Tóm tắt Luận án Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể
Vạt bẹn (Groin flap) được Smith và cộng sự mô tả về giải phẫu vào
năm 1971, đây là vạt da mỡ hoặc da cân mạch trục được cấp máu bởi
động mạch mũ chậu nông. Năm 1972, McGregor và Jackson - những
cộng sự cùng nghiên cứu giải phẫu với Smith báo cáo kết quả sử dụng
vạt bẹn ở dạng cuống liền kiểu trụ da Filatov để che phủ khuyết hổng
mô mềm ở bàn tay,ngón tay và vùng trán.
Năm 1973, lần đầu tiên trên thế giới, Daniel và Taylor thành công
trên lâm sàng chuyển vạt tổ chức tự do là vạt bẹn.Thành công này đánh
dấu thời kỳ phát triển của chuyển vạt tự do, tạo bước đột phá trong phẫu
thuật phục hồi. Sau đó, nhiều tác giả nghiên cứu giải phẫu và sử dụng
vạt bẹn ở dạng tự do. Trong ứng dụng lâm sàng, nhiều tác giả nhận thấy
vạt bẹn có ưu điểm là: có thể lấy được vạt với kích thước lớn, nơi cho
được đóng kín trực tiếp và sẹo được giấu kín; nhưng cũng có nhược
điểm là: cuống mạch ngắn, đường kính mạch nhỏ và có nhiều biến
đổi về giải phẫu nên việc bóc tách, nối mạch của vạt vào vùng nhận
nhiều khi gặp khó khăn. Ngoài ra, nửa trong của vạt thường dày và
có lông, màu sắc của vạt thường nhợt nhạt nên kém thẩm mỹ. Do có
những nhược điểm này nên từ những năm cuối thập niên 1980, vạt
bẹn dần ít được sử dụng ở dạng tự do, thay vào đó là những vạt có
cuống mạch dài, đường kính mạch lớn và ít biến đổi về giải phẫu như
vạt da cân vùng bả vai, vạt cánh tay ngoài,vạt đùi trước ngoài
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG VIỆN NGHIÊN CỨU KHO A HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 TRẦN VĂN DƯƠNG NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU VÀ ỨNG DỤNG VẠT BẸN DẠNG TỰ DO TRONG ĐIỀU TRỊ KHUYẾT HỔNG MÔ MỀM Ở CHI THỂ Chuyên ngành: Chấn thương chỉnh hình và tạo hình Mã số: 62720129 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN S Ĩ Y HỌC HÀ NỘ I – 2016 CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Việt Tiến Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Đăng Ninh Phản biện 2: GS.T S. Lê Gia Vinh Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Xuân Thùy Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường tại Viện nghiên cứu khoa học y dược lâm sàng 108 vào hồi: giờ ngày tháng năm Có thể tìm hiểu luận án tại: 1. Thư viện Quốc Gia 2. Thư viện Viện NCKH Y Dược lâm sàng 108 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Vạt bẹn (Groin flap) được Smith và cộng sự mô tả về giải phẫu vào năm 1971, đây là vạt da mỡ hoặc da cân mạch trục được cấp máu bởi động mạch mũ chậu nông. Năm 1972, McGregor và Jackson - những cộng sự cùng nghiên cứu giải phẫu với Smith báo cáo kết quả sử dụng vạt bẹn ở dạng cuống liền kiểu trụ da Filatov để che phủ khuyết hổng mô mềm ở bàn tay, ngón tay và vùng trán. Năm 1973, lần đầu tiên trên thế giới, Daniel và Taylor thành công trên lâm sàng chuyển vạt tổ chức tự do là vạt bẹn. Thành công này đánh dấu thời kỳ phát triển của chuyển vạt tự do, tạo bước đột phá trong phẫu thuật phục hồi. Sau đó, nhiều tác giả nghiên cứu giải phẫu và sử dụng vạt bẹn ở dạng tự do. Trong ứng dụng lâm sàng, nhiều tác giả nhận thấy vạt bẹn có ưu điểm là: có thể lấy được vạt với kích thước lớn, nơi cho được đóng kín trực tiếp và sẹo được giấu kín; nhưng cũng có nhược điểm là: cuống mạch ngắn, đường kính mạch nhỏ và có nhiều biến đổi về giải phẫu nên việc bóc tách, nối mạch của vạt vào vùng nhận nhiều khi gặp khó khăn. Ngoài ra, nửa trong của vạt thường dày và có lông, màu sắc của vạt thường nhợt nhạt nên kém thẩm mỹ. Do có những nhược điểm này nên từ những năm cuối thập niên 1980, vạt bẹn dần ít được sử dụng ở dạng tự do, thay vào đó là những vạt có cuống mạch dài, đường kính mạch lớn và ít biến đổi về giải phẫu như vạt da cân vùng bả vai, vạt cánh tay ngoài, vạt đùi trước ngoài Tuy nhiên, từ những năm cuối thập niên 1990, với sự phát triển của vi phẫu thuật đạt tới trình độ siêu vi phẫu (super microsurgery) thực hiện thành công những mạch máu có đường kính xấp xỉ 0,5 mm và kỹ thuật làm mỏng vạt da được cấp máu bởi mạch xuyên tới mức siêu mỏng (super thin flap), dày khoảng 3 - 4 mm, thì vạt bẹn lại được nhiều tác giả quan tâm, cân nhắc sử dụng ở dạng tự do nhằm khai thác những ưu điểm của nó. Ở Việt Nam, vạt bẹn được biết đến và sử dụng ở dạng cuống liền kiểu trụ da Filatov từ những năm 1980. Nguyễn Huy Phan (1993) báo cáo sử dụng vạt bẹn ở dạng tự do trong điều trị khuyết hổng ở chi dưới. 2 Về giải phẫu vạt bẹn, Nguyễn Văn Huy (1999) đã có nghiên cứu về đặc điểm cuống mạch của vạt. Hiện nay, chưa thấy công trình nào đề cập đến sử dụng vạt bẹn dạng tự do trong phẫu thuật phục hồi nói chung và ở chi thể nói riêng. Từ thực tiễn nêu trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể ” với 2 mục tiêu sau: 1. T ìm hiểu đặc điểm giải phẫu mạch máu của vạt bẹn ở người Việt trưởng thành. 2. Đánh giá kết quả sử dụng vạt bẹn dạng tự do trong điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể, t ìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả, nguyên nhân gây thất bại và những ưu, nhược điểm của vạt. NHỮNG ĐÓ NG GÓP MỚ I CỦA LUẬN ÁN 1. Mô tả chi t iết đầy đủ đặc điểm giải phẫu mạch máu của vạt bẹn và số lượng mạch xuyên lên da, diện tích da được ĐMMCN cấp máu trên xác người Việt trưởng thành. 2. Đánh giá kết quả ứng dụng vạt bẹn trên lâm sàng che phủ KHMM ở chi thể với tỷ lệ thành công 94,2%; Bước đầu xác định một số yếu tố liên quan đến kết quả, nguyên nhân thất bại và di chứng nơi cho vạt. 3 BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN Luận án gồm 125 trang (không kể phần tài liệu tham khảo và phụ lục), với các phần chính như sau: - Đặt vấn đề: 2 trang - Chương 1. Tổng quan: 28 trang - Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 27 trang - Chương 3. Kết quả: 38 trang - Chương 4. Bàn luận: 28 trang - Kết luận: 2 trang - Luận án có 24 bảng, 2 biểu đồ, 54 hình - Tham khảo 153 tài liệu (29 tiếng Việt, 124 tiếng nước ngoài) - Bốn bài báo có liên quan trực tiếp đề tài đã được công bố. 4 Chương 1. TỔNG QUAN 1.1. Giải phẫu vạt bẹn 1.1.1. Đại cương Manktelow (1986) mô tả khái quát giải phẫu vạt bẹn như sau: Vạt bẹn là vạt da mỡ hoặc da cân ở vùng phần trên đùi, phần dưới bụng và vùng mào xương chậu. Cấp máu cho da vùng bẹn là mạng động mạch quy tụ từ 5 động mạch (ĐM) sau: động mạch mũ chậu nông (ĐMMCN), động mạch thượng vị nông (ĐMTVN), động mạch mũ chậu sâu (ĐMMCS), ĐM thắt lưng thứ tư và ĐM mông trên. Tuy nhiên, cuống ĐM của vạt bẹn là ĐMMCN hoặc ĐMTVN. Có hai hệ thống tĩnh mạch (TM) dẫn lưu ở vùng bẹn. Hệ TM nông dưới da: t ĩnh mạch mũ chậu nông (TMMCN) và tĩnh mạch thượng vị nông (TMTVN) có đường kính từ 1,2 - 5 mm. Hệ thống TM sâu là những TM tùy hành ĐMMCN, đường kính trung bình là 1,1 mm. Cuống vạt bẹn không có TK cảm giác cho vạt, chỉ có TK bì đùi ngoài chi phối cảm giác cho vùng đùi ngoài đi qua vạt. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu giải phẫu mạch máu của vạt bẹn 1.1.2.1. Trên thế giới Tháng 5/1971, Smith báo cáo kết quả nghiên cứu giải phẫu vạt bẹn. Sau báo cáo của McGregor và Jackson, Taylor và Daniel cùng nhiều tác giả khác đã nghiên cứu và ứng dụng vạt bẹn trong phẫu thuật phục hồi. Kết quả nghiên cứu được tóm tắt như sau: - Động mạch mũ chậu nông: + Nguyên ủy: Taylor và Daniel (1975), ĐMMCN tỷ lệ tách trực tiếp từ ĐM đùi là 83%, còn lại 17% tách từ ĐMMCS hoặc ĐM mũ đùi trong (ĐMMĐT), ĐM sinh dục nông hoặc sâu. Penteado (1983), cho thấy ĐMMCN tách trực tiếp từ ĐM đùi là 83,3%, còn lại 16,7%, tách từ ĐMMCS (6,6%), từ ĐM mũ đùi ngoài ĐMMĐN (6,6%) và từ ĐMĐS (3,3%). Sol (2013), tỷ lệ ĐMMCN tách trực tiếp từ ĐM đùi là 69,12%, số còn lại (30,88%) tách từ các ĐM khác (ĐMTVN, ĐM mũ đùi ngoài, ĐMMCS, ĐM sinh dục, ĐM đùi nông). 