Ứng dụng kỹ thuật inverse ‐ shifting pcr xác định đột biến đảo đoạn intron 22 gây bệnh hemophilia a thể nặng
Mở đầu: Hemophilia A là bệnh di truyền lặn liên kết với nhiễm sắc thể giới tính X do sự thiếu hụt hoặc
khiếm khuyết yếu tố VIII, một loại protein đông máu. Tần suất mắc bệnh hemophilia A là 1/5000 trẻ trai. Bệnh Hemophilia A thể nặng (nồng độ yếu tố VIII thấp hơn 1%) chiếm khoảng 40% các trường hợp mắc bệnh. Bệnh nhân mắc bệnh dễ xuất huyết do chấn thương hay tự phát, tụ máu trong cơ, chảy máu ở khớp. Đột biến đảo đoạn intron 22 gây ra 40‐50% các trường hợp Hemophilia A thể nặng.
Mục tiêu: Xác định đột biến đảo đoạn intron 22 ở bệnh nhân Hemophilia A thể nặng và người nữ dị hợp tử
trong gia đình bệnh nhân.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện phân tích 2 gia đình với 2 bệnh nhân nam được chẩn
đoán Hemophilia A thể nặng và 5 thành viên nữ. Phản ứng Inverse PCR gồm 3 bước: (a) cắt bằng enzyme BclI; (b) nối lại sản phẩm cắt tạo DNA vòng; (c) thực hiện phản ứng multiplex PCR và đọc kết quả.
Kết quả: Phát hiện 2 bệnh nhân nam mang đột biến đảo đoạn intron 22, 4 người nữ dị hợp tử là người lành
mang gen bệnh và 1 người nữ đang có thai là người bình thường.
Kết luận: Chúng tôi đã ứng dụng thành công kỹ thuật Inverse PCR để phát hiện đột biến đảo đoạn intron
22 gây bệnh Hemophilia A thể nặng ở bệnh nhân và người lành mang gen bệnh
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng kỹ thuật inverse ‐ shifting pcr xác định đột biến đảo đoạn intron 22 gây bệnh hemophilia a thể nặng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 202 ỨNG DỤNG KỸ THUẬT INVERSE‐SHIFTING PCR XÁC ĐỊNH ĐỘT BIẾN ĐẢO ĐOẠN INTRON 22 GÂY BỆNH HEMOPHILIA A THỂ NẶNG Nguyễn Hữu Huy*, Nguyễn Thị Băng Sương**, Đỗ Thị Thanh Thủy**, Ngô Thị Hồng Phước** TÓM TẮT Mở đầu: Hemophilia A là bệnh di truyền lặn liên kết với nhiễm sắc thể giới tính X do sự thiếu hụt hoặc khiếm khuyết yếu tố VIII, một loại protein đông máu. Tần suất mắc bệnh hemophilia A là 1/5000 trẻ trai. Bệnh Hemophilia A thể nặng (nồng độ yếu tố VIII thấp hơn 1%) chiếm khoảng 40% các trường hợp mắc bệnh. Bệnh nhân mắc bệnh dễ xuất huyết do chấn thương hay tự phát, tụ máu trong cơ, chảy máu ở khớp. Đột biến đảo đoạn intron 22 gây ra 40‐50% các trường hợp Hemophilia A thể nặng. Mục tiêu: Xác định đột biến đảo đoạn intron 22 ở bệnh nhân Hemophilia A thể nặng và người nữ dị hợp tử trong gia đình bệnh nhân. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện phân tích 2 gia đình với 2 bệnh nhân nam được chẩn đoán Hemophilia A thể nặng và 5 thành viên nữ. Phản ứng Inverse PCR gồm 3 bước: (a) cắt bằng enzyme BclI; (b) nối lại sản phẩm cắt tạo DNA vòng; (c) thực hiện phản ứng multiplex PCR và đọc kết quả. Kết quả: Phát hiện 2 bệnh nhân nam mang đột biến đảo đoạn intron 22, 4 người nữ dị hợp tử là người lành mang gen bệnh và 1 người nữ đang có thai là người bình thường. Kết luận: Chúng tôi đã ứng dụng thành công kỹ thuật Inverse PCR để phát hiện đột biến đảo đoạn intron 22 gây bệnh Hemophilia A thể nặng ở bệnh nhân và người lành mang gen bệnh. Từ khoá: Inverse PCR, đảo đoạn intron 22, Hemophilia A ABSTRACT APPLICATION INVERSE‐SHIFTING PCR TO IDENTIFY INVERSION INTRON 22 CAUSE OF SEVERE HEMOPHILIA A Nguyen Huu Huy, Nguyen Thi Bang Suong, Do Thi Thanh Thuy, Ngo Thi Hong Phuoc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 5‐ 2014: 202 ‐ 207 Introduction: Hemophilia A is