Tóm tắt Luận án Xây dựng và ứng dụng thang đo biếng ăn vào nghiên cứu thực trạng biếng ăn ở trẻ em dưới 5 tuổi tại thành phố Huế

Biếng ăn là ăn không đủ khẩu phần ăn theo nhu cầu dẫn đến biểu hiện chậm tăng trưởng. Đây là vấn đề rất phổ biến ở trẻ em nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng, nhất quán và cũng chưa có tiêu chuẩn thống nhất để đánh giá.

Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy rằng biếng ăn phổ biến ở trẻ em, dao động từ 5,6% đến 58,7% ở trẻ dưới 6 tuổi. Ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về vấn đề này. Tỷ lệ biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương (Hà Nội) là 44,9%; ở trẻ 1 đến 6 tuổi là 54,58% và 20,8% ở trẻ dưới 5 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh. Các nghiên cứu này cũng sử dụng các phương pháp khác nhau để đánh giá, chưa có một tiêu chuẩn thống nhất và cũng chưa có thang đo nào được xây dựng, sử dụng để đánh giá biếng ăn.

Hiện nay có rất ít nghiên cứu tập trung vào những yếu tố ảnh hưởng đến biếng ăn ở trẻ nhỏ. Một số nghiên cứu cho thấy biếng ăn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như bị ép ăn; thực hành nuôi dưỡng của bố mẹ (bao gồm ảnh hưởng của việc bố mẹ kiểm soát con cái); ảnh hưởng của xã hội; không được bú mẹ hoàn toàn; cho ăn bổ sung trước 6 tháng và trì hoãn việc cho trẻ ăn nhai.

Việt Nam đang trải qua giai đoạn chuyển tiếp về dinh dưỡng và tồn tại gánh nặng kép gồm suy dinh dưỡng, thừa cân/béo phì; các bệnh không lây nhiễm và thiếu vi chất. Do kinh tế phát triển, an ninh lương thực được đảm bảo hơn so với thời gian trước nên biếng ăn cũng trở thành vấn đề phổ biến và được quan tâm nhiều hơn. Việc phát triển thang đo đánh giá biếng ăn và xác định những yếu tố liên quan đến biếng ăn của trẻ trong bối cảnh Việt Nam là nhu cầu thực tế, cấp thiết không chỉ đối với trẻ, bố mẹ, người chăm sóc mà còn rất cần thiết đối với những người công tác trong lĩnh vực y tế và giáo dục. Nghiên cứu này nhằm ba mục tiêu sau:

1. Xây dựng và thử nghiệm thang đo đánh giá biếng ăn ở trẻ em dưới 5 tuổi tại thành phố Huế.

2. Xác định tỷ lệ và mô tả đặc điểm biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi tại thành phố Huế năm 2017 theo thang đo đã xây dựng.

3. Mô tả một số yếu tố liên quan đến biếng ăn ở đối tượng nghiên cứu 

 

docx 29 trang dienloan 4260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Xây dựng và ứng dụng thang đo biếng ăn vào nghiên cứu thực trạng biếng ăn ở trẻ em dưới 5 tuổi tại thành phố Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Xây dựng và ứng dụng thang đo biếng ăn vào nghiên cứu thực trạng biếng ăn ở trẻ em dưới 5 tuổi tại thành phố Huế

Tóm tắt Luận án Xây dựng và ứng dụng thang đo biếng ăn vào nghiên cứu thực trạng biếng ăn ở trẻ em dưới 5 tuổi tại thành phố Huế
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
š«›
HOÀNG THỊ BẠCH YẾN
XÂY DỰNG VÀ ỨNG DỤNG THANG ĐO BIẾNG ĂN
VÀO NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BIẾNG ĂN
Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ HUẾ
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HUẾ - 2020
Công trình được hoàn thành tại: 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC, ĐẠI HỌC HUẾ
Người hướng dẫn khoa học:
	1. GS.TS. LÊ THỊ HƯƠNG
	2. PGS.TS. VÕ VĂN THẮNG
Phản biện 1: 	PGS.TS. Lã Ngọc Quang
	Trường Đại học Y tế công cộng Hà Nội
Phản biện 2: 	PGS.TS. Đỗ Thị Hòa
	Trường Đại học Y Hà Nội	
Phản biện 3:	TS. Phạm Thị Lan Anh
Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế 
họp tại: Hội trường Đại học Huế - 03 Lê Lợi – TP. Huế
Vào hồi  giờ  phút ngày  tháng  năm 2020 
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện Đại học Quốc gia và thư viện Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
š«›
HOÀNG THỊ BẠCH YẾN
XÂY DỰNG VÀ ỨNG DỤNG THANG ĐO BIẾNG ĂN
VÀO NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BIẾNG ĂN
Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ HUẾ
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
 Ngành: Y tế công cộng
Mã số: 9720701
HUẾ - 2020
ĐẶT VẤN ĐỀ
Biếng ăn là ăn không đủ khẩu phần ăn theo nhu cầu dẫn đến biểu hiện chậm tăng trưởng. Đây là vấn đề rất phổ biến ở trẻ em nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng, nhất quán và cũng chưa có tiêu chuẩn thống nhất để đánh giá.
Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy rằng biếng ăn phổ biến ở trẻ em, dao động từ 5,6% đến 58,7% ở trẻ dưới 6 tuổi. Ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về vấn đề này. Tỷ lệ biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương (Hà Nội) là 44,9%; ở trẻ 1 đến 6 tuổi là 54,58% và 20,8% ở trẻ dưới 5 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh. Các nghiên cứu này cũng sử dụng các phương pháp khác nhau để đánh giá, chưa có một tiêu chuẩn thống nhất và cũng chưa có thang đo nào được xây dựng, sử dụng để đánh giá biếng ăn.