5 + Liên quan giữa ĐMMCN với ĐMTVN: Taylor và Strauch cho thấy: ĐMMCN và ĐMTVN có thân chung chiếm 48%. ĐMMCN thân riêng biệt chiếm 17%, ĐMMCN không có ĐMTVN chiếm 35% số tiêu bản. Penteado thì ĐMMCN và ĐMTVN có thân chung chiếm 41,7%. Harii và Ohmori (1975), ĐMMCN và ĐMTVN có thân chung là 17% và Sol (2013), ĐMMCN và ĐMTVN có thân chung là 20,59%. + Đường kính: Trường hợp ĐMMCN và ĐMTVN có thân chung của Taylor và Daniel thì là 1,4 mm (0,8 - 3 mm), Penteado là 2 mm (1,3 - 2,6mm). Trường hợp chỉ có ĐMMCN mà không có ĐMTVN của Taylor và Daniel là 1,4 mm (0,8 - 3 mm), Penteado là 1,35 mm (0,9 – 2 mm). Trường hợp ĐMMCN thân riêng lẻ Taylor và Daniel là 1,1 mm (0,8 - 3 mm), Sol là 1,42 mm. + Đường đi, phân nhánh: Những công trình có nội dung nghiên cứu về đường đi, phân nhánh của ĐMMCN như: Koshima, O’Brien, Murakami, Taylor và Daniel, đều cho kết quả tương tự như mô tả của Manktelow. + Mạch xuyên: Năm 2004, Koshima nghiên cứu 10 xác và thực hiện chuyển 10 vạt bẹn dựa trên mạch xuyên cho thấy: Nhánh nông của ĐMMCN cho một vài nhánh xuyên lên da với đường kính 0,3-0,5 mm. Nhánh sâu của ĐMMCN cho nhiều nhánh xuyên với đường kính 0,5- 0,8mm. Năm 2010, Sinna nghiên cứu 20 tiêu bản của 10 xác tươi là người trưởng thành: ĐMMCN có đường kính trung bình là 1,92 mm. Nhánh sâu có đường kính là 1,35 mm, luôn có 2 nhánh ĐM xuyên cấp máu cho da với đường kính 0,85 mm và đường kính TM 0,73 mm. Chiều dài cuống vạt mạch xuyên dựa trên nhánh sâu là 4,8 cm (gồm chiều dài của mạch xuyên và nhánh sâu). Khi bơm thuốc xanh mehtylen vào nhánh sâu thì diện da ngấm thuốc màu là 160 cm2 (75 cm2 - 375 cm2). - Động mạch thượng vị nông: 6 Năm 2008, Fathi báo cáo nghiên cứu 40 t iêu bản xác t ươi cho thấy: ĐMTVN xuất hiện 95%. Đường kính là 1,45 0,35 mm (0,7 – 2,1 mm). TMTVN đường kính là 2,14 0,45 mm (1,6 - 4 mm). - Hệ thống TM dẫn lưu: Nghiên cứu của các tác giả đều nhận thấy có 2 hệ thống TM nông và hệ sâu. 1.1 .2.2. Ở Việt Nam Năm 1999, Nguyễn Văn Huy nghiên cứu giải phẫu vạt căng mạc đùi và các vạt bẹn. Với n = 56, kết quả cho thấy: ĐMMCN hiện diện 100% tiêu bản. 1.2 . Các phương pháp điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể 1.2.1. Phương pháp kinh điển: Ghép da và vạt ngẫu nhiên 1.2.2. Phương pháp che phủ bằng vạt cuống liền 1.2.2.1. Vạt cuống liền dựa trên mạch trục 1.2.2.2. Vạt cuống liền dựa trên mạch xuyên 1.2.2.3. Phương pháp che phủ KHMM bằng vạt tự do 1.2.2.4. Liệu pháp chân không 1.3. Nghiên cứu vạt bẹn tự do trong điều trị KHMM ở chi thể 1.3.1. Trên thế giới - Sử dụng vạt da mỡ bẹn: Sau thành công của Daniel và Taylor (1973), nhiều tác giả nghiên cứu chuyển vạt bẹn dạng tự do trong phẫu thuật phục hồi: Năm 1974, Harri và cộng sự báo cáo 10 trường hợp chuyển vạt bẹn để che phủ KHMM ở chi thể và đầu - mặt - cổ, tất cả đều thành công. Năm 1979, Acland đã thay đổi thiết vạt so với những tác giả trước đó. Một hình thức mới của vạt bẹn được ứng dụng trong lâm sàng gọi là vạt bẹn cải t iến (Modification of the free groin flap). - Sử dụng vạt bẹn dạng phức hợp (compound) và phối hợp (combination): Năm 1978, Taylor báo cáo 2 trường hợp chuyển vạt bẹn phức hợp (da - xương) tự do. Sau đó, một số tác giả khác sử dụng vạt bẹn phức hợp trong tạo hình ở vùng đầu - mặt - cổ và chi thể như: 7 O’Brien (1979), Panje (1981), Harii (1981), Dzwierzynski (1995), Hui (2013), Chao (2015).... - Sử dụng vạt bẹn dựa trên mạch xuyên Năm 2004, Koshima báo cáo sử dụng 10 vạt bẹn mạch xuyên để che phủ KHMM ở chi thể. Kết quả cho thấy 9 vạt sống hoàn toàn, 1 vạt tự do bị hoại tử 1 phần. Năm 2007, Hsu báo cáo sử dụng 12 vạt bẹn mạch xuyên tự do tất cả vạt sống hoàn toàn, chỉ có 2 vạt hoại tử 1 phần. Năm 2009, Tare báo cáo sử dụng 10 vạt bẹn mạch xuyên tự do, kết quả 9 vạt sống hoàn toàn, 1 vạt hoại tử 1 phần, không ghi nhận có biến chứng lớn trong quá trình điều trị. Năm 2009, Kimura báo cáo kết quả chuyển 30 vạt bẹn mạch xuyên tự do. Trong đó, có 25 vạt được làm mỏng theo kỹ thuật “Worm - eaten - defatting” tạm dịch là “tằm ăn lá dâu”. Kết quả 1/25 vạt hoại tử hoàn toàn, 3/25 vạt hoại tử đầu xa do vạt có chiều dài > 20 cm. Năm 2013, Hong (2013) báo cáo 79 vạt bẹn mạch xuyên, tỷ lệ vạt sống hoàn toàn là 95%, vạt bị hoại tử là 5% (3 vạt bị hoại tử toàn bộ và 1 vạt hoại tử một phần). Năm 2015, Goh (2015) báo cáo 210 vạt bẹn mạch xuyên dạng tự do, tỷ lệ thành công là 95,2%, thất bại là 4,8%. Hiện nay, vạt bẹn dựa trên mạch xuyên được nhiều tác như Green, He, Jin, Ma, Tashiro, Iida . cho thấy tỷ lệ vạt sống đều trên 95%. 