a recessive X‐linked genetic disorder caused by missing or defective factor VIII, a clotting protein. Hemophilia A occurs in approximately 1 in 5,000 live births. Severe hemophilia A (factor levels less than 1%) represents approximately 40% of cases. People with severe hemophilia A experience bleeding following an injury and may have frequent spontaneous bleeding episodes, often into their joints and muscles. Factor VIII intron 22 inversions (Inv22) cause 40%–50% of severe cases of hemophilia A. Objective: Identify inversion intron 22 in severe Hemophilia A patients and heterozygous female carriers. Patients and Method: To conduct the genetic analysis in 2 families of 2 patients diagnosed of severe hemophilia A and 5 female members. Inverse PCR involved 3 steps: (a) BclI restriction; (b) self‐ligation of restriction fragments, providing BclI rings; and (c) standard multiplex‐PCR analysis. Results: 2 male patients had intron 22 inversion, 4 female members were carrier and 1 female member, who was pregnant, was fortunately non carrier. Conclusion: We have successfully applied inverse PCR to identify inversion intron 22 cause of severe Hemophilia A. This helped for the detection of patients and identification of female carriers. Keywords: Inverse PCR, inversion intron 22, Hemophilia A * Khoa sinh học, Đại học Khoa học tự nhiên,TPHCM. ** Đại học Y Dược TPHCM. Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Thị băng Sương , ĐT: 0914007038 , Email: suongnguyenmd@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 203 ĐẶT VẤN ĐỀ Hemophilia A là căn bệnh rối loạn đông máu di truyền nghiêm trọng do sự thiếu hụt hay khiếm khuyết yếu tố VIII đồng thời đây cũng là căn bệnh di truyền lặn liên kết với nhiễm sắc thể giới tính X phổ biến nhất với tần suất mắc bệnh là 1/5000 trẻ trai(1). Nguyên nhân gây bệnh là do đột biến trên gen F8 nằm trên cánh dài nhiễm sắc thể giới tính X tại vị trí Xq28, gen có chiều dài 186 kb, gồm 26 exon và mã hóa cho RNA dài 9 kb(3). Sản phẩm của gen F8 là yếu tố VIII nằm trong phức hợp hoạt hóa yếu tố X đóng vai trò rất quan trọng trong con đường đông máu, sự thiếu hụt yếu tố VIII sẽ dẫn đến rối loạn đông máu và các biểu hiện lâm sàng là xuất huyết tự phát hay do chấn thương nhẹ, tụ máu trong cơ, chảy máu ở khớp, đôi khi có tiểu máu. Bệnh Hemophila A được chia thành 3 loại dựa vào nồng độ yếu tố VIII trong huyết thanh: thể nặng khi yếu tố VIII có nồng độ rất thấp (<1% so với giá trị bình thường), thể trung bình (1‐5%) và thể nhẹ (5‐40%). với tỷ lệ lần lượt của các thể bệnh là 40%, 10% và 50% các trường hợp mắc Hemophilia A(6). Khoảng 70% các trường hợp mắc bệnh là do di truyền gen đột biến và 30% là do đột biến de novo. Các đột biến gây nên bệnh Hemophilia A chủ yếu là các đột biến điểm nằm rải rác khắp chiều dài của gen. Tuy nhiên 40‐50% các trường hợp Hemophilia A thể nặng là do đột biến đảo đoạn intron 22(4). Nguyên nhân của đảo đoạn intron 22 là do một đoạn trình tự dài 9,5 kb nằm trong intron 22 của gen F8 gọi là int22h‐1 có độ tương đồng rất cao với 2 vùng int22h‐2 và int22h‐3 nằm cách xa gen F8, các trình tự này có thể tái tổ hợp tương đồng trong nhiễm sắc thể X làm phá vỡ khung đọc của gen F8 gây ra bệnh Hemophilia A thể nặng(8). Do Hemophilia A là bệnh di truyền lặn liên kết với nhiễm sắc thể giới tính X nên bệnh chủ yếu gặp ở nam giới vì người nam chỉ có 1 nhiễm sắc thể X nên nếu có đột biến sẽ biểu hiện ngay ra kiểu hình còn người nữ phải đột biến ở trên 2 nhiễm sắc thể X mới bị mắc bệnh. Người nữ dị hợp tử mang gen bệnh sẽ có 50% nguy cơ truyền gen X bị đột biến cho con của mình. Do vậy nếu không có các chương trình tầm soát gen bệnh thì bệnh Hemophilia A sẽ lan truyền rộng trong cộng đồng, tỷ lệ mắc bệnh ngày càng cao, người bệnh sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Hiện nay có 3 phương pháp chính để phát hiện đột biến đảo đoạn intron 22 là Southern Blot, Long distance‐PCR và Inverse PCR trong đó Inverse PCR được đánh giá là một phương pháp đặc hiệu, đơn giản, tiết kiệm chi phí, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Từ cơ sở đó, chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu với mục tiêu: “Ứng dụng kỹ thuật Inverse‐shifting PCR xác định đột biến đảo đoạn intron 22 ở bệnh nhân Hemophilia A thể nặng”. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Gồm 2 gia đình Gia đình bệnh nhân thứ nhất gồm 1 bệnh nhân nam mắc bệnh Hemophilia A thể nặng và 3 thành viên nữ là mẹ và 2 chị của bệnh nhân trong đó một người chị đang mang thai. Gia đình bệnh nhân thứ hai gồm 1 bệnh nhân nam mắc bệnh Hemophilia A thể nặng và 2 thành viên nữ là mẹ và dì của bệnh nhân. Mẫu DNA chứng dương là plasmid tạo dòng từ bệnh nhân đảo đoạn intron 22 và mẫu DNA người bình thường không mắc bệnh Hemophilia A Phương pháp nghiên cứu Kỹ thuật tách chiết DNA Mẫu máu ngoại vi được xử lý bằng chất chống đông EDTA, được tách chiết trong 24 giờ. Quy trình tách chiết DNA từ 2 ml máu ngoại vi được tiến hành theo Promega Kit. Nồng độ và độ tinh sạch của sản phẩm DNA được kiểm tra trên máy quang phổ NanoDrop 2000, những mẫu có tỷ lệ giá trị mật độ quang ở bước sóng 260/280 nm đạt từ 1,8 – 2,0 được dùng để tiến hành phản ứng PCR và giải trình tự gen. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 204 Kỹ thuật Inverse PCR xác định đột biến đảo đoạn intron 22 Phương pháp Inverse PCR gồm 3 bước chính ‐ Cắt bằng enzyme BclI: Thành phần phản ứng gồm 1,5 μg DNA genome, 3 μl buffer 10X, 1,2 μl enzyme BclI (Promega), bổ sung nước cất cho đủ thể tích 30 μl. Ủ 50oC/4 giờ. Tinh sạch sản phẩm cắt bằng Phenol/chloroform. Tủa sản phẩm bằng ethanol tuyệt đối và CH3COONa. Hòa sản phẩm trong 20 μl nước cất. ‐ Nối bằng T4 DNA Ligase: Thành phần phản ứng gồm 20 μl DNA sản phẩm cắt, 20 μl buffer 10X, 1 μl T4 DNA Ligase (Promega). Ủ 16oC/16‐18 giờ. Tinh sạch sản phẩm nối bằng Phenol/chloroform. Tủa sản phẩm bằng ethanol tuyệt đối và CH3COONa. Hòa sản phẩm trong 20 μl nước cất. ‐ Phản ứng Inverse PCR: Thành phần phản ứng gồm 0,1 μl Taq Takara, 2 μl buffer 10X, 1,5 μl dNTPs, 2 μl sản phẩm nối, 0,5 μl mồi ID, 0,5 μlmồi ED, 0,5 μl mồi IU, bổ sung nước cất cho đủ thể tích 15 μl. Chu trình nhiệt: Biến tính ở 98oC trong 5 phút, sau đó là 40 chu kỳ gồm 98oC trong 10 giây; 55oC trong 20 giây; 72oC trong 30 giây, và giai đoạn kết thúc gồm 72oC trong 2 phút. Bảng 1‐ Trình tự các mồi sử dụng trong phản ứng Inverse PCR Tên Primer Trình tự Sản phẩm ID 5'-ACATACGGTTTAGTCACAAGT-3 487 bp (ID / IU): Bình thường ED 5'- TCCAGTCACTTAGGCTCAG-3 559 bp (ED / IU): Đảo đoạn intron 22 IU 5'-CCTTTCAACTCCATCTCCAT-3 Các sản phẩm nhân bản của phản ứng Inverse PCR được điện di trên gel agarose 2%. Kích thước của các sản phẩm được xác định khi so sánh với thang chuẩn 1kb plus (Invitrogen). KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Kết quả Inