ mỉ, dùng mũi khâu Strickland 4 sợi trục kết hợp mũi khâu tăng cường xung quanh, làm tăng độ chắc mối nối để bệnh nhân có thể tập vận động sớm. Di lệch thứ phát: nhóm BĐN có 2 TH bị di lệch thứ phát, nhóm nẹp vít không có TH nào. Cả hai TH di lệch thứ phát này đều là xương gãy nhiều mảnh, không vững; sau khi bệnh nhân tập vận động thì ổ gãy bắt đầu gập góc từ từ, trong khi đinh và khung vẫn còn chắc chắn. Đây là biến chứng cũng được một số các tác giả nghiên cứu về BĐN, đặc biệt là ở chi trên ghi nhận. Gãy lại sau tháo dụng cụ: 1 TH bị gãy lại sau khi tháo nẹp vít (3,2%), tương đương Chia (2,5%), Langkamer (3,6%), Trần Đăng Khai (3,4%). Nhóm BĐN, không TH nào bị gãy lại sau tháo khung. Theo chúng tôi, nguyên nhân là do nhóm BĐN lành xương thì hai, can bắc cầu nhiều và bệnh nhân được hướng dẫn hạn chế vận động mạnh sau tháo khung cho đến khi xương liền chắc. Dính quay trụ: Nhóm nẹp vít không có TH nào bị dính quay trụ, nhóm BĐN có 1 TH (2,17%). Tỷ lệ dính quay trụ sau đặt nẹp vít được báo cáo trong y văn từ 2% đến 9%. Nhiễm khuẩn chân đinh: 19,6%, tương đương với Levin (16%), Smith (16%), Mostafavi (27,8%). Như vậy so với chi dưới thì tỉ lệ nhiễm khuẩn chân đinh ở chi trên không hề thấp hơn. Điều này là do 20 trong khi vận động, động tác xoay ở chi trên được sử dụng thường xuyên, làm va chạm, kích thích phần mềm vốn rất nhiều quanh chân đinh và dễ làm viêm quanh chân đinh, dẫn đến nhiễm khuẩn. 4.4. NHỮNG YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ Có rất nhiều các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị nhưng trong khả năng của nghiên cứu này chỉ có thể phân tích một số các yếu tố có các biến số được xác định cụ thể để phân tích bằng thống kê mối tương quan với 3 kết quả chính: nhiễm khuẩn, liền xương và phục hồi chức ăng. Ngoài ra còn có một số các yếu tố có tính chất chủ quan và rất k ó xác định khác như: sự chăm sóc vết thương, mức độ hợp tác tập phục hồi chức năng sau mổ... thì không thể phân tích được. 4.4.1. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn Tổn thương phần mềm: TH bị nhiễm khuẩn có tổn thương IO3, MT3 là mức độ hay gặp nhất trong nghiên cứu này và không cho thấy có sự tương quan giữa tổn thương phần mềm và nhiễm khuẩn (p>0,05). Các yếu tố toàn thân: Hút thuốc lá (33%) và uống rượu (25%) là hai yếu tố thường gặp nhất. TH bị nhiễm khuẩn không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào. Dùng thống kê để khảo sát mối tương quan giữa các nhóm nguy cơ và nhiễm khuẩn thì không thấy có mối liên hệ (p=0,607). Vi khuẩn trước mổ: TH bị nhiễm khuẩn không có vi khuẩn mọc trong cả hai lần cấy trước mổ và trước khi đóng vết mổ. Sau khi nhiễm khuẩn, cấy mủ mọc Staphylococcus aureus kháng Methicilline, đề kháng với hầu hết các kháng sinh thông dụng trên kháng sinh đồ - thường là vi khuẩn thường trú bệnh viện, cho thấy không có sự liên hệ giữa vi khuẩn tr ớc mổ với tác nhân gây nhiễm khuẩn. Thời điểm phẫu thuật: trung bình là 10,7 giờ, trong đó chỉ có 14,3% được mổ trước 6 giờ. TH nhiễm khuẩn được mổ vào giờ thứ 17, nhưng xét về mặt thống kê thì không có mối liên quan giữa thời điểm phẫu 21 thuật với nhiễm khuẩn (p=0,375). Như vậy, phẫu thuật cắt lọc và KHX nẹp vít thì đầu có thể thực hiện trong vòng 24 