1.3.1.4. Biến chứng và di chứng tại nơi cho vạt bẹn Năm 1992, Forrest báo cáo 82 BN được sử dụng vạt bẹn dạng tự do có những biến chứng tại nơi cho vạt như sau: Biến chứng sớm là đau tại chỗ (22 BN), chậm liền vết mổ (4 BN), tổn thương thần kinh đùi (4 BN), tổn thương mạch máu (3 BN), nhiễm khuẩn (3 BN). Biến chứng muộn và di chứng gặp nhiều nhất là giảm cảm giác vùng bẹn (22 BN), sẹo xấu (10 BN), dáng đi thay đổi (9 BN), thoát vị thành bụng (8 BN), đau kéo dài hơn 1 năm (7 BN), mất cảm giác vùng đùi (4 BN), dị cảm (2 BN). 8 1.3.1.5. Những yếu tố liên quan đến kết quả chuyển vạt bẹn 1.3.2. Ở Việt Nam Năm 1993, Nguyễn Huy Phan báo cáo kết quả sử dụng 2 vạt da bẹn tự do trong điều trị KHMM ở chi dưới. Những báo cáo khác về sử dụng vạt bẹn đều là ở dạng cuống mạch liền. Hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu sử dụng vạt bẹn tự do trong điều trị KHMM ở chi thể một cách căn bản, đó là lý do để chúng tôi thực hiện đề tài này. 9 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu 2.1.1. Nghiên cứu giải phẫu - 49 tiêu bản vùng bẹn của 25 xác người Việt trưởng thành (15 nam, 10 nữ), gồm: 20 tiêu bản của 10 xác bảo quản trong formalin và 29 tiêu bản của 15 xác tươi được bảo quản lạnh ở nhiệt độ - 300C, để rã đông trước khi phẫu tích 2 ngày. Nghiên cứu được thực hiện tại Bộ môn Giải phẫu, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. - T iêu chuẩn lựa chọn: Xác người Việt trưởng thành (>18 tuổi), vùng bẹn không có bệnh lý về mạch máu hoặc tổn thương do di chứng chấn thương. - T iêu chuẩn loại trừ: Không đạt những tiêu chí như lựa chọn. 2.1.2. Nghiên cứu ứng dụng lâm sàng 49 BN có KHMM ở chi thể được điều trị tại Khoa Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2013 - 9/2015. - T iêu chuẩn chọn BN: + Nhóm hồi cứu: BN có đầy đủ hồ sơ bệnh án, đủ tư liệu theo dõi kết quả xa. + Nhóm tiến cứu: Có KHMM ở chi thể. Nơi lấy vạt bẹn không bị tổn thương. Toàn trạng BN không có các bệnh lý nội khoa ảnh hưởng đến phẫu thuật lớn, kéo dài và gây mê nội khí quản, BN không mắc bệnh tâm thần và đồng ý phẫu thuật. - T iêu chuẩn loại trừ: + Nhóm hồi cứu: BN không có đầy đủ hồ sơ lưu trữ tại Bệnh viện Chợ Rẫy và không được theo dõi đánh giá kết quả xa + Nhóm tiến cứu: Không đạt những tiêu chí như lựa chọn 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Nghiên cứu giải phẫu - Phương pháp: Quan sát mô tả. - Kỹ thuật phẫu tích trên xác tươi 10 + Đặt xác nằm ngửa t rên bàn mổ. Xác định các mốc giải phẫu. Rạch da dài 5 cm, từ trung điểm DCB dọc xuống đùi (tương ứng với đường đi của ĐM đùi). Phẫu tích nguyên ủy của ĐMMCN. T iếp tục rạch da từ điểm giữa DCB vào đường trắng giữa bụng và lên qua rốn, rạch tiếp theo bờ dưới sườn tới đường nách trước; rạch da ngang vùng 1/3 trên đùi, đi từ đường rạch dọc đùi nói trên ra phía ngoài. Phẫu tích ĐMMCN từ nguyên ủy đến nơi phân nhánh nông và nhánh sâu, xác định đặc điểm của 2 nhánh này. Cắt cuống ĐMMCN tại nguyên ủy. Bơm 20 - 30 ml thuốc xanh methylen 2% vào ĐMMCN. Chờ tới khi diện da ngấm đều thuốc (60 – 90 phút) thì đo diện da. + Kỹ thuật phẫu tích và chụp X.quang ĐMMCN. Phẫu tích lấy toàn bộ diện da ngấm thuốc, cố định da trên khung hình chữ nhật. Bơm dung dịch thuốc cản quang (5g gelatin + 100g ô xit chì) 20 – 30 ml vào trong lòng ĐMMCN, chờ cho thuốc ngấm đều (60 – 90 phút), sau đó chụp X.quang để tìm cây