Tóm tắt Luận án Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể

Vạt bẹn (Groin flap) được Smith và cộng sự mô tả về giải phẫu vào

năm 1971, đây là vạt da mỡ hoặc da cân mạch trục được cấp máu bởi

động mạch mũ chậu nông. Năm 1972, McGregor và Jackson - những

cộng sự cùng nghiên cứu giải phẫu với Smith báo cáo kết quả sử dụng

vạt bẹn ở dạng cuống liền kiểu trụ da Filatov để che phủ khuyết hổng

mô mềm ở bàn tay,ngón tay và vùng trán.

Năm 1973, lần đầu tiên trên thế giới, Daniel và Taylor thành công

trên lâm sàng chuyển vạt tổ chức tự do là vạt bẹn.Thành công này đánh

dấu thời kỳ phát triển của chuyển vạt tự do, tạo bước đột phá trong phẫu

thuật phục hồi. Sau đó, nhiều tác giả nghiên cứu giải phẫu và sử dụng

vạt bẹn ở dạng tự do. Trong ứng dụng lâm sàng, nhiều tác giả nhận thấy

vạt bẹn có ưu điểm là: có thể lấy được vạt với kích thước lớn, nơi cho

được đóng kín trực tiếp và sẹo được giấu kín; nhưng cũng có nhược

điểm là: cuống mạch ngắn, đường kính mạch nhỏ và có nhiều biến

đổi về giải phẫu nên việc bóc tách, nối mạch của vạt vào vùng nhận

nhiều khi gặp khó khăn. Ngoài ra, nửa trong của vạt thường dày và

có lông, màu sắc của vạt thường nhợt nhạt nên kém thẩm mỹ. Do có

những nhược điểm này nên từ những năm cuối thập niên 1980, vạt

bẹn dần ít được sử dụng ở dạng tự do, thay vào đó là những vạt có

cuống mạch dài, đường kính mạch lớn và ít biến đổi về giải phẫu như

vạt da cân vùng bả vai, vạt cánh tay ngoài,vạt đùi trước ngoài

pdf 27 trang dienloan 9500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể

Tóm tắt Luận án Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG 
VIỆN NGHIÊN CỨU KHO A HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 
TRẦN VĂN DƯƠNG 
NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU VÀ ỨNG DỤNG 
VẠT BẸN DẠNG TỰ DO TRONG ĐIỀU TRỊ 
KHUYẾT HỔNG MÔ MỀM Ở CHI THỂ 
Chuyên ngành: Chấn thương chỉnh hình và tạo hình 
Mã số: 62720129 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN S Ĩ Y HỌC 
HÀ NỘ I – 2016 
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH 
TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 
Người hướng dẫn khoa học: 
1. GS.TS. Nguyễn Việt Tiến 
Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Đăng Ninh 
Phản biện 2: GS.T S. Lê Gia Vinh 
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Xuân Thùy 
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường tại 
Viện nghiên cứu khoa học y dược lâm sàng 108 
vào hồi: giờ ngày tháng năm 
Có thể tìm hiểu luận án tại: 
1. Thư viện Quốc Gia 
2. Thư viện Viện NCKH Y Dược lâm sàng 108 
1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vạt bẹn (Groin flap) được Smith và cộng sự mô tả về giải phẫu vào 
năm 1971, đây là vạt da mỡ hoặc da cân mạch trục được cấp máu bởi 
động mạch mũ chậu nông. Năm 1972, McGregor và Jackson - những 
cộng sự cùng nghiên cứu giải phẫu với Smith báo cáo kết quả sử dụng 
vạt bẹn ở dạng cuống liền kiểu trụ da Filatov để che phủ khuyết hổng 
mô mềm ở bàn tay, ngón tay và vùng trán. 
Năm 1973, lần đầu tiên trên thế giới, Daniel và Taylor thành công 
trên lâm sàng chuyển vạt tổ chức tự do là vạt bẹn. Thành công này đánh 
dấu thời kỳ phát triển của chuyển vạt tự do, tạo bước đột phá trong phẫu 
thuật phục hồi. Sau đó, nhiều tác giả nghiên cứu giải phẫu và sử dụng 
vạt bẹn ở dạng tự do. Trong ứng dụng lâm sàng, nhiều tác giả nhận thấy 
vạt bẹn có ưu điểm là: có thể lấy được vạt với kích thước lớn, nơi cho 
được đóng kín trực tiếp và sẹo được giấu kín; nhưng cũng có nhược 
điểm là: cuống mạch ngắn, đường kính mạch nhỏ và có nhiều biến 
đổi về giải phẫu nên việc bóc tách, nối mạch của vạt vào vùng nhận 
nhiều khi gặp khó khăn. Ngoài ra, nửa trong của vạt thường dày và 
có lông, màu sắc của vạt thường nhợt nhạt nên kém thẩm mỹ. Do có 
những nhược điểm này nên từ những năm cuối thập niên 1980, vạt 
bẹn dần ít được sử dụng ở dạng tự do, thay vào đó là những vạt có 
cuống mạch dài, đường kính mạch lớn và ít biến đổi về giải phẫu như 