Hiện nay có rất ít nghiên cứu tập trung vào những yếu tố ảnh hưởng đến biếng ăn ở trẻ nhỏ. Một số nghiên cứu cho thấy biếng ăn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như bị ép ăn; thực hành nuôi dưỡng của bố mẹ (bao gồm ảnh hưởng của việc bố mẹ kiểm soát con cái); ảnh hưởng của xã hội; không được bú mẹ hoàn toàn; cho ăn bổ sung trước 6 tháng và trì hoãn việc cho trẻ ăn nhai.
Việt Nam đang trải qua giai đoạn chuyển tiếp về dinh dưỡng và tồn tại gánh nặng kép gồm suy dinh dưỡng, thừa cân/béo phì; các bệnh không lây nhiễm và thiếu vi chất. Do kinh tế phát triển, an ninh lương thực được đảm bảo hơn so với thời gian trước nên biếng ăn cũng trở thành vấn đề phổ biến và được quan tâm nhiều hơn. Việc phát triển thang đo đánh giá biếng ăn và xác định những yếu tố liên quan đến biếng ăn của trẻ trong bối cảnh Việt Nam là nhu cầu thực tế, cấp thiết không chỉ đối với trẻ, bố mẹ, người chăm sóc mà còn rất cần thiết đối với những người công tác trong lĩnh vực y tế và giáo dục. Nghiên cứu này nhằm ba mục tiêu sau:
1. Xây dựng và thử nghiệm thang đo đánh giá biếng ăn ở trẻ em dưới 5 tuổi tại thành phố Huế.
2. Xác định tỷ lệ và mô tả đặc điểm biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi tại thành phố Huế năm 2017 theo thang đo đã xây dựng.
3. Mô tả một số yếu tố liên quan đến biếng ăn ở đối tượng nghiên cứu
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. KHÁI NIỆM BIẾNG ĂN
Có nhiều định nghĩa về biếng ăn (BA) nhưng tất cả đều chưa thống nhất và chưa được chấp nhận rộng rãi. Nghiên cứu (NC) của chúng tôi sử dụng định nghĩa của Lumeng (2005) được trích dẫn trong bài báo của Ekstein và cs (2010): “BA là không chịu ăn những thức ăn (TA) quen thuộc hay thử TA mới, trầm trọng đến mức làm ảnh hưởng đến các hoạt động thường ngày và gây ra nhiều vấn đề cho bố mẹ, trẻ và mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái”. 
1.2. BIẾNG ĂN TRẺ EM 
1.2.1. Những dấu hiệu thường gặp ở trẻ biếng ăn
Theo một số NC, BA ở trẻ nhỏ thường có những biểu hiện sau: 
- Thời gian ăn thay đổi, trẻ ngậm TA trong miệng lâu không chịu nuốt và bữa ăn thường kéo dài khoảng hơn 30 phút. 
- Số lượng thực phẩm (TP) thay đổi: số bữa ăn hoặc lượng TA của trẻ ăn được trong mỗi bữa ít hơn so với các trẻ cùng độ tuổi. 
- Sự đa đạng trong TA hạn chế
- Thái độ và hành vi không hợp tác khi ăn
Một số biểu hiện khác: toát mồ hôi nhiều khi ăn, giả bị bệnh hoặc kêu no để khỏi phải ăn, phun TA, cố tình làm đổ TA để khỏi phải ăn
1.2.2. Phương pháp đánh giá biếng ăn 
Hiện nay chưa có một định nghĩa nhất quán về BA, do đó việc xác định BA cũng chưa có một tiêu chuẩn rõ ràng, thống nhất. Trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã có một số NC về BA nhưng các NC lại đưa ra các tiêu chuẩn xác định BA riêng và đều có những ưu, nhược điểm riêng. Vì vậy, việc xây dựng thang đo BA đầy đủ, rõ ràng là rất cần thiết vì đây là vấn đề quan trọng, có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của trẻ.
Qua phân tích tổng hợp những NC đã công bố, chúng tôi nhận thấy các dấu hiệu BA có thể gộp lại thành 3 nhóm như sau:
1. Thời gian trẻ ăn trong một bữa và hoạt động ăn của trẻ, bao gồm: ngậm TA, ăn chậm, hoạt động của trẻ lúc ăn.
2. Số bữa ăn, lượng TA trong ngày và sự đa dạng TA, bao gồm: số bữa ăn, số lượng, chất lượng TA, ăn vặt.
3. Trạng thái tinh thần và hành vi của trẻ lúc ăn, bao gồm: sợ hãi, lo lắng, căng thẳng khi đến giờ ăn, hành vi chống đối khi ăn, hành vi né tránh khi ăn 
Đây là cơ sở để chúng tôi phát triển thang đo đánh giá BA ở trẻ. 
1.3. ĐÁNH GIÁ ĐỘ TIN CẬY CỦA THANG ĐO VÀ PHÂN TÍCH NHÂN TỐ KHÁM PHÁ
1.3.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo 
Hệ số a của Cronbach là một phép kiểm định thống kê về mức độ chặt chẽ mà các mục hỏi trong thang đo tương quan với nhau. Hệ số a có giá trị từ 0 đến 1. Về lý thuyết, Cronbach’s Alpha càng cao càng tốt nhưng không được lớn hơn 0,95.