mạch của ĐMMCN. - Kỹ thuật phẫu tích trên xác bảo quản. + Đặt xác nằm ngửa trên bàn mổ, rạch da theo đường trắng giữa rốn, ở phía trên tới bờ sườn rồi rạch da ra ngoài đến đường nách trước, ở phía dưới đến củ mu rồi t iếp tục rạch da xuống mặt trong đùi đến 1/3 trên giáp 1/3 giữa, rạch da tiếp ra bên ngoài. + Phẫu tích các TM nông dưới da. + Phẫu tích ĐMMCN: Theo 2 cách phẫu tích • Cách thứ nhất: Nếu nhận thấy các nhánh của ĐMMCN ở mô dưới da thì phẫu tích theo các nhánh này cho đến vị trí nguyên ủy. Xác định đường đi và phân nhánh của ĐMMCN. • Cách thứ 2: Ở người béo có lớp mỡ dày không nhận ra các nhánh của ĐMMCN ở lớp mô dưới da thì phẫu tích từ vị trí nguyên ủy ... vạt bẹn được sử dụng Có 40 vạt da bẹn đơn thuần, 8 vạt da bẹn mạch xuyên, 3 vạt da bẹn phối hợp với vạt đùi trước ngoài. - Kỹ thuật nối mạch: Nối ĐM cuống vạt vào ĐM nhận theo kiểu tận – bên có 44/51 trường hợp (86,3%) và kiểu tận - tận có 7/51 số trường hợp (13,7%). TM vạt nối vào TM nhận theo kiểu tận - tận có 50/51 trường hợp (98,0%), nối kiểu tận – bên có 1/51 trường hợp (2%). - Ghép cuống mạch: 4/51 trường hợp (7,8%) có ghép mạch làm dài cuống mạch vạt từ 3 – 5 cm. 3.2.2. Kết quả chuyển vạt - Vạt sống hoàn toàn: 46/51 vạt (90,2%); vạt hoại tử hoàn toàn: 3/51 vạt (5,9%); vạt hoại tử 1 phần: 2/51 vạt (3,9%) - Biến chứng: + Biến chứng sớm: Tắc mạch trong mổ: Có 2 trường hợp; Tắc mạch sau mổ: 3 trường hợp; Bỏng tại vạt: 1 trường hợp; Nhiễm khuẩn tại vùng nhận: 1 trường hợp; Tại nơi cho vạt: 2 trường hợp. + Biến chứng muộn gặp 1 trường hợp. 3.2.3. Kết quả chuyển vạt và những yếu tố liên quan - Liên quan kết quả chuyển vạt và kỹ thuật khâu nối ĐM. 16 Kết quả vạt sống và hoại tử giữa 2 nhóm (Kiểu nối tận – bên và tận – tận) thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,02 với phép kiểm định Fisher,s exact test). - Liên quan kết quả chuyển vạt và ghép mạch. Kết quả chuyển vạt giữa 2 nhóm (Có ghép mạch và không ghép mạch) thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001 với phép kiểm định Fisher,s exact test). 3.2.4. Kết quả điều trị - Thời gian theo dõi BN Có 49 BN với 48 vạt sống hoàn toàn và 3 vạt thất bại được theo dõi và đánh giá kết quả điều trị. Thời gian theo dõi sau mổ với thời gian trung bình là 34 tháng (7 tháng - 7 năm). - Kết quả điều trị: Tốt: 46/51 vạt (90,2%); Vừa: 2/51 vạt (3,9%); Xấu: 3/51 vạt (5,9%). - - Liên quan kết quả điều trị và tổn thương giải phẫu. Kết quả giữa 2 nhóm (KHMM, KHMM + gân) thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,03 với kiểm định Fisher,s exact test ). - Liên quan kết quả điều trị và hình thức vạt. Kết quả điều trị với 3 nhóm hình thức sử dụng vạt (Vạt da mỡ, vạt mạch xuyên, vạt phối hợp) thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P = 0,3 với kiểm định Fisher’s exact test). - Đánh giá tính thẩm mỹ nơi cho vạt và vạt da bẹn + Nơi nhận vạt: Đánh giá tính thẩm mỹ nơi nhận vạt theo thang điểm Likert Kết quả rất đẹp có 7/48 trường hợp (15%), đẹp có 17/48 trường hợp (35%), vừa có 24/48 trường hợp (50%). + Nơi cho vạt Kết quả liền sẹo đẹp là 13/51 trường hợp (25,49%), sẹo giãn 33/51 trường hợp (64.71%), sẹo xù to 5/51 trường hợp (9,8%), không có trường hợp sẹo lồi. - Tính thẩm mỹ của nơi nhận vạt liên quan với hình thức vạt. 17 So sánh kết quả chung nơi nhận với hình thức nhóm vạt mạch xuyên có tính thẩm mỹ hơn nhóm vạt da mỡ và nhóm vạt phối hợp (P < 0,001 với kiểm định Fisher’s exact test). 3.2.5. Kết quả xử trí tổn thương phối hợp Trong số 51 KHMM, 11 trường hợp có tổn thương phối hợp có 3 trường hợp KHMM có kèm theo mất đoạn gân gấp và TK giữa, TK trụ này đều được ghép phục hồi gân gấp và TK giữa, TK trụ kỳ II - Khi khuyết hổng đã liền ổn định (sau chuyển vạt 3 tháng). 