vạt da cân vùng bả vai, vạt cánh tay ngoài, vạt đùi trước ngoài 
Tuy nhiên, từ những năm cuối thập niên 1990, với sự phát triển 
của vi phẫu thuật đạt tới trình độ siêu vi phẫu (super microsurgery) 
thực hiện thành công những mạch máu có đường kính xấp xỉ 0,5 mm 
và kỹ thuật làm mỏng vạt da được cấp máu bởi mạch xuyên tới mức 
siêu mỏng (super thin flap), dày khoảng 3 - 4 mm, thì vạt bẹn lại 
được nhiều tác giả quan tâm, cân nhắc sử dụng ở dạng tự do nhằm 
khai thác những ưu điểm của nó. 
Ở Việt Nam, vạt bẹn được biết đến và sử dụng ở dạng cuống liền 
kiểu trụ da Filatov từ những năm 1980. Nguyễn Huy Phan (1993) báo 
cáo sử dụng vạt bẹn ở dạng tự do trong điều trị khuyết hổng ở chi dưới. 
2 
Về giải phẫu vạt bẹn, Nguyễn Văn Huy (1999) đã có nghiên cứu về đặc 
điểm cuống mạch của vạt. Hiện nay, chưa thấy công trình nào đề cập 
đến sử dụng vạt bẹn dạng tự do trong phẫu thuật phục hồi nói chung và 
ở chi thể nói riêng. 
Từ thực tiễn nêu trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu 
giải phẫu và ứng dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị khuyết 
hổng mô mềm ở chi thể ” với 2 mục tiêu sau: 
1. T ìm hiểu đặc điểm giải phẫu mạch máu của vạt bẹn ở người 
Việt trưởng thành. 
2. Đánh giá kết quả sử dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị 
khuyết hổng mô mềm ở chi thể, t ìm hiểu một số yếu tố liên quan đến 
kết quả, nguyên nhân gây thất bại và những ưu, nhược điểm của vạt. 
NHỮNG ĐÓ NG GÓP MỚ I CỦA LUẬN ÁN 
1. Mô tả chi t iết đầy đủ đặc điểm giải phẫu mạch máu của vạt 
bẹn và số lượng mạch xuyên lên da, diện tích da được ĐMMCN cấp 
máu trên xác người Việt trưởng thành. 
2. Đánh giá kết quả ứng dụng vạt bẹn trên lâm sàng che phủ 
KHMM ở chi thể với tỷ lệ thành công 94,2%; Bước đầu xác định 
một số yếu tố liên quan đến kết quả, nguyên nhân thất bại và di 
chứng nơi cho vạt. 
3 
BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN 
Luận án gồm 125 trang (không kể phần tài liệu tham khảo và 
phụ lục), với các phần chính như sau: 
- Đặt vấn đề: 2 trang 
- Chương 1. Tổng quan: 28 trang 
- Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 27 trang 
- Chương 3. Kết quả: 38 trang 
- Chương 4. Bàn luận: 28 trang 
- Kết luận: 2 trang 
- Luận án có 24 bảng, 2 biểu đồ, 54 hình 
- Tham khảo 153 tài liệu (29 tiếng Việt, 124 tiếng nước ngoài) 
- Bốn bài báo có liên quan trực tiếp đề tài đã được công bố. 
4 
Chương 1. TỔNG QUAN 
1.1. Giải phẫu vạt bẹn 
1.1.1. Đại cương 
Manktelow (1986) mô tả khái quát giải phẫu vạt bẹn như sau: 
Vạt bẹn là vạt da mỡ hoặc da cân ở vùng phần trên đùi, phần 
dưới bụng và vùng mào xương chậu. Cấp máu cho da vùng bẹn là 
mạng động mạch quy tụ từ 5 động mạch (ĐM) sau: động mạch mũ 
chậu nông (ĐMMCN), động mạch thượng vị nông (ĐMTVN), động 
mạch mũ chậu sâu (ĐMMCS), ĐM thắt lưng thứ tư và ĐM mông 
trên. Tuy nhiên, cuống ĐM của vạt bẹn là ĐMMCN hoặc ĐMTVN. 
Có hai hệ thống tĩnh mạch (TM) dẫn lưu ở vùng bẹn. Hệ TM 
nông dưới da: t ĩnh mạch mũ chậu nông (TMMCN) và tĩnh mạch 
thượng vị nông (TMTVN) có đường kính từ 1,2 - 5 mm. Hệ thống 
TM sâu là những TM tùy hành ĐMMCN, đường kính trung bình là 
1,1 mm. 
Cuống vạt bẹn không có TK cảm giác cho vạt, chỉ có TK bì đùi 
ngoài chi phối cảm giác cho vùng đùi ngoài đi qua vạt. 
1.1.2. Tình hình nghiên cứu giải phẫu mạch máu của vạt bẹn 
1.1.2.1. Trên thế giới 
Tháng 5/1971, Smith báo cáo kết quả nghiên cứu giải phẫu vạt 
bẹn. Sau báo cáo của McGregor và Jackson, Taylor và Daniel cùng 
nhiều tác giả khác đã nghiên cứu và ứng dụng vạt bẹn trong phẫu thuật 
phục hồi. Kết quả nghiên cứu được tóm tắt như sau: 
- Động mạch mũ chậu nông: 
+ Nguyên ủy: Taylor và Daniel (1975), ĐMMCN tỷ lệ tách trực 
tiếp từ ĐM đùi là 83%, còn lại 17% tách từ ĐMMCS hoặc ĐM mũ 
đùi trong (ĐMMĐT), ĐM sinh dục nông hoặc sâu. Penteado (1983), 
cho thấy ĐMMCN tách trực tiếp từ ĐM đùi là 83,3%, còn lại 16,7%, 
tách từ ĐMMCS (6,6%), từ ĐM mũ đùi ngoài ĐMMĐN (6,6%) và từ 
ĐMĐS (3,3%). Sol (2013), tỷ lệ ĐMMCN tách trực tiếp từ ĐM đùi là 