Theo quy ước thì một tập hợp các mục hỏi dùng để đo lường được đánh giá là tốt phải có hệ số a lớn hơn hoặc bằng 0,8. Khi Cronbach’s Alpha từ 0,8 đến gần 1 thì thang đo lường là tốt; từ 0,65 đến gần 0,8 là sử dụng được. Hệ số tương quan biến tổng (Corrected item - total correlation) phải từ 0,3 trở lên. 
Sau khi đánh giá sơ bộ thang đo và độ tin cậy của các biến quan sát bằng hệ số Cronbach's Alpha, các biến này được đưa vào kiểm định trong phân tích nhân tố khám phá EFA để đánh giá giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của thang đo.
1.3.2. Phân tích nhân tố khám phá
Phân tích nhân tố là tên chung của một nhóm các thủ tục được sử dụng chủ yếu để thu nhỏ và tóm tắt các dữ liệu. 
Các tham số thống kê trong phân tích nhân tố gồm: Bartlett’s test of sphericity; Correlation matrix; Communality; Eigenvalue; Factor loadings (hệ số tải nhân tố); Factor matrix (ma trận nhân tố); Factor scores; Kaiser-Meyer-Olkin (KMO) measure of sampling adequacy; Percentage of variance; Residuals.
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Trẻ từ 6 - <60 tháng tuổi sống tại thành phố Huế và người trực tiếp chăm sóc những trẻ đó.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn trẻ
2.1.1.1. Chọn trẻ tham gia vào NC mô tả cắt ngang (định lượng)
Tiêu chuẩn lựa chọn
Trẻ từ 6 -<60 tháng tuổi, đã được cho ăn bổ sung; đã và đang sinh sống tại thành phố Huế ít nhất một năm.
Trẻ không mắc bất kỳ bệnh mạn tính nào.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Trẻ có dị tật vùng miệng, sứt môi, hở hàm ếch... làm ảnh hưởng đến việc ăn uống của trẻ
- Trẻ đã được xác định có các rối loạn phát triển: hội chứng Down, chậm phát triển trí tuệ...
- Trẻ đang mắc bệnh cấp, mạn tính và được chẩn đoán bởi nhân viên y tế (có sổ khám bệnh).
2.1.1.2. Chọn trẻ tham gia vào NC mô tả cắt ngang (định tính)
Trẻ được xác định có BA theo thang đo (từ NC mô tả cắt ngang).
2.1.1.3. Chọn trẻ tham gia vào nghiên cứu bệnh - chứng
Tiêu chuẩn lựa chọn nhóm biếng ăn
Trẻ được xác định BA trong NC mô tả cắt ngang.
Tiêu chuẩn lựa chọn nhóm chứng
- Trẻ được xác định không BA trong NC mô tả cắt ngang
- 1 trẻ BA chọn 02 trẻ không BA (nhóm chứng) có cùng giới, nhóm tuổi và ở cùng phường với trẻ BA.
2.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn người chăm sóc trẻ
- Người chịu trách nhiệm chính trong việc chế biến và cho trẻ ăn hàng ngày. Nếu người chăm sóc không phải là bố mẹ thì khoảng thời gian chăm sóc cho trẻ ăn tối thiểu là 1 tháng.
- Mỗi trẻ chỉ chọn 01 người chăm sóc để mời tham gia vào tất cả các giai đoạn của NC.
- Đồng ý tham gia NC.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Giai đoạn 1
Xây dựng, thử nghiệm thang đo đánh giá BA
Giai đoạn 2
Xác định tỷ lệ và mô tả đặc điểm của BA 
Giai đoạn 3
Mô tả một số yếu tố liên quan đến BA
NC bệnh-chứng
Bước 2
NC định tính
Bước 1
NC định lượng 
n = 714
Tỷ lệ, đặc điểm của BA
n = 10 PVS 
n = 02 TLN 
Bổ sung, giải thích thêm cho NC định lượng
n=10 quan sát 
n=84 thử nghiệm 
n=5 sau thử nghiệm
n = 462
154 trẻ BA
308 trẻ nhóm chứng
Yếu tố liên quan đến BA
Sơ đồ 2.1. Thiết kế nghiên cứu
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
2.2.2.1. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu cho giai đoạn 1 
Quan sát bữa ăn: Chọn chủ đích 10 trẻ từ 18 -<60 tháng tuổi, được đưa đến những nơi công cộng để cho ăn. Tất cả những trẻ này đều được người chăm sóc nhận định là có BA. 
NC kiểm định thang đo BA: Cỡ mẫu được chọn theo nguyên tắc Bollen 5:1 (1989): Mẫu NC tối thiểu phải gấp 5 lần số lượng biến quan sát. Thang đo có 14 câu hỏi, tương ứng với 14 biến quan sát nên cỡ mẫu tối thiểu là 14 x 5=70 trẻ. Thực tế chúng tôi đã chọn 84 trẻ đang sinh sống tại 4/27 phường thuộc thành phố Huế (2 phường phía Bắc và 2 phường phía Nam Sông Hương, gồm các phường: Phú Thuận, Phú Hậu, An Tây, Vĩ Dạ, mỗi phường chọn 21 trẻ). 
2.2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu cho giai đoạn 2
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang: Cỡ mẫu gồm 714 trẻ dưới 5 tuổi (kèm với 714 người chăm sóc trẻ). Mẫu được chọn theo phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn, mô tả chi tiết trong sơ đồ 2.2.
Sơ đồ 2.2. Quy trình chọn mẫu
- Nghiên cứu định tính: Chọn chủ đích những trẻ đã được xác định có BA trong NC mô tả cắt ngang để tiến hành NC định tính (10 phỏng vấn sâu (PVS), 2 thảo luận nhóm (TLN)) nhằm giải thích, bổ sung thêm cho kết quả định lượng. 