18 Chương 4. BÀN LUẬN 4.1. Đặc điểm giải phẫu mạch máu vạt bẹn 4.1.1. Sự hiện diện của ĐMMCN Nghiên cứu 49 tiêu bản về giải phẫu vạt bẹn ở người Việt trưởng thành, kết quả cho thấy ĐMMCN hiện diện ở tất cả các tiêu bản (100%) cũng như kết quả của các tác giả: Nguyễn Văn Huy, Taylor, Penteado, Murakima, Koshima, Sinna, Sol. 4.1.2. Nguyên ủy của ĐMMCN - Vị trí nguyên ủy: Trong nghiên cứu của chúng tôi ĐMMCN tách từ ĐM đùi chiếm 75,5%, còn lại tách từ nhánh ĐM đùi (tách từ ĐM đùi sâu là 8,2%, ĐM mũ đùi ngoài là 4,1%) hay nhánh của ĐM chậu ngoài (tách từ ĐMMCS là 12,2%) là 24,49%. Theo Taylor ĐMMCN tách trực tiếp từ ĐM đùi chiếm 83%, tách từ các nhánh ĐM đùi (tách từ ĐM mũ đùi trong, ĐM đùi sâu hoặc ĐM đùi nông) hay nhánh ĐM chậu ngoài (tách từ ĐMMCS) là 17%. Nguyễn Văn Huy, ĐMMCN tách trực tiếp ĐM đùi là 76,8%, còn lại tách từ nhánh ĐM đùi (ĐM mũ đùi ngoài, ĐM đùi sâu) hay nhánh ĐM chậu ngoài (tách từ ĐMMCS) là 23,2% số trường hợp. Như vậy, kết quả của chúng tôi tương tự như Nguyễn Văn Huy, nhưng có khác biệt so với kết quả trong nghiên cứu của Taylor. Sự khác biệt này có thể là do đối tượng (chủng người) và mẫu nghiên cứu khác nhau. Dạng nguyên ủy: Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ĐMMCN có thân chung với ĐMTVN là 24,5%, không có thân chung là 75,5%. Trong nghiên cứu của Harii, tỷ lệ này là 17,02% và là 82,98% số trường hợp. Taylor cho thấy tỷ lệ này là 48% số trường hợp và là 52% số trường hợp. Nguyễn Văn Huy tỷ lệ ĐMMCN có thân chung với ĐMTVN là 63,2% số trường hợp, không có thân chung là 36,8% số trường hợp. Sự khác biệt này có thể là do đặc điểm đối tượng nghiên cứu và cỡ mẫu khác nhau. 4.1.3. Đường đi và phân nhánh của ĐMMCN 19 Đường đi và sự phân nhánh của ĐMMCN đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như Taylor, Penteado, Koshima, Nguyễn Văn Huy. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ĐMMCN tách thành 2 nhánh (nhánh nông và sâu) là 75,5%, chỉ có 1 nhánh (nông hoặc sâu) là 24,5%. 4.1.4. Đường kính ĐM và TM Trong nghiên cứu của chúng tôi, đường kính thân chung của ĐMMCN với ĐMTVN là 1,7 0,32 mm, lớn hơn so với 1,4 0,34 mm của thân riêng lẻ, với (p = 0,005). Trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Huy, ĐMMCN có đường là 1,30 ± 0,15 mm. Trong nghiên cứu của Taylor, đường kính của thân chung này là 1,4 mm (0,8 - 3 mm), thân riêng là 1,1 mm (0,8 - 3 mm). Nghiên cứu của Penteado là 2 mm (1,3 - 2,6mm) và 1,35 mm (0,9 - 2 mm). Nghiên cứu của Sinna cho thấy đường kính của ĐMMCN 1,92 ± 0,6 mm, của Sol là 1,42 mm. 4.1.5. Diện da ngấm thuốc xanh Methylen Kết quả nghiên cứu ở 29 tiêu bản xác tươi cho thấy chiều dài diện da ngấm thuốc là 26,23 ± 6,34 cm (14 - 38 cm), chiều rộng là 16,34 ± 4,00 cm (8 - 25 cm). Trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Huy, diện da ngấm thuốc là 16 x 10 cm (13 x 9 cm đến 20 x 13 cm). Như vậy, kết quả nghiên cứu về nội dung này của chúng tôi có khác biệt so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Huy. 4.1.6. Mạch xuyên của ĐMMCN Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả phẫu tích 29 tiêu bản bẹn trên xác tươi thấy nhánh nông và nhánh sâu của ĐMMCN đều cho 1 - 2 mạch xuyên lên cấp máu cho da. Đa số nhánh nông tách 1 mạch xuyên trong khi đa số nhánh sâu tách 2 mạch xuyên. Nghiên cứu của Koshima, nhánh nông và nhánh sâu của ĐMMCN đều cho mạch xuyên. Nghiên cứu của Sinna cũng cho thấy nhánh sâu của ĐMMCN luôn tách 2 mạch xuyên, cấp máu cho vạt bẹn với diện tích là 160 cm2 (75 - 375 cm2). 4.1.7. Sự hiện diện của ĐMTVN 4.2. Nghiên cứu ứng dụng lâm sàng 20 4.2.1. Đặc điểm đối tượng Có 49 BN với 51 KHMM ở chi thể, tuổi trung bình là 32 tuổi. Về nguyên nhân gây tổn thương thì TNGT chiếm đa số các trường hợp (39,2%), tương tự như một số nghiên cứu khác ở Việt Nam Đỗ Phước Hùng, Nguyễn Việt Tiến, Nguyễn Anh Tuấn, Mai Trọng Tường. Về vị trí tổn thương, KHMM ở cẳng tay - bàn tay với 25,5% số trường hợp tổn thương ở bàn tay - ngón tay và KHMM ở cẳng chân - bàn chân với 21,57% số trường hợp. Nhiều nghiên cứu của tác giả cũng gặp tương tự như Khouri, Wettstein. 