69,12%, số còn lại (30,88%) tách từ các ĐM khác (ĐMTVN, ĐM 
mũ đùi ngoài, ĐMMCS, ĐM sinh dục, ĐM đùi nông). 
5 
+ Liên quan giữa ĐMMCN với ĐMTVN: Taylor và Strauch 
cho thấy: ĐMMCN và ĐMTVN có thân chung chiếm 48%. 
ĐMMCN thân riêng biệt chiếm 17%, ĐMMCN không có ĐMTVN 
chiếm 35% số tiêu bản. Penteado thì ĐMMCN và ĐMTVN có thân 
chung chiếm 41,7%. Harii và Ohmori (1975), ĐMMCN và ĐMTVN có 
thân chung là 17% và Sol (2013), ĐMMCN và ĐMTVN có thân chung 
là 20,59%. 
+ Đường kính: Trường hợp ĐMMCN và ĐMTVN có thân chung 
của Taylor và Daniel thì là 1,4 mm (0,8 - 3 mm), Penteado là 2 mm 
(1,3 - 2,6mm). Trường hợp chỉ có ĐMMCN mà không có ĐMTVN 
của Taylor và Daniel là 1,4 mm (0,8 - 3 mm), Penteado là 1,35 mm 
(0,9 – 2 mm). Trường hợp ĐMMCN thân riêng lẻ Taylor và Daniel 
là 1,1 mm (0,8 - 3 mm), Sol là 1,42 mm. 
+ Đường đi, phân nhánh: 
Những công trình có nội dung nghiên cứu về đường đi, phân 
nhánh của ĐMMCN như: Koshima, O’Brien, Murakami, Taylor và 
Daniel, đều cho kết quả tương tự như mô tả của Manktelow. 
+ Mạch xuyên: 
Năm 2004, Koshima nghiên cứu 10 xác và thực hiện chuyển 10 
vạt bẹn dựa trên mạch xuyên cho thấy: Nhánh nông của ĐMMCN 
cho một vài nhánh xuyên lên da với đường kính 0,3-0,5 mm. Nhánh 
sâu của ĐMMCN cho nhiều nhánh xuyên với đường kính 0,5-
0,8mm. 
Năm 2010, Sinna nghiên cứu 20 tiêu bản của 10 xác tươi là 
người trưởng thành: ĐMMCN có đường kính trung bình là 1,92 mm. 
Nhánh sâu có đường kính là 1,35 mm, luôn có 2 nhánh ĐM xuyên 
cấp máu cho da với đường kính 0,85 mm và đường kính TM 0,73 
mm. Chiều dài cuống vạt mạch xuyên dựa trên nhánh sâu là 4,8 cm 
(gồm chiều dài của mạch xuyên và nhánh sâu). Khi bơm thuốc xanh 
mehtylen vào nhánh sâu thì diện da ngấm thuốc màu là 160 cm2 (75 
cm2 - 375 cm2). 
- Động mạch thượng vị nông: 
6 
Năm 2008, Fathi báo cáo nghiên cứu 40 t iêu bản xác t ươi cho 
thấy: ĐMTVN xuất hiện 95%. Đường kính là 1,45 0,35 mm (0,7 – 
2,1 mm). TMTVN đường kính là 2,14 0,45 mm (1,6 - 4 mm). 
- Hệ thống TM dẫn lưu: 
Nghiên cứu của các tác giả đều nhận thấy có 2 hệ thống TM 
nông và hệ sâu. 
1.1 .2.2. Ở Việt Nam 
Năm 1999, Nguyễn Văn Huy nghiên cứu giải phẫu vạt căng mạc 
đùi và các vạt bẹn. Với n = 56, kết quả cho thấy: ĐMMCN hiện diện 
100% tiêu bản. 
1.2 . Các phương pháp điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể 
1.2.1. Phương pháp kinh điển: Ghép da và vạt ngẫu nhiên 
1.2.2. Phương pháp che phủ bằng vạt cuống liền 
1.2.2.1. Vạt cuống liền dựa trên mạch trục 
1.2.2.2. Vạt cuống liền dựa trên mạch xuyên 
1.2.2.3. Phương pháp che phủ KHMM bằng vạt tự do 
1.2.2.4. Liệu pháp chân không 
1.3. Nghiên cứu vạt bẹn tự do trong điều trị KHMM ở chi thể 
1.3.1. Trên thế giới 
- Sử dụng vạt da mỡ bẹn: 
Sau thành công của Daniel và Taylor (1973), nhiều tác giả 
nghiên cứu chuyển vạt bẹn dạng tự do trong phẫu thuật phục hồi: 
Năm 1974, Harri và cộng sự báo cáo 10 trường hợp chuyển vạt 
bẹn để che phủ KHMM ở chi thể và đầu - mặt - cổ, tất cả đều thành 
công. 
Năm 1979, Acland đã thay đổi thiết vạt so với những tác giả 
trước đó. Một hình thức mới của vạt bẹn được ứng dụng trong lâm 
sàng gọi là vạt bẹn cải t iến (Modification of the free groin flap). 
- Sử dụng vạt bẹn dạng phức hợp (compound) và phối hợp 
(combination): 
Năm 1978, Taylor báo cáo 2 trường hợp chuyển vạt bẹn phức 
hợp (da - xương) tự do. Sau đó, một số tác giả khác sử dụng vạt bẹn 
phức hợp trong tạo hình ở vùng đầu - mặt - cổ và chi thể như: 
7 
O’Brien (1979), Panje (1981), Harii (1981), Dzwierzynski (1995), Hui 
(2013), Chao (2015).... 
- Sử dụng vạt bẹn dựa trên mạch xuyên 
Năm 2004, Koshima báo cáo sử dụng 10 vạt bẹn mạch xuyên để 
che phủ KHMM ở chi thể. Kết quả cho thấy 9 vạt sống hoàn toàn, 1 
vạt tự do bị hoại tử 1 phần. 
Năm 2007, Hsu báo cáo sử dụng 12 vạt bẹn mạch xuyên tự do 
tất cả vạt sống hoàn toàn, chỉ có 2 vạt hoại tử 1 phần. 
Năm 2009, Tare báo cáo sử dụng 10 vạt bẹn mạch xuyên tự do, 
kết quả 9 vạt sống hoàn toàn, 1 vạt hoại tử 1 phần, không ghi nhận có 
biến chứng lớn trong quá trình điều trị. 