2.2.2.3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu cho giai đoạn 3 
Cỡ mẫu tính được n = 151,13. Chọn nhóm BA là toàn bộ trẻ được xác định có BA từ NC mô tả cắt ngang (154 trẻ) và chọn nhóm chứng tương đồng về giới, nhóm tuổi và ở cùng phường với trẻ BA theo tỷ lệ 1:2 (1 trẻ BA và 2 trẻ nhóm chứng, chọn 308 trẻ).
2.2.3. Thời gian thu thập số liệu
Thực hiện quan sát từ tháng 10 đến tháng 11 năm 2014. NC thử nghiệm, NC cắt ngang và bệnh chứng tiến hành trong năm 2017.
2.2.4. Phương pháp và kỹ thuật thu thập số liệu
Giai đoạn 1: Xây dựng, thử nghiệm thang đo đánh giá biếng ăn
- Quan sát: Quan sát bữa ăn của 10 trẻ được người chăm sóc nhận định là có BA, thực hiện một lần cho mỗi trẻ tại nhà hoặc một số địa điểm vui chơi trẻ em. 
Tại nhà: Quan sát một bữa ăn bất kỳ, không báo trước.
Quan sát không phải tại nhà: Quan sát không tham gia từ đầu đến khi kết thúc một bữa ăn bất kỳ (trưa hoặc tối), sau đó tiếp cận người chăm sóc để thu thập thêm một số thông tin về trẻ và người chăm sóc. 
- Tìm kiếm thông tin về biếng ăn qua các nghiên cứu trước
Tìm kiếm tất cả các tài liệu công bố trong nước và quốc tế với từ khóa là “biếng ăn”, “chán ăn”, “picky eating”, “picky eaters”, “fussy eating”, “fussy”, “eating behaviors”, “eating disorders”, “feeding disorders”, “eating difficulties”, “feeding difficulties”, “infantile anorexia”, “feeding problems”, “food rejection” được xuất bản từ năm 1998 đến năm 2017 để tìm ra định nghĩa, phương pháp đánh giá BA và những vấn đề liên quan. Ngoài ra còn tìm được một số tài liệu đã xuất bản trên giấy. Thực tế tìm được 66 công bố quốc tế và 10 công bố tại Việt Nam về vấn đề này.
Dựa vào kết quả quan sát và tham khảo y văn, đặc biệt là NC của Huỳnh Văn Sơn thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi xây dựng thang đo theo 3 nhóm yếu tố với 14 câu hỏi, cụ thể là: Thời gian trẻ ăn trong một bữa và hoạt động ăn của trẻ (5 câu hỏi); Số bữa ăn, lượng TA trong ngày và sự đa dạng TA (5 câu hỏi); Trạng thái tinh thần và hành vi của trẻ lúc ăn (4 câu hỏi). Mỗi câu trả lời được đánh giá từ 0 đến 3 theo mức độ khó khăn của việc nuôi ăn với mức 0 là bình thường và mức 3 là khó khăn nhất. Việc cho điểm từ 0 đến 3 cũng dựa vào một NC của Huỳnh Văn Sơn thực hiện tại Việt Nam.
- NC thử nghiệm: Phỏng vấn trực tiếp người chăm sóc trẻ, dùng thang đo đánh giá BA đã được xây dựng. 
Giai đoạn 2: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Nghiên cứu định lượng: Sử dụng bộ câu hỏi (BCH) thiết kế sẵn để phỏng vấn trực tiếp người chăm sóc về tình hình BA của trẻ. 
 Nghiên cứu định tính: Sử dụng bảng hướng dẫn thiết kế sẵn với các câu hỏi mở để tiến hành PVS và TLN, thực hiện sau NC định lượng.
Giai đoạn 3: Nghiên cứu bệnh - chứng
Sử dụng BCH soạn sẵn để phỏng vấn trực tiếp người chăm sóc trẻ. 
2.3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU
Sử dụng phần mềm Epidata 3.1 để làm sạch và kiểm soát số liệu khi nhập, phần mềm SPSS version 20 để phân tích số liệu. 
2.3.1. Kiểm định thang đo
Kiểm định độ tin cậy của thang đo: Phân tích Cronbach’s Alpha cho từng nhóm trong 3 nhóm yếu tố đưa ra và loại dần những biến không phù hợp. Cuối cùng phân tích Cronbach’s Alpha cho toàn thang đo. 
Phân tích nhân tố khám phá EFA
Kiểm định KMO và Bartlett: Phân tích nhân tố EFA thích hợp khi 0,5 ≤ KMO ≤ 1. Bartlett’s test có ý nghĩa thống kê khi sig ≤0,05 chứng tỏ các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể. 
Phương pháp trích hệ số sử dụng là phương pháp trích nhân tố Principal Component với phép quay Varimax, điểm dừng khi trích các yếu tố có Eigenvalue lớn hơn hoặc bằng 1. Thang đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích bằng hoặc lớn hơn 50%.
Sau khi loại các biến không phù hợp, tiến hành kiểm định lại hệ số Cronbach’s Alpha trên thang đo hiệu chỉnh để kiểm lại độ tin cậy của thang đo.
2.3.2. Các biến số khác
	Phân tích mô tả được trình bày theo bảng tần số, tỷ lệ phần trăm cho biến phân loại; trung bình, độ lệch chuẩn cho biến liên tục. Tìm mối liên quan giữa hai biến định tính bằng test Chi - bình phương (χ2), lấy ngưỡng ý nghĩa là 0,05. 