4.2.2. Chuẩn bị vùng nhận trước khi chuyển vạt bẹn Việc xử lý và chuẩn bị vùng nhận trước khi thực hiện phẫu thuật chuyển vạt tự do là rất quan trọng, nó liên quan đến kết quả điều trị làm liền tổn thương. Nhiều nghiên cứu cho thấy các bước xử lý và điều trị những khuyết hổng thì thực hiện phẫu thuật phục hồi cho kết quả tốt như Hidago, Lu, Liu, Pinsolle 4.2.3. Lựa chọn vạt bẹn Trong nghiên cứu này, tất cả 51 khuyết hổng của 49 BN đều là KHMM ở cẳng tay - bàn tay, cẳng chân - mu bàn chân. Khi cân nhắc lựa chọn vạt, những vạt da cân hoặc vạt cân như nêu trên đều có thể được chỉ định. Lựa chọn này cũng phù hợp với nhiều tác giả trên thế giới: Katou (2001), Shah (1997), Cooper (1999).... 4.2.4. Các hình thức sử dụng vạt bẹn tự do 4.2.4.1. Vạt da mỡ bẹn Kết quả chúng tôi, có 40 vạt da mỡ bẹn được sử dụng với tỷ lệ vạt sống hoàn toàn là 93,3% (14/15 vạt), vạt hoại hoàn toàn là 6,6% (1/15 vạt). Tương đồng với kết quả của các tác giả: Goodstein (1979), Bitter (1981), Chuang (1992). 4.2.4.2. Vạt bẹn dựa trên mạch xuyên Trong nghiên cứu này, có 8 trường hợp được sử dụng vạt bẹn dựa trên mạch xuyên được làm mỏng và đều là che phủ KHMM ở chi trên. Vạt kích thước 4 x 2,5 cm đến 20 x 4 cm. 21 Hiện nay, nhiều tác giả ứng dụng vạt bẹn mạch xuyên tự do với kết quả thành công khoảng 95% như: Iida, Hong, Goh... 4.2.4.3. Vạt bẹn phối hợp Trong số 51 KHMM ở nghiên cứu này, chúng tôi gặp 3 trường hợp với khuyết hổng quá lớn mà kích thước vạt bẹn không đáp ứng yêu cầu điều trị nên đã sử dụng vạt bẹn phối hợp với vạt đùi trước ngoài. Tham khảo y văn, chúng tôi thấy Harii, Dzwierzynski, Hui cũng sử sử dụng vạt phối hợp. 4.2.5. Kích thước vạt da bẹn ứng dụng trong lâm sàng Trong ứng dụng lâm sàng, chúng tôi đã lấy vạt bẹn có kích thước nhỏ nhất là 4 x 2 cm, lớn nhất là 27 x 17 cm, kích thước trung bình là 18,2 x 9,2 cm (không tính trường hợp sử dụng vạt bẹn phối hợp với vạt đùi trước ngoài). Trong nghiên cứu của Tare vạt kích thước 5,5 x 4,5 cm, Koshima lấy vạt với kích thước tới 20 x 15 cm, Murakami lấy vạt với kích thước tới 30 x 13 cm Như vậy, sử dụng vạt bẹn có ưu điểm là có thể lấy được vạt với kích thước đa dạng và lớn nhưng vẫn đảm bảo an toàn khi chuyển ở dạng tự do. 4.2.6. Kết quả chuyển vạt bẹn tự do trong điều trị KHMM 4.2.6.1. Kết quả chuyển vạt Kết quả của chúng tôi tỷ lệ vạt sống hoàn toàn là 90,2%, hoại tử hoàn toàn là 5,88%, hoại tử 1 phần là 3,92%. Về chuyển vạt bẹn tự do, kết quả của một số tác giả nước ngoài như sau: Cooper tỷ lệ vạt sống hoàn toàn là 91,5%, hoại tử toàn bộ là 8,5%. Kimura tỷ lệ vạt sống hoàn toàn là 84%, hoại tử 1 phần là 12%, hoại tử toàn bộ là 4%Đối chiếu với những kết quả này, kết quả chuyển vạt bẹn của chúng tôi như nêu trên là rất khích lệ. 4.2.6.2. Kết quả làm liền KHMM Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả cho thấy làm liền KHMM là 48/51 (94,1%), vạt bị hoại tử - phải điều trị khuyết hổng bằng cách khác là 3/51 (5,9%). Kết quả này cũng tương tự như trong nghiên cứu điều trị KHMM bằng vạt bẹn tự do của Cooper, Nasir, Sonmez, Gisquet. 4.2.6.3. Tính thẩm mỹ tại nơi nhận và nơi cho vạt bẹn 22 Rất đẹp là 15% số trường hợp (7/48 vạt) có 7 vạt mạch bẹn mạch xuyên, đẹp là 35% (17/48 vạt), vừa là 50% (24/48 vạt). T rong báo cáo của Chuang có 32/73 vạt bẹn to và xấu, Graf có 13/30 vạt bẹn dày, to xù. Sonmez cũng gặp 4/10 vạt. Đối với vạt bẹn dựa trên mạch xuyên, nhiều tác giả đều nhận thấy vạt đáp ứng yêu cầu làm liền khuyết hổng và đạt yêu cầu về thẩm mỹ mà không phải phẫu thuật lần 2 để thu nhỏ vạt Hsu, Iida, Kimura. 4.2.7. Những yếu tố liên quan đến kết quả Trong nghiên cứu của chúng tôi, những yếu tố như: kiểu nối ĐM và việc ghép TM để làm dài cuống vạt có liên quan đến sự sống của vạt, cụ thể là: Nối ĐM kiểu tận - tận đạt kết quả kém hơn so với nối tận - bên (p = 0,02). Những trường hợp có ghép mạch đạt kết quả kém hơn so với không ghép mạch (p = 0,001). Như các nghiên cứu của các tác giả: Bayramicli, Catherine, Harris. 