Năm 2009, Kimura báo cáo kết quả chuyển 30 vạt bẹn mạch 
xuyên tự do. Trong đó, có 25 vạt được làm mỏng theo kỹ thuật 
“Worm - eaten - defatting” tạm dịch là “tằm ăn lá dâu”. Kết quả 
1/25 vạt hoại tử hoàn toàn, 3/25 vạt hoại tử đầu xa do vạt có chiều 
dài > 20 cm. 
Năm 2013, Hong (2013) báo cáo 79 vạt bẹn mạch xuyên, tỷ lệ 
vạt sống hoàn toàn là 95%, vạt bị hoại tử là 5% (3 vạt bị hoại tử toàn 
bộ và 1 vạt hoại tử một phần). 
Năm 2015, Goh (2015) báo cáo 210 vạt bẹn mạch xuyên dạng tự 
do, tỷ lệ thành công là 95,2%, thất bại là 4,8%. 
Hiện nay, vạt bẹn dựa trên mạch xuyên được nhiều tác như 
Green, He, Jin, Ma, Tashiro, Iida . cho thấy tỷ lệ vạt sống đều trên 
95%. 
1.3.1.4. Biến chứng và di chứng tại nơi cho vạt bẹn 
Năm 1992, Forrest báo cáo 82 BN được sử dụng vạt bẹn dạng tự 
do có những biến chứng tại nơi cho vạt như sau: Biến chứng sớm là đau 
tại chỗ (22 BN), chậm liền vết mổ (4 BN), tổn thương thần kinh đùi 
(4 BN), tổn thương mạch máu (3 BN), nhiễm khuẩn (3 BN). Biến 
chứng muộn và di chứng gặp nhiều nhất là giảm cảm giác vùng bẹn 
(22 BN), sẹo xấu (10 BN), dáng đi thay đổi (9 BN), thoát vị thành 
bụng (8 BN), đau kéo dài hơn 1 năm (7 BN), mất cảm giác vùng đùi 
(4 BN), dị cảm (2 BN). 
8 
1.3.1.5. Những yếu tố liên quan đến kết quả chuyển vạt bẹn 
1.3.2. Ở Việt Nam 
Năm 1993, Nguyễn Huy Phan báo cáo kết quả sử dụng 2 vạt da 
bẹn tự do trong điều trị KHMM ở chi dưới. Những báo cáo khác về 
sử dụng vạt bẹn đều là ở dạng cuống mạch liền. Hiện nay, chưa có 
công trình nào nghiên cứu sử dụng vạt bẹn tự do trong điều trị 
KHMM ở chi thể một cách căn bản, đó là lý do để chúng tôi thực 
hiện đề tài này. 
9 
Chương 2 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
2.1.1. Nghiên cứu giải phẫu 
- 49 tiêu bản vùng bẹn của 25 xác người Việt trưởng thành (15 
nam, 10 nữ), gồm: 20 tiêu bản của 10 xác bảo quản trong formalin và 
29 tiêu bản của 15 xác tươi được bảo quản lạnh ở nhiệt độ - 300C, để 
rã đông trước khi phẫu tích 2 ngày. Nghiên cứu được thực hiện tại 
Bộ môn Giải phẫu, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 
- T iêu chuẩn lựa chọn: Xác người Việt trưởng thành (>18 tuổi), 
vùng bẹn không có bệnh lý về mạch máu hoặc tổn thương do di 
chứng chấn thương. 
- T iêu chuẩn loại trừ: Không đạt những tiêu chí như lựa chọn. 
2.1.2. Nghiên cứu ứng dụng lâm sàng 
49 BN có KHMM ở chi thể được điều trị tại Khoa Chấn thương 
Chỉnh hình, Bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2013 - 9/2015. 
- T iêu chuẩn chọn BN: 
+ Nhóm hồi cứu: 
BN có đầy đủ hồ sơ bệnh án, đủ tư liệu theo dõi kết quả xa. 
+ Nhóm tiến cứu: Có KHMM ở chi thể. Nơi lấy vạt bẹn không 
bị tổn thương. Toàn trạng BN không có các bệnh lý nội khoa ảnh 
hưởng đến phẫu thuật lớn, kéo dài và gây mê nội khí quản, BN 
không mắc bệnh tâm thần và đồng ý phẫu thuật. 
- T iêu chuẩn loại trừ: 
+ Nhóm hồi cứu: BN không có đầy đủ hồ sơ lưu trữ tại Bệnh 
viện Chợ Rẫy và không được theo dõi đánh giá kết quả xa 
+ Nhóm tiến cứu: Không đạt những tiêu chí như lựa chọn 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Nghiên cứu giải phẫu 
- Phương pháp: Quan sát mô tả. 
- Kỹ thuật phẫu tích trên xác tươi 
10 
+ Đặt xác nằm ngửa t rên bàn mổ. Xác định các mốc giải phẫu. 
Rạch da dài 5 cm, từ trung điểm DCB dọc xuống đùi (tương ứng với 
đường đi của ĐM đùi). Phẫu tích nguyên ủy của ĐMMCN. T iếp tục 
rạch da từ điểm giữa DCB vào đường trắng giữa bụng và lên qua rốn, 
rạch tiếp theo bờ dưới sườn tới đường nách trước; rạch da ngang 
vùng 1/3 trên đùi, đi từ đường rạch dọc đùi nói trên ra phía ngoài. 
Phẫu tích ĐMMCN từ nguyên ủy đến nơi phân nhánh nông và nhánh 
sâu, xác định đặc điểm của 2 nhánh này. Cắt cuống ĐMMCN tại 
nguyên ủy. Bơm 20 - 30 ml thuốc xanh methylen 2% vào ĐMMCN. 
Chờ tới khi diện da ngấm đều thuốc (60 – 90 phút) thì đo diện da. 
+ Kỹ thuật phẫu tích và chụp X.quang ĐMMCN. Phẫu tích lấy 
toàn bộ diện da ngấm thuốc, cố định da trên khung hình chữ nhật. 
Bơm dung dịch thuốc cản quang (5g gelatin + 100g ô xit chì) 20 – 30 