Sử dụng hệ số Cohen’s Kappa để đánh giá sự trùng lặp của hai phương pháp đánh giá BA (theo quan niệm của người chăm sóc và theo thang đo). 
Phân tích hồi quy logistic đa biến theo phương pháp tiến triển (Forward LR) để tìm yếu tố liên quan đến BA. Xác định tỷ lệ dự đoán đúng của toàn bộ mô hình qua bảng phân loại (Classification table).
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. XÂY DỰNG VÀ THỬ NGHIỆM THANG ĐO ĐÁNH GIÁ BIẾNG ĂN Ở TRẺ DƯỚI 5 TUỔI
3.1.1. Phát triển thang đo biếng ăn
3.1.1.1. Quan sát bữa ăn của trẻ
Quan sát bữa ăn (8 bữa tối và 2 bữa trưa) của 10 trẻ (5 nam, 5 nữ), trung bình 32 tháng tuổi. 
Địa điểm quan sát: tại nhà (4 trẻ), nhà thiếu nhi (2 trẻ), công viên (2 trẻ), quán cháo dinh dưỡng (1 trẻ) và dọc đường (1 trẻ).
Thời gian ăn của tất cả trẻ được quan sát đều kéo dài từ 45 đến 90 phút (trung b ... m sóc nhận định là BA. Điều đó cho thấy thang đo không bỏ sót trường hợp nào và kết quả đánh giá cũng phù hợp với nhận định của người chăm sóc. 
4.2.2. Đặc điểm biếng ăn
4.2.2.1. Dấu hiệu biếng ăn
Những dấu hiệu BA thường gặp nhất bao gồm: ngậm lâu (82,5%), ăn ít (81,8%), ăn chậm (72,1%). Thông thường, thời gian cho một bữa ăn của trẻ khoảng 20 phút. Bữa ăn kéo dài quá lâu làm cho khoảng cách đến bữa ăn sau rút ngắn lại, trẻ chưa kịp có cảm giác đói đã đến bữa ăn khác khiến trẻ không muốn ăn. 
4.2.2.2. Trạng thái tinh thần và hành vi của trẻ khi ăn
Có 53,9% trẻ sợ hãi, lo lắng, căng thẳng khi đến giờ ăn; 31,2% trẻ có những hành vi chống đối khi ăn ở mức độ rất thường xuyên và khá thường xuyên. Hành vi né tránh khi ăn cũng xảy ra ở 83,1% trẻ BA. Những dấu hiệu này cũng phù hợp với kết quả của Huỳnh Văn Sơn và cs.
4.2.2.3. Thời điểm xuất hiện biếng ăn
Trong số 154 trẻ BA xác định theo thang đo thì có 9,1% trẻ có dấu hiệu lười bú và BA từ khi dưới 6 tháng tuổi. Thời điểm xuất hiện BA khi trẻ từ 6-<12 tháng chiếm tỷ lệ cao nhất (34,4%) và giảm dần khi trẻ càng lớn. Kết quả này tương đồng với kết quả NC của Đào Thị Yến Phi và của Nguyễn Thanh Danh.
4.2.2.4. Sự cố xảy ra trước khi biếng ăn 
Có 57,7% trẻ xuất hiện BA sau một sự cố nào đó. Những sự cố thường gặp nhất bao gồm: trẻ bị ốm (18,8%), mọc răng (16,9%) và thay đổi TA (16,2%). 3,2% trẻ xuất hiện BA sau thay đổi nơi ở/trường học, thay đổi thời tiết. NC của Đào Thị Yến Phi cho thấy có 23,9% trẻ BA sau một đợt bệnh. Nguyễn Thanh Danh cũng ghi nhận 11,4% trẻ BA do chuyển tiếp chế độ ăn không đúng cách và do các nguyên nhân khác (mọc răng, tiêm chủng, đi học, gia đình bất hòa)
4.2.2.5. Thời gian kéo dài biếng ăn và đặc điểm các dấu hiệu biếng ăn
Thời gian kéo dài BA phổ biến nhất là từ 1 đến dưới 6 tháng (27,9%). Nhóm trẻ có dấu hiệu BA kéo dài từ 12 đến dưới 24 tháng cũng chiếm tỷ lệ khá cao (22,1%) và có 18,2% trẻ BA kéo dài hơn 36 tháng.
4.2.2.6. Đặc điểm về giờ ăn của trẻ
Có 92,2% trẻ có giờ ăn cố định theo giờ ăn của gia đình hoặc theo giờ giấc riêng của trẻ, số còn lại có giờ ăn thay đổi, tùy thuộc công việc của người chăm sóc hoặc theo nhu cầu của trẻ. Bố mẹ và người chăm sóc cần tập cho trẻ ăn đúng giờ để tạo thói quen tốt cho trẻ.
4.3. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN BIẾNG ĂN
4.3.1. Những yếu tố liên quan đến trẻ
4.3.1.1. Tiền sử lúc sinh
Cân nặng lúc sinh dưới 2500 gram, thai không đủ tháng và sinh mổ không thể hiện là yếu tố nguy cơ của BA. NC của Emel Örün và cs (2012) cũng cho thấy tuổi thai lúc sinh không liên quan đến các hành vi ăn uống. Tuy nhiên, NC của một số tác giả khác cho thấy BA có xu hướng xảy ra ở những trẻ có cân nặng sơ sinh thấp. 