4.2.8. Nguyên nhân gây biến chứng tắc mạch và thất bại Trong nghiên cứu của chúng tôi, gặp 5 trường hợp biến chứng tắc mạch, trong đó có 3 trường hợp dẫn đến vạt bị hoại tử hoàn toàn, phải tháo bỏ vạt. Do kỹ thuật ghép mạch, kỹ thuật nối mạch và vị trí mạch nhận trong vùng tổn thương cũng như các tác giả: O’Brien, Sarefin, Harri... 4.2.9. Ưu, nhược điểm của chuyển vạt bẹn tự do 23 KẾT LUẬN Qua nghiên cứu đặc điểm giải phẫu mạch máu vạt bẹn ở 49 tiêu bản của 25 xác người Việt trưởng thành và ứng dụng vạt bẹn dạng tự do điều trị 51 KHMM ở chi thể của 49 BN, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Đặc điểm giải phẫu mạch máu của vạt bẹn - ĐMMCN hiện diện ở 100% tiêu bản. - Nguyên ủy của ĐMMCN: Tách trực tiếp từ ĐM đùi gặp ở 75,5% số trường hợp, số còn lại tách từ ĐMMCS (12,2%), ĐM đùi sâu (8,2%), ĐM mũ đùi ngoài (4,1%). - Dạng nguyên ủy của ĐMMCN: Tỷ lệ có thân chung với ĐMTVN là 24,5%, đường kính là 1,7 0,3 mm. Tỷ lệ thân riêng lẻ là 75,5%, đường kính là 1,4 0,3 mm. - ĐMMCN tách ra 2 nhánh (nông, sâu) gặp ở 75,5% số trường hợp, ĐMMCN chỉ có 1 nhánh duy gặp ở 24,5% số trường hợp. Nhánh nông và sâu tách ra 1 - 2 mạch xuyên. - Hệ TM dẫn lưu: Hệ TM tùy hành có 89,8%, đường kính là 1,24 0,38 mm. Đổ vào TM đùi (86,4%) và TMMCS (16,4%). Hệ TM nông dưới da: Trường hợp có 2 TM là 79,5% gồm: TMTVN với đường kính là 2,27 0,59 mm và TMMCN với đường kính là 2,3 0,6 mm. Trường hợp có 1 TM chiếm 20,5%, đường kính là 2,3 0,9 mm. Chúng đều đổ vào xoang TM hiển. + Diện da ngấm thuốc màu có chiều dài là 26,2 ± 6,3 cm, chiều rộng là 16,3 ± 4,0 cm. 24 2. Kết quả sử dụng vạt bẹn tự do, những yếu tố liên quan đến kết quả, nguyên nhân gây thất bại và những ưu, nhược điểm của vạt - Chuyển vạt da bẹn tự do trong điều trị KHMM ở chi thể đạt tỷ lệ vạt sống toàn bộ là 90,2% (46/51 vạt), hoại tử một phần là 4% (2/51 vạt), hoại tử toàn bộ là 5,8% (3/51 vạt). - Tỷ lệ liền ổn định là 94,2% số KHMM (48/51 KHMM), vạt hoại tử, phải chuyển phương pháp điều trị để làm liền khuyết hổng là 5,8% (3/51 KHMM). - Ghép mạch có ảnh hưởng xấu tới kết quả chuyển vạt (p<0,001). - Nguyên nhân gây thất bại là do nối mạch tại vị trí mạch nhận không lành lặn và kỹ thuật ghép mạch chênh nhau nhiều về kích thước đường kính. - Ưu, nhược điểm của vạt bẹn: + Vạt có kích thước lớn, có thể làm mỏng vạt, có thể lấy vạt với nhiều hình thức khác nhau. + Sẹo nơi cho vạt ở vị trí không bộc lộ thường xuyên. + Chiều dài cuống mạch vạt ở mức trung bình nên cần lưu ý khi lựa chọn mạch nuôi và vị trí nối mạch tại vùng nhận. + Đường kính ĐM và TM nhỏ (khoảng 1mm). Đây là những yếu tố không thuận lợi trong chuyển vạt bẹn tự do. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN Q UAN ĐẾN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔ NG BỐ 1. Trần Văn Dương (2008), “Nhân 5 trường hợp che phủ khuyết hổng mô mềm bằng vạt da bẹn vi phẫu”, Y học thực hành, Bộ y tế xuất bản, 620 + 621, Huế, tr. 346-349. 2. Trần Văn Dương, Trần Nguyễn Trinh Hạnh, Huỳnh Minh Triều (2012), “Đánh giá kết quả điều trị khuyết hổng mô mềm vùng cẳng – bàn chân bằng vạt da bẹn vi phẫu tại Bệnh viện Chợ Rẫy”, Tạp chí Chấn Thương Chỉnh Hình Việt Nam , Số đặc biệt, Nha Trang, tr. 313-319. 3. Trần Văn Dương, Cao Thỉ, Đỗ Quang Hùng, Trịnh Minh Giám (2015), “Nghiên cứu giải phẫu động mạch mũ chậu nông cấp máu cho vạt bẹn”, Tạp chí Y học thảm hoạ và bỏng, 2, tr. 221-225. 4. Trần Văn Dương, Cao Thỉ, Đỗ Quang Hùng, Trịnh Minh Giám (2015), “Đánh giá kết quả điều trị khuyết hổng mô mềm chi thể bằng vạt da bẹn tự do”, Tạp chí Y học thảm hoạ và bỏng, 2, tr. 235-239. 5. Trần Văn Dương (2016), “Ứng dụng vạt bẹn tự do trong điều trị khuyết hổng mô mềm ở chi thể”, Tạp chí Y Dược Lâm Sàng 108, 11, tr. 30-36.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_giai_phau_va_ung_dung_vat_ben_dan.pdf