giờ. Phương pháp đóng vết thương: có sự tương đương giữa 2 nhóm về phương pháp đóng vết thương và kết quả lành vết thương (p>0,05), có nghĩa là đặt nẹp vít bên trong không làm tăng tỉ lệ để hở da vì quá căng vết mổ như một số phẫu thuật viên lo ngại. TH bị nhiễm khuẩn là khâu kín vết mổ thì đầu nhưng khi dùng thống kê phân tích thì không có sự tương quan giữa đóng kín với nhiễm khuẩn. Điều này ủng hộ đường hướng đóng kín vết thương sớm trong gãy hở độ IIIA chi trên. v Qua phân tích cho thấy rằng tất các yếu tố trên đều không liên quan đến kết quả nhiễm khuẩn. Điều này càng cho thấy vai trò cực kỳ quan trọng của cắt lọc vết thương. 4.4.2. Một số yếu tố liên quan đến liền xương Qua phân tích bằng các phép kiểm thấy rằng xương gãy, vị trí và kiểu gãy không ảnh hưởng đến khả năng liền xương khi các ổ gãy được KHX bằng nẹp vít đúng kỹ thuật. 4.4.3. Một số yếu tố liên quan đến phục hồi chức năng Tổn thương mạch máu – thần kinh: có trong 46,4% và rất đa dạng. Các tổn thương động mạch quay hoặc trụ được khâu nối ở 80%, 2 TH còn lại không phục hồi được do đoạn tổn thương quá dài, tuy nhiên không ảnh hưởng đến cung cấp máu nuôi cho cẳng bàn tay. Các TH tổn thương thần kinh cũng phức tạp và đa dạng. Có 9 TH không phục hồi gồm: 3 thần kinh quay, 4 thần kinh trụ và 2 thần kinh giữa. Các TH tổn thương thần kinh quay đều đã được mổ chuyển gân và cho kết quả phục hồi chức năng tốt và 2 TH tổn thương thần kinh giữa cũng chỉ ảnh hưởng đến cảm giác hơn là vận động. Chính vì thế nên không thấy sự tương quan giữa tổn thương mạch máu - thần kinh với phục hồi chức năng khi thống kê (p=0,182). 22 Tổn thương gân cơ: Trong nghiên cứu này tất cả các TH đều có tổn thương gân cơ với 92,9% tổn thương từ 2 khoang trở lên. Kết quả phân tích cho thấy có sự tương quan giữa tổn thương gân cơ với phục hồi chức năng (p=0,024) và sự tương quan này có tính khuynh hướng mạnh với çz ç=0.008, có nghĩa là tổn thương gân cơ càng nặng thì phục hồi c ức năng càng kém. Điều này cho thấy mặc dù cố gắng khâu nối gân cơ, thậm chí chuyển gân ngay thì đầu và có chương trình tập phục hồi chức năng tích cực nhưng đối với các tổn thương quá nặng (MT4, MT5), kết quả vẫn còn hạn chế (41,2% trung bình và kém). KẾT LUẬN Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng từ 10/2011 đến 8/2014 tại bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình TP.HCM với 102 TH gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên (gồm 2 nhóm: 56 TH nhóm nẹp vít và 46 TH nhóm BĐN), thời gian theo dõi trung bình là 28,8 tháng (12 đến 45 tháng). Qua nghiên cứu có các kết luận sau: 1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng: - Xương gãy: 102 TH với 164 xương gồm: 75 xương quay, 77 xươ g trụ và 12 xương cánh tay. Ở cẳng tay, chỉ có 5,9% là gãy xương trụ đơn thuần và 4,9% gãy xương quay đơn thuần, còn lại đều là gãy 2 xương hay gãy một xương kèm trật khớp. Ở cẳng tay, gãy 1/3 dưới chiếm đa số với 52%, gãy 2 xương cùng mức chiếm 71% và kiểu gãy hay gặp nhất là gãy nhiều mảnh - nhiều tầng với 32,9%. Ở xương cánh tay, vị trí hay gặp nhất là 1/3 giữa với 75% và kiểu gãy ngang hay gặp nhất với 41,6%. - Da: có đến 55,9% IO3 và 39,2% IO4. Gân cơ: chỉ có 10,8% là MT2, 54,9% MT3 và 34,3% là MT4, MT5. Các