4.3.1.2. Các yếu tố về bữa ăn của trẻ
Phân tích theo mô hình hồi quy logistic đa biến thì các yếu tố có liên quan đến BA bao gồm: Không cùng sở thích ăn uống với người chăm sóc (OR=2,01, p<0,01) và bị ép ăn (OR=2,04, p<0,05).
NC chúng tôi cho thấy trẻ không tự ăn được thì nguy cơ BA cao gấp 3,68 lần (p<0,01). Theo Irene Chatoor, tự ăn là một cột mốc quan trọng và hào hứng, do đó, bố mẹ cần tạo điều kiện để trẻ tự ăn.
4.3.2. Yếu tố người chăm sóc
4.3.2.1. Yếu tố nhân khẩu học của người chăm sóc 
Nghề nghiệp, trình độ học vấn, giới tính người chăm sóc là những yếu tố nguy cơ của BA. Trẻ được chăm sóc bởi người không phải là CBCC có nguy cơ BA gấp 2,6 lần (phân tích đơn biến, p<0,01) và gấp 2,98 lần (phân tích đa biến, p<0,01). Sự khác biệt này cũng khá phù hợp vì hầu hết CBCC có trình độ học vấn khá cao, khả năng tiếp cận, chọn lọc và trao đổi thông tin tốt hơn và nghiêm túc, chú trọng, tỉ mỉ hơn trong việc chăm sóc con so với những nhóm nghề khác. 
4.3.2.2. Thực hành nuôi dưỡng trẻ
Kết quả của chúng tôi không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm về nguy cơ BA liên quan đến các yếu tố như bú mẹ muộn hơn 1 giờ đầu sau sinh, BMHT không đúng 6 tháng, cai sữa mẹ trước 24 tháng, ăn bổ sung không đúng 6 tháng, ăn không đủ 4 nhóm TP và thực hành nuôi dưỡng trẻ không đúng.
4.3.2.3. Những yếu tố về hành vi
Phân tích đơn biến cho thấy những hành vi bạo lực về thể chất hoặc tinh thần như bóp miệng, bóp mũi, đè cổ để đút TA vào miệng trẻ; dọa dẫm trẻ có liên quan có ý nghĩa thống kê với BA (OR tương ứng là 3,32 và 2,12, p<0,05). Tỷ lệ trẻ phải chịu những hành vi bạo lực ở nhóm BA đều cao hơn nhóm chứng. Tuy nhiên, phân tích mô hình hồi quy logistic đa biến thì chỉ còn yếu tố dọa dẫm có liên quan có ý nghĩa thống kê với BA (OR=1,72; p<0,05). 
Klazine van der Horst (2012) cũng nhận thấy rằng ép buộc chỉ có tác động gián tiếp đến BA. Tạo hứng thú khi ăn hay thưởng thức bữa ăn đóng một vai trò quan trọng và là yếu tố cốt lõi trong cải thiện hành vi BA của trẻ.
4.3.3. Các yếu tố gia đình, xã hội
Phân tích đơn biến cho thấy một số yếu tố gia đình - xã hội có liên quan có ý nghĩa thống kê với BA bao gồm: Gia đình có người mắc BA; Trẻ không đi học mầm non, nhà trẻ; Trẻ có BA ở trường; Gia đình có xích mích, căng thẳng liên quan với việc ăn uống của trẻ (p<0,05). Tuy nhiên, khi phân tích đa biến thì chỉ còn yếu tố gia đình có xích mích, căng thẳng liên quan đến việc ăn uống của trẻ là yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với BA (OR=2,43, p<0,05).
Qua NC này chúng tôi nhận thấy thực hành nuôi dưỡng trẻ còn nhiều điều không hợp lý, cụ thể là một số trẻ hoàn toàn không được bú mẹ, tỷ lệ trẻ được BMHT trong 6 tháng đầu rất thấp, trẻ được cho ăn bổ sung rất sớm.... Tất cả những thực hành này đều ảnh hưởng đến quá trình ăn uống của trẻ và nhiều yếu tố được tìm thấy là nguy cơ của BA. Điều này cũng phù hợp với nhận định của Shim và cs (2011) rằng có mối liên quan giữa thực hành nuôi dưỡng trẻ và sự xuất hiện BA. 
KẾT LUẬN
1. Xây dựng và thử nghiệm thang đo đánh giá biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi 
- Thang đo đánh giá biếng ăn được xây dựng dựa trên kết quả quan sát và tham khảo y văn, được kiểm định bằng thống kê cho thấy có độ tin cậy Cronbach’s Alpha 0,878 và phân tích nhân tố khám khá EFA cho thấy thang đo là phù hợp với hệ số KMO = 0,756 và giá trị kiểm định Bartlett có ý nghĩa (sig < 0,05). 
- Thang đo gồm 8 tiêu chí với tổng điểm tối đa là 24. Trẻ được xác định là biếng ăn nếu tổng điểm tính từ thang đo lớn hơn giá trị trung bình lý thuyết của thang đo (12 điểm) và thời gian kéo dài các dấu hiệu ít nhất một tháng.
2. Tỷ lệ và đặc điểm của biếng ăn 
- Tỷ lệ trẻ biếng ăn theo thang đo là 21,6%; theo quan niệm của người chăm sóc cao hơn gấp đôi (46,1%). Tương hợp giữa hai phương pháp đánh giá ở mức trung bình với hệ số Kappa 0,5 (p<0,001). 
- Tỷ lệ BA tương đồng ở trẻ nam và nữ (tương ứng là 21,6% và 21,5%); cao nhất ở hai nhóm tuổi 48-<60 tháng (23,4%) và 12-<24 tháng (23,0%). 