ml vào trong lòng ĐMMCN, chờ cho thuốc ngấm đều (60 – 90 phút), 
sau đó chụp X.quang để tìm cây mạch của ĐMMCN. 
- Kỹ thuật phẫu tích trên xác bảo quản. 
+ Đặt xác nằm ngửa trên bàn mổ, rạch da theo đường trắng giữa 
rốn, ở phía trên tới bờ sườn rồi rạch da ra ngoài đến đường nách 
trước, ở phía dưới đến củ mu rồi t iếp tục rạch da xuống mặt trong đùi 
đến 1/3 trên giáp 1/3 giữa, rạch da tiếp ra bên ngoài. 
+ Phẫu tích các TM nông dưới da. 
+ Phẫu tích ĐMMCN: Theo 2 cách phẫu tích 
• Cách thứ nhất: Nếu nhận thấy các nhánh của ĐMMCN ở mô 
dưới da thì phẫu tích theo các nhánh này cho đến vị trí nguyên ủy. 
Xác định đường đi và phân nhánh của ĐMMCN. 
• Cách thứ 2: Ở người béo có lớp mỡ dày không nhận ra các 
nhánh của ĐMMCN ở lớp mô dưới da thì phẫu tích từ vị trí nguyên 
ủy ... vạt bẹn được sử dụng 
Có 40 vạt da bẹn đơn thuần, 8 vạt da bẹn mạch xuyên, 3 vạt da 
bẹn phối hợp với vạt đùi trước ngoài. 
- Kỹ thuật nối mạch: Nối ĐM cuống vạt vào ĐM nhận theo 
kiểu tận – bên có 44/51 trường hợp (86,3%) và kiểu tận - tận có 7/51 
số trường hợp (13,7%). TM vạt nối vào TM nhận theo kiểu tận - tận 
có 50/51 trường hợp (98,0%), nối kiểu tận – bên có 1/51 trường hợp 
(2%). 
- Ghép cuống mạch: 4/51 trường hợp (7,8%) có ghép mạch làm 
dài cuống mạch vạt từ 3 – 5 cm. 
3.2.2. Kết quả chuyển vạt 
- Vạt sống hoàn toàn: 46/51 vạt (90,2%); vạt hoại tử hoàn toàn: 
3/51 vạt (5,9%); vạt hoại tử 1 phần: 2/51 vạt (3,9%) 
- Biến chứng: 
+ Biến chứng sớm: Tắc mạch trong mổ: Có 2 trường hợp; Tắc 
mạch sau mổ: 3 trường hợp; Bỏng tại vạt: 1 trường hợp; Nhiễm 
khuẩn tại vùng nhận: 1 trường hợp; Tại nơi cho vạt: 2 trường hợp. 
+ Biến chứng muộn gặp 1 trường hợp. 
3.2.3. Kết quả chuyển vạt và những yếu tố liên quan 
- Liên quan kết quả chuyển vạt và kỹ thuật khâu nối ĐM. 
16 
Kết quả vạt sống và hoại tử giữa 2 nhóm (Kiểu nối tận – bên và 
tận – tận) thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,02 với phép 
kiểm định Fisher,s exact test). 
- Liên quan kết quả chuyển vạt và ghép mạch. 
Kết quả chuyển vạt giữa 2 nhóm (Có ghép mạch và không ghép 
mạch) thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001 với phép 
kiểm định Fisher,s exact test). 
3.2.4. Kết quả điều trị 
- Thời gian theo dõi BN 
Có 49 BN với 48 vạt sống hoàn toàn và 3 vạt thất bại được theo 
dõi và đánh giá kết quả điều trị. 
Thời gian theo dõi sau mổ với thời gian trung bình là 34 tháng (7 
tháng - 7 năm). 
- Kết quả điều trị: Tốt: 46/51 vạt (90,2%); Vừa: 2/51 vạt 
(3,9%); Xấu: 3/51 vạt (5,9%). 
- - Liên quan kết quả điều trị và tổn thương giải phẫu. 
Kết quả giữa 2 nhóm (KHMM, KHMM + gân) thấy sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (p = 0,03 với kiểm định Fisher,s exact test ). 
- Liên quan kết quả điều trị và hình thức vạt. 
Kết quả điều trị với 3 nhóm hình thức sử dụng vạt (Vạt da mỡ, 
vạt mạch xuyên, vạt phối hợp) thấy sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê (P = 0,3 với kiểm định Fisher’s exact test). 
- Đánh giá tính thẩm mỹ nơi cho vạt và vạt da bẹn 
+ Nơi nhận vạt: Đánh giá tính thẩm mỹ nơi nhận vạt theo thang điểm 
Likert 
Kết quả rất đẹp có 7/48 trường hợp (15%), đẹp có 17/48 trường 
hợp (35%), vừa có 24/48 trường hợp (50%). 
+ Nơi cho vạt 
Kết quả liền sẹo đẹp là 13/51 trường hợp (25,49%), sẹo giãn 
33/51 trường hợp (64.71%), sẹo xù to 5/51 trường hợp (9,8%), không 
có trường hợp sẹo lồi. 
- Tính thẩm mỹ của nơi nhận vạt liên quan với hình thức vạt. 
17 
So sánh kết quả chung nơi nhận với hình thức nhóm vạt mạch 
xuyên có tính thẩm mỹ hơn nhóm vạt da mỡ và nhóm vạt phối hợp 
(P < 0,001 với kiểm định Fisher’s exact test). 
3.2.5. Kết quả xử trí tổn thương phối hợp 
Trong số 51 KHMM, 11 trường hợp có tổn thương phối hợp có 
3 trường hợp KHMM có kèm theo mất đoạn gân gấp và TK giữa, TK 
trụ này đều được ghép phục hồi gân gấp và TK giữa, TK trụ kỳ II - 
Khi khuyết hổng đã liền ổn định (sau chuyển vạt 3 tháng). 
18 
Chương 4. BÀN LUẬN 
4.1. Đặc điểm giải phẫu mạch máu vạt bẹn 
4.1.1. Sự hiện diện của ĐMMCN 