trường hợp có tổn 23 thương mạch máu - thần kinh lên đến 47,1%, trong đó tổn thương thần kinh là 39,2% và tổn thương động mạch là 25,5%. - Cấy khuẩn trước mổ có 41,2% mọc với S. aureus và E. coli chiếm đến 49,9%. Ở lần cấy khuẩn trước khi đóng vết mổ, tất cả các mẫu đều không mọc. 2. Đánh giá kết quả điều trị gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên bằng nẹp vít thì đầu và so sánh với nhóm BĐN: * Kết quả gần: - Diễn tiến vết thương: Lành da thì đầu là 60,71% và lành da thì hai (sau ghép da và khâu da thì hai) là 32,14%; tương đương với nhóm BĐN (58,7% và 34,78%). - Tỉ lệ nhiễm khuẩn nông là 5,36%, nhiễm khuẩn sâu là 1,79%, tương đương với nhóm BĐN (4,35% và 2,17%); cho thấy KHX nẹp vít ngay thì đầu không làm tăng tỉ lệ nhiễm khuẩn. - Sự phục hồi giải phẫu sau mổ: Xương cánh tay không có trường hợp nào gập góc trên 200. Xương cẳng tay có MRB là 12,5 mm, RL là 208,3 mm, L.MRB là 58,5%; không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với nhóm BĐN (p>0,05). * Kết quả xa: - Kết quả liền xương: đạt 98,2%, cao hơn nhóm BĐN (71,7%) có ý nghĩa thống kê (p<0,001). - Phục hồi chức năng: đạt 64,3% rất tốt, 16,1% tốt, 17,8% trung bình và 1,8% kém; cao hơn nhóm BĐN có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Bên cạnh đó, theo đánh giá chức năng chủ quan của bệnh nhân, điểm DASH của nhóm nẹp vít cũng thấp hơn nhóm BĐN (8,7 so với 14,6 điểm; p=0,004), cho thấy kết quả phục hồi chức năng tốt hơn. - Các biến chứng gồm: dính gân 7,1%, gãy lại sau tháo nẹp 4,3%. Nhóm BĐN gồm: di lệch thứ phát 4,4%, dính quay trụ 2,2%, dính gân 24 19,6%; riêng tỉ lệ nhiễm khuẩn chân đinh là 19,6% - là nguyên nhân chính gây thất bại điều trị. 3. Một số các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên bằng nẹp vít thì đầu: - Nhiễm khuẩn: các yếu tố như mức độ tổn thương da, tổn thương gân cơ, phân loại các yếu tố nguy cơ toàn thân, vi khuẩn trước mổ, thời điểm phẫu thuật trong vòng 24 giờ, đóng kín hay hở da đều không có mối liên quan đến nhiễm khuẩn khi thống kê (p>0,05). Điều này cho thấy vai trò tối quan trọng của cắt lọc vết thương. - Liền xương: các yếu tố như loại xương gãy (cánh tay, xương quay, xương trụ), vị trí gãy và kiểu gãy không cho thấy có mối liên quan đến khả năng liền xương. Phục hồi chức năng: tổn thương mạch máu - thần kinh không cho thấy có mối liên quan đến phục hồi chức năng. Tuy nhiên, tổn thương gâ cơ lại có sự liên quan rõ với phục hồi chức năng (p = 0,024) và sự tương quan này có tính khuynh hướng mạnh với çz ç= 0.008, có nghĩa là tổn thương gân cơ càng nặng thì phục hồi chức năng càng kém. KIẾN NGHỊ Nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng đã cho thấy kết hợp xương nẹp vít thì đầu cho gãy hở độ IIIA thân xương dài chi trên là một phương pháp khá an toàn, đồng thời cho kết quả phục hồi giải phẫu, lành xương và phục hồi chức năng tốt, là một lựa chọn tốt cho phẫu thuật viên chỉnh hình. Cần thêm những nghiên cứu sâu hơn về các yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn trong gãy xương hở độ IIIA, từ đó kiểm soát các yếu tố này để đạt được sự an toàn cao nhất khi kết hợp xương nẹp vít ngay thì đầu.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_cho_thay_su_dung_nep_vit_ngay_thi.pdf