- Những dấu hiệu biếng ăn thường gặp nhất gồm: ngậm lâu (82,5%), ăn ít (81,8%), ăn chậm/ăn lâu (72,1%) và phải thúc, ép mới ăn (45,5%). Có 22,7% trẻ chạy trốn hoặc la, khóc khi đến giờ ăn. Khá tương đồng với kết quả định tính.
- Tỷ lệ trẻ có những hành vi tiêu cực khi ăn khá cao (53,9% trẻ sợ hãi, lo lắng, căng thẳng khi đến giờ ăn; 31,2% trẻ có những hành vi chống đối khi ăn ở mức độ rất thường xuyên và khá thường xuyên; 83,1% trẻ có hành vi né tránh khi ăn).
- 34,4% trẻ xuất hiện biếng ăn khi trẻ 6-<12 tháng tuổi; tỷ lệ giảm dần khi trẻ càng lớn.
- 57,7% trẻ xuất hiện biếng ăn sau một sự cố nào đó. Những sự cố thường gặp nhất bao gồm: trẻ bị ốm (18,8%), mọc răng (16,9%) và thay đổi thức ăn (16,2%).
- Thời gian kéo dài biếng ăn phổ biến nhất là từ 1-<6 tháng (27,9%). 
- 92,2% trẻ có giờ ăn cố định.
- Tính trong một tuần, trẻ biếng ăn sử dụng bột ngũ cốc, thịt, cá, rau, các loại củ quả và trái cây ít hơn có ý nghĩa thống kê so với trẻ không biếng ăn (p<0,05). 
3. Các yếu tố liên quan đến biếng ăn
3.1. Phân tích đơn biến
- Yếu tố về trẻ và bữa ăn của trẻ: Không cùng sở thích ăn uống với người chăm sóc; Bị ép ăn; Không tự ăn.
- Yếu tố người chăm sóc: Giới tính nữ; Nghề nghiệp không phải là cán bộ công chức; Trình độ học vấn dưới trung học phổ thông là những yếu tố liên quan đến biếng ăn.
- Yếu tố hành vi: Có người nhảy múa cho trẻ cười rồi đút trẻ ăn; Cùng chơi “trò chơi ăn”; cho xem tivi, điện thoại, Ipad, chơi đồ chơi.
- Yếu tố gia đình, xã hội: Gia đình có người biếng ăn; Trẻ không đi học mầm non, nhà trẻ; Trẻ biếng ăn ở trường; Gia đình có xích mích, căng thẳng liên quan đến việc ăn uống của trẻ.
- Những yếu tố khác: Sợ uống thuốc; Trộn thuốc với thức ăn.
3.2. Phân tích đa biến 
Những yếu tố liên quan đến biếng ăn bao gồm: 
- Yếu tố về trẻ và bữa ăn của trẻ: Trẻ không cùng sở thích ăn uống với người chăm sóc (OR=2,01, p<0,01); Bị ép ăn (OR=2,04, p<0,05); 
- Yếu tố người chăm sóc: Nghề nghiệp không phải là cán bộ công chức (OR=2,98, p<0,01); Giới nữ (OR=2,01, p<0,05); 
- Yếu tố hành vi: Đút cho trẻ ăn (OR=6,85, p<0,01); Dùng phần thưởng để dụ trẻ ăn (OR=1,67, p<0,05); Dọa dẫm (OR=1,72, p<0,05); 
- Yếu tố gia đình, xã hội: Gia đình có xích mích, căng thẳng liên quan đến việc ăn uống của trẻ (OR=2,43, p<0,01); 
- Yếu tố khác: Trộn thuốc với thức ăn (OR=2,67, p<0,05).
KIẾN NGHỊ
- Thang đo biếng ăn đảm bảo độ tin cậy đã được kiểm định bằng thống kê. Nên sử dụng thang đo để đánh giá trẻ biếng ăn và cần phổ biến cho bố mẹ hoặc người chăm sóc.
- Nghiên cứu này cho thấy thực hành nuôi dưỡng trẻ ở cộng đồng còn nhiều điểm chưa hợp lý, do đó, bố mẹ và người chăm sóc trẻ cần lưu ý những điểm sau trong nuôi dưỡng trẻ để giúp trẻ phát triển tốt và phòng ngừa biếng ăn cho trẻ:
+ Cần nuôi dưỡng trẻ theo khoa học, loại bỏ những quan niệm, thực hành sai lầm (ví dụ cho ăn bổ sung quá sớm). 
+ Cho trẻ ngồi ăn chung bàn với gia đình. Bố mẹ nên làm mẫu để tập cho trẻ ăn. Bữa ăn gia đình là một khía cạnh quan trọng trong sự phát triển của trẻ.
+ Tập thói quen ăn uống lành mạnh, loại bỏ các yếu tố gây sao nhãng trong giờ ăn.
+ Không đánh đập, la mắng, ép buộc, không dùng phần thưởng để cho trẻ ăn.
+ Không cho trẻ ăn vặt, hãy để cho trẻ biết cảm giác đói!
Cán bộ y tế địa phương cần tăng cường công tác truyền thông giáo dục cho bố mẹ và người chăm sóc về vấn đề nuôi dưỡng trẻ.
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA NGHIÊN CỨU
Đề tài đi từ thực tiễn (quan sát), kết hợp y văn để xây dựng thang đo vận dụng thống kê để kiểm định độ tin cậy và giá trị của thang đo. Dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng đây là nghiên cứu khởi đầu để xây dựng thang đo, làm tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực này. Thang đo này là công cụ giúp các bậc phụ huynh nhận diện sớm dấu hiệu biếng ăn của trẻ để có biện pháp dự phòng sớm nhất có thể.