Nghiên cứu 49 tiêu bản về giải phẫu vạt bẹn ở người Việt trưởng 
thành, kết quả cho thấy ĐMMCN hiện diện ở tất cả các tiêu bản (100%) 
cũng như kết quả của các tác giả: Nguyễn Văn Huy, Taylor, Penteado, 
Murakima, Koshima, Sinna, Sol. 
4.1.2. Nguyên ủy của ĐMMCN 
- Vị trí nguyên ủy: 
Trong nghiên cứu của chúng tôi ĐMMCN tách từ ĐM đùi chiếm 
75,5%, còn lại tách từ nhánh ĐM đùi (tách từ ĐM đùi sâu là 8,2%, 
ĐM mũ đùi ngoài là 4,1%) hay nhánh của ĐM chậu ngoài (tách từ 
ĐMMCS là 12,2%) là 24,49%. Theo Taylor ĐMMCN tách trực tiếp 
từ ĐM đùi chiếm 83%, tách từ các nhánh ĐM đùi (tách từ ĐM mũ 
đùi trong, ĐM đùi sâu hoặc ĐM đùi nông) hay nhánh ĐM chậu ngoài 
(tách từ ĐMMCS) là 17%. Nguyễn Văn Huy, ĐMMCN tách trực 
tiếp ĐM đùi là 76,8%, còn lại tách từ nhánh ĐM đùi (ĐM mũ đùi 
ngoài, ĐM đùi sâu) hay nhánh ĐM chậu ngoài (tách từ ĐMMCS) là 
23,2% số trường hợp. Như vậy, kết quả của chúng tôi tương tự như 
Nguyễn Văn Huy, nhưng có khác biệt so với kết quả trong nghiên 
cứu của Taylor. Sự khác biệt này có thể là do đối tượng (chủng 
người) và mẫu nghiên cứu khác nhau. 
Dạng nguyên ủy: 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ĐMMCN có thân chung 
với ĐMTVN là 24,5%, không có thân chung là 75,5%. Trong nghiên 
cứu của Harii, tỷ lệ này là 17,02% và là 82,98% số trường hợp. 
Taylor cho thấy tỷ lệ này là 48% số trường hợp và là 52% số trường 
hợp. Nguyễn Văn Huy tỷ lệ ĐMMCN có thân chung với ĐMTVN là 
63,2% số trường hợp, không có thân chung là 36,8% số trường hợp. Sự 
khác biệt này có thể là do đặc điểm đối tượng nghiên cứu và cỡ mẫu 
khác nhau. 
4.1.3. Đường đi và phân nhánh của ĐMMCN 
19 
Đường đi và sự phân nhánh của ĐMMCN đã được nhiều tác giả 
quan tâm nghiên cứu như Taylor, Penteado, Koshima, Nguyễn Văn 
Huy. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ĐMMCN tách thành 2 
nhánh (nhánh nông và sâu) là 75,5%, chỉ có 1 nhánh (nông hoặc sâu) 
là 24,5%. 
4.1.4. Đường kính ĐM và TM 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đường kính thân chung của 
ĐMMCN với ĐMTVN là 1,7 0,32 mm, lớn hơn so với 1,4 0,34 
mm của thân riêng lẻ, với (p = 0,005). 
Trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Huy, ĐMMCN có đường là 
1,30 ± 0,15 mm. Trong nghiên cứu của Taylor, đường kính của thân 
chung này là 1,4 mm (0,8 - 3 mm), thân riêng là 1,1 mm (0,8 - 3 
mm). Nghiên cứu của Penteado là 2 mm (1,3 - 2,6mm) và 1,35 mm 
(0,9 - 2 mm). Nghiên cứu của Sinna cho thấy đường kính của 
ĐMMCN 1,92 ± 0,6 mm, của Sol là 1,42 mm. 
4.1.5. Diện da ngấm thuốc xanh Methylen 
Kết quả nghiên cứu ở 29 tiêu bản xác tươi cho thấy chiều dài 
diện da ngấm thuốc là 26,23 ± 6,34 cm (14 - 38 cm), chiều rộng là 
16,34 ± 4,00 cm (8 - 25 cm). Trong nghiên cứu của Nguyễn Văn 
Huy, diện da ngấm thuốc là 16 x 10 cm (13 x 9 cm đến 20 x 13 cm). 
Như vậy, kết quả nghiên cứu về nội dung này của chúng tôi có khác 
biệt so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Huy. 
4.1.6. Mạch xuyên của ĐMMCN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả phẫu tích 29 tiêu bản 
bẹn trên xác tươi thấy nhánh nông và nhánh sâu của ĐMMCN đều 
cho 1 - 2 mạch xuyên lên cấp máu cho da. Đa số nhánh nông tách 1 
mạch xuyên trong khi đa số nhánh sâu tách 2 mạch xuyên. Nghiên 
cứu của Koshima, nhánh nông và nhánh sâu của ĐMMCN đều cho 
mạch xuyên. Nghiên cứu của Sinna cũng cho thấy nhánh sâu của 
ĐMMCN luôn tách 2 mạch xuyên, cấp máu cho vạt bẹn với diện tích 
là 160 cm2 (75 - 375 cm2). 
4.1.7. Sự hiện diện của ĐMTVN 
4.2. Nghiên cứu ứng dụng lâm sàng 
20 
4.2.1. Đặc điểm đối tượng 
Có 49 BN với 51 KHMM ở chi thể, tuổi trung bình là 32 tuổi. 
Về nguyên nhân gây tổn thương thì TNGT chiếm đa số các trường 
hợp (39,2%), tương tự như một số nghiên cứu khác ở Việt Nam Đỗ 
Phước Hùng, Nguyễn Việt Tiến, Nguyễn Anh Tuấn, Mai Trọng 
Tường. 
Về vị trí tổn thương, KHMM ở cẳng tay - bàn tay với 25,5% số 
trường hợp tổn thương ở bàn tay - ngón tay và KHMM ở cẳng chân 
- bàn chân với 21,57% số trường hợp. Nhiều nghiên cứu của tác giả 
cũng gặp tương tự như Khouri, Wettstein. 