Để xác định tỷ lệ và mô tả đặc điểm biếng ăn, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp định lượng và định tính, trong đó định tính đi trước khám phá, sau đó định lượng để đo lường vấn đề, đồng thời bổ sung thêm định tính để giải thích, bổ sung thêm cho kết quả định lượng, do đó kết quả nghiên cứu khá phong phú. Kết quả từ đề tài luận án đã cảnh báo cho gia đình và xã hội về tình trạng biếng ăn và những ảnh hưởng của tình trạng này đến bản thân đứa trẻ và cả người chăm sóc trẻ.
Kết quả của luận án đã tìm ra được nhiều yếu tố liên quan đến biếng ăn và phát hiện được nhiều thực hành nuôi dưỡng chưa hợp lý, trong đó có nhiều yếu tố có thể dự phòng được nên sẽ rất có ích trong việc dự phòng và thay đổi hành vi của người chăm sóc trẻ.
Trong tương lai, chúng tôi cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để chuẩn hóa công cụ đánh giá biếng ăn, tìm hiểu sâu hơn về thực hành nuôi dưỡng trẻ và tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa biếng ăn ở trẻ và thực hành cũng như thái độ, hành vi của người chăm sóc (mối quan hệ hai chiều), sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp là tốt nhất.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
Các công trình đã đăng tạp chí
1. Hoang Thi Bach Yen, Le Thi Huong, Vo Van Thang (2019), Picky eating and nutritional status in children aged 1 to 5 in a city of central Vietnam, Journal of Medicine and Pharmacy, Volume 9, No.3/2019, pp 17-21.
2. Hoàng Thị Bạch Yến, Lê Thị Hương, Võ Văn Thắng (2017), Phương pháp xác định biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi, Tạp chí Y Dược học, Trường Đại học Y Dược Huế, tập 7 (05) tháng 10-2017, trang 263-270.
3. Hoàng Thị Bạch Yến, Lê Thị Hương, Võ Văn Thắng (2018), Một số yếu tố nguy cơ gây biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi tại thành phố Huế, Tạp chí Y Dược học, Trường Đại học Y Dược Huế, tập 8 (03) tháng 6-2018, trang 60-69.
4. Hoàng Thị Bạch Yến, Lê Thị Hương, Võ Văn Thắng (2018), Xây dựng thang điểm đánh giá tình trạng biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi tại Việt Nam, Tạp chí Y học Việt Nam số đặc biệt, tháng 10/2018, tập 471, trang 197-207.
5. Hoàng Thị Bạch Yến, Lê Thị Hương, Võ Văn Thắng (2019), Xây dựng thang đo đánh giá biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi tại thành phố Huế, Việt Nam, Tạp chí Y học thực hành, số 10-1114, trang 111-117.
Báo cáo tại Hội nghị
1. Hoang Thi Bach Yen, Hoang Dinh Tuyen, Le Thi Huong, Vo Van Thang et al. (2015), Picky eating: prevalence, risk factors and its relationship to nutritional status in children aged 1 to 5 in a city of central Vietnam, Oral presentation at 7th International Conference on Public Health among Greater Mekong Sub-Regional countries, Hue - Vietnam, 26-27th September 2015.
2. Hoàng Thị Bạch Yến, Lê Thị Hương, Võ Văn Thắng (2015), Biếng ăn và tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em từ 1 đến 5 tuổi tại thành phố Huế, Báo cáo miệng tại Hội nghị khoa học Sau đại học Trường Đại học Y Dược Huế lần thứ VII ngày 14 tháng 11 năm 2015.
3. Hoàng Thị Bạch Yến, Lê Thị Hương, Võ Văn Thắng (2017), Phương pháp xác định biếng ăn ở trẻ dưới 5 tuổi, Báo cáo miệng tại Hội nghị khoa học Sau đại học Trường Đại học Y Dược Huế lần thứ IX ngày 18 tháng 11 năm 2017.
4. Hoang Thi Bach Yen, Le Thi Huong, Vo Van Thang (2018), Risk factor of picky eating in children aged 1 to 5 in Hue city, Vietnam, Oral presentation at the 5th International PhD Students Science Symposium on 27th of April 2018, Hue, Vietnam.
5. Hoang Thi Bach Yen, Le Thị Huong, Vo Van Thang (2018), Picky eating and nutritional status of children under 5 in a city of central region, Vietnam, Oral presentation at the 2nd National and International Conference on Health Challenge in Sustainable Development Goals (SDGs): “Universal Health Coverage”, Khon Kaen, Thailand, July 23-24th, 2018 (Registration fee award).
6. Hoang Thi Bach Yen, Le Thị Huong, Vo Van Thang (2019), Developing scale for determining of picky eating among preschoolers in Vietnam, Poster presentation at the 11th International Conference on Public Health among Greater Mekong Sub-Region Countries, “Improving Health Equity among Greater Mekong Sub-Region Countries: A Public Health Challenge” (ICPH - GMS 2019), Vientiane Capital, Lao PDR, 18-19th October, 2019.

File đính kèm:

  • docxtom_tat_luan_an_xay_dung_va_ung_dung_thang_do_bieng_an_vao_n.docx
  • docNhững đóng góp mới của luận án - NCS Bạch Yến (tiếng Anh).doc
  • docNhững đóng góp mới của luận án - NCS Bạch Yến.doc
  • docxTóm tắt luận án NCS Hoàng Thị Bạch Yến (Tiếng Anh).docx