4.2.2. Chuẩn bị vùng nhận trước khi chuyển vạt bẹn 
Việc xử lý và chuẩn bị vùng nhận trước khi thực hiện phẫu thuật 
chuyển vạt tự do là rất quan trọng, nó liên quan đến kết quả điều trị 
làm liền tổn thương. Nhiều nghiên cứu cho thấy các bước xử lý và 
điều trị những khuyết hổng thì thực hiện phẫu thuật phục hồi cho kết 
quả tốt như Hidago, Lu, Liu, Pinsolle 
4.2.3. Lựa chọn vạt bẹn 
Trong nghiên cứu này, tất cả 51 khuyết hổng của 49 BN đều là 
KHMM ở cẳng tay - bàn tay, cẳng chân - mu bàn chân. Khi cân nhắc 
lựa chọn vạt, những vạt da cân hoặc vạt cân như nêu trên đều có thể 
được chỉ định. Lựa chọn này cũng phù hợp với nhiều tác giả trên thế 
giới: Katou (2001), Shah (1997), Cooper (1999).... 
4.2.4. Các hình thức sử dụng vạt bẹn tự do 
4.2.4.1. Vạt da mỡ bẹn 
Kết quả chúng tôi, có 40 vạt da mỡ bẹn được sử dụng với tỷ lệ 
vạt sống hoàn toàn là 93,3% (14/15 vạt), vạt hoại hoàn toàn là 6,6% 
(1/15 vạt). Tương đồng với kết quả của các tác giả: Goodstein 
(1979), Bitter (1981), Chuang (1992). 
4.2.4.2. Vạt bẹn dựa trên mạch xuyên 
Trong nghiên cứu này, có 8 trường hợp được sử dụng vạt bẹn 
dựa trên mạch xuyên được làm mỏng và đều là che phủ KHMM ở 
chi trên. Vạt kích thước 4 x 2,5 cm đến 20 x 4 cm. 
21 
Hiện nay, nhiều tác giả ứng dụng vạt bẹn mạch xuyên tự do với 
kết quả thành công khoảng 95% như: Iida, Hong, Goh... 
4.2.4.3. Vạt bẹn phối hợp 
Trong số 51 KHMM ở nghiên cứu này, chúng tôi gặp 3 trường 
hợp với khuyết hổng quá lớn mà kích thước vạt bẹn không đáp ứng yêu 
cầu điều trị nên đã sử dụng vạt bẹn phối hợp với vạt đùi trước ngoài. 
Tham khảo y văn, chúng tôi thấy Harii, Dzwierzynski, Hui cũng 
sử sử dụng vạt phối hợp. 
4.2.5. Kích thước vạt da bẹn ứng dụng trong lâm sàng 
Trong ứng dụng lâm sàng, chúng tôi đã lấy vạt bẹn có kích 
thước nhỏ nhất là 4 x 2 cm, lớn nhất là 27 x 17 cm, kích thước trung 
bình là 18,2 x 9,2 cm (không tính trường hợp sử dụng vạt bẹn phối 
hợp với vạt đùi trước ngoài). Trong nghiên cứu của Tare vạt kích 
thước 5,5 x 4,5 cm, Koshima lấy vạt với kích thước tới 20 x 15 cm, 
Murakami lấy vạt với kích thước tới 30 x 13 cm Như vậy, sử dụng 
vạt bẹn có ưu điểm là có thể lấy được vạt với kích thước đa dạng và 
lớn nhưng vẫn đảm bảo an toàn khi chuyển ở dạng tự do. 
4.2.6. Kết quả chuyển vạt bẹn tự do trong điều trị KHMM 
4.2.6.1. Kết quả chuyển vạt 
Kết quả của chúng tôi tỷ lệ vạt sống hoàn toàn là 90,2%, hoại tử 
hoàn toàn là 5,88%, hoại tử 1 phần là 3,92%. Về chuyển vạt bẹn tự 
do, kết quả của một số tác giả nước ngoài như sau: Cooper tỷ lệ vạt 
sống hoàn toàn là 91,5%, hoại tử toàn bộ là 8,5%. Kimura tỷ lệ vạt 
sống hoàn toàn là 84%, hoại tử 1 phần là 12%, hoại tử toàn bộ là 
4%Đối chiếu với những kết quả này, kết quả chuyển vạt bẹn của 
chúng tôi như nêu trên là rất khích lệ. 
4.2.6.2. Kết quả làm liền KHMM 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả cho thấy làm liền 
KHMM là 48/51 (94,1%), vạt bị hoại tử - phải điều trị khuyết hổng 
bằng cách khác là 3/51 (5,9%). Kết quả này cũng tương tự như trong 
nghiên cứu điều trị KHMM bằng vạt bẹn tự do của Cooper, Nasir, 
Sonmez, Gisquet. 
4.2.6.3. Tính thẩm mỹ tại nơi nhận và nơi cho vạt bẹn 
22 
Rất đẹp là 15% số trường hợp (7/48 vạt) có 7 vạt mạch bẹn 
mạch xuyên, đẹp là 35% (17/48 vạt), vừa là 50% (24/48 vạt). T rong 
báo cáo của Chuang có 32/73 vạt bẹn to và xấu, Graf có 13/30 vạt 
bẹn dày, to xù. Sonmez cũng gặp 4/10 vạt. Đối với vạt bẹn dựa trên 
mạch xuyên, nhiều tác giả đều nhận thấy vạt đáp ứng yêu cầu làm 
liền khuyết hổng và đạt yêu cầu về thẩm mỹ mà không phải phẫu 
thuật lần 2 để thu nhỏ vạt Hsu, Iida, Kimura. 
4.2.7. Những yếu tố liên quan đến kết quả 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, những yếu tố như: kiểu nối ĐM 
và việc ghép TM để làm dài cuống vạt có liên quan đến sự sống của 
vạt, cụ thể là: Nối ĐM kiểu tận - tận đạt kết quả kém hơn so với nối 
tận - bên (p = 0,02). Những trường hợp có ghép mạch đạt kết quả 
kém hơn so với không ghép mạch (p = 0,001). Như các nghiên cứu 
của các tác giả: Bayramicli, Catherine, Harris. 
4.2.8. Nguyên nhân gây biến chứng tắc mạch và thất bại 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, gặp 5 trường hợp biến chứng 
tắc mạch, trong đó có 3 trường hợp dẫn đến vạt bị hoại tử hoàn toàn, 
phải tháo bỏ vạt. Do kỹ thuật ghép mạch, kỹ thuật nối mạch và vị trí 
mạch nhận trong vùng tổn thương cũng như các tác giả: O’Brien, 
Sarefin, Harri... 
4.2.9. Ưu, nhược điểm của chuyển vạt bẹn tự do 
23 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu đặc điểm giải phẫu mạch máu vạt bẹn ở 49 tiêu 
bản của 25 xác người Việt trưởng thành và ứng dụng vạt bẹn dạng tự 
do điều trị 51 KHMM ở chi thể của 49 BN, chúng tôi rút ra một số 
kết luận sau: 
1. Đặc điểm giải phẫu mạch máu của vạt bẹn 
- ĐMMCN hiện diện ở 100% tiêu bản. 
- Nguyên ủy của ĐMMCN: Tách trực tiếp từ ĐM đùi gặp ở 
75,5% số trường hợp, số còn lại tách từ ĐMMCS (12,2%), ĐM đùi 
sâu (8,2%), ĐM mũ đùi ngoài (4,1%). 
- Dạng nguyên ủy của ĐMMCN: Tỷ lệ có thân chung với 
ĐMTVN là 24,5%, đường kính là 1,7 0,3 mm. Tỷ lệ thân riêng lẻ 
là 75,5%, đường kính là 1,4 0,3 mm. 
- ĐMMCN tách ra 2 nhánh (nông, sâu) gặp ở 75,5% số trường 
hợp, ĐMMCN chỉ có 1 nhánh duy gặp ở 24,5% số trường hợp. 
Nhánh nông và sâu tách ra 1 - 2 mạch xuyên. 
- Hệ TM dẫn lưu: Hệ TM tùy hành có 89,8%, đường kính là 1,24 
 0,38 mm. Đổ vào TM đùi (86,4%) và TMMCS (16,4%). Hệ TM 
nông dưới da: Trường hợp có 2 TM là 79,5% gồm: TMTVN với 
đường kính là 2,27 0,59 mm và TMMCN với đường kính là 2,3 
0,6 mm. Trường hợp có 1 TM chiếm 20,5%, đường kính là 2,3 0,9 
mm. Chúng đều đổ vào xoang TM hiển. 
+ Diện da ngấm thuốc màu có chiều dài là 26,2 ± 6,3 cm, chiều 
rộng là 16,3 ± 4,0 cm. 
24 
2. Kết quả sử dụng vạt bẹn tự do, những yếu tố liên quan đến kết 
quả, nguyên nhân gây thất bại và những ưu, nhược điểm của vạt 
- Chuyển vạt da bẹn tự do trong điều trị KHMM ở chi thể đạt tỷ 
lệ vạt sống toàn bộ là 90,2% (46/51 vạt), hoại tử một phần là 4% 
(2/51 vạt), hoại tử toàn bộ là 5,8% (3/51 vạt). 
- Tỷ lệ liền ổn định là 94,2% số KHMM (48/51 KHMM), vạt 
hoại tử, phải chuyển phương pháp điều trị để làm liền khuyết hổng là 
5,8% (3/51 KHMM). 
- Ghép mạch có ảnh hưởng xấu tới kết quả chuyển vạt 
(p<0,001). 
- Nguyên nhân gây thất bại là do nối mạch tại vị trí mạch nhận 
không lành lặn và kỹ thuật ghép mạch chênh nhau nhiều về kích 
thước đường kính. 
- Ưu, nhược điểm của vạt bẹn: 
+ Vạt có kích thước lớn, có thể làm mỏng vạt, có thể lấy vạt với 
nhiều hình thức khác nhau. 
+ Sẹo nơi cho vạt ở vị trí không bộc lộ thường xuyên. 
+ Chiều dài cuống mạch vạt ở mức trung bình nên cần lưu ý khi 
lựa chọn mạch nuôi và vị trí nối mạch tại vùng nhận. 
+ Đường kính ĐM và TM nhỏ (khoảng 1mm). Đây là những 
yếu tố không thuận lợi trong chuyển vạt bẹn tự do. 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN 
Q UAN ĐẾN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔ NG BỐ 
1. Trần Văn Dương (2008), “Nhân 5 trường hợp che phủ khuyết 
hổng mô mềm bằng vạt da bẹn vi phẫu”, Y học thực hành, Bộ y 
tế xuất bản, 620 + 621, Huế, tr. 346-349. 
2. Trần Văn Dương, Trần Nguyễn Trinh Hạnh, Huỳnh Minh 
Triều (2012), “Đánh giá kết quả điều trị khuyết hổng mô mềm 
vùng cẳng – bàn chân bằng vạt da bẹn vi phẫu tại Bệnh viện Chợ 
Rẫy”, Tạp chí Chấn Thương Chỉnh Hình Việt Nam , Số đặc biệt, 
Nha Trang, tr. 313-319. 
3. Trần Văn Dương, Cao Thỉ, Đỗ Quang Hùng, Trịnh Minh 
Giám (2015), “Nghiên cứu giải phẫu động mạch mũ chậu nông 
cấp máu cho vạt bẹn”, Tạp chí Y học thảm hoạ và bỏng, 2, tr. 
221-225. 
4. Trần Văn Dương, Cao Thỉ, Đỗ Quang Hùng, Trịnh Minh 
Giám (2015), “Đánh giá kết quả điều trị khuyết hổng mô mềm 
chi thể bằng vạt da bẹn tự do”, Tạp chí Y học thảm hoạ và bỏng, 
2, tr. 235-239. 
5. Trần Văn Dương (2016), “Ứng dụng vạt bẹn tự do trong điều 
trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể”, Tạp chí Y Dược Lâm Sàng 
108, 11, tr. 30-36. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_nghien_cuu_giai_phau_va_ung_dung_vat_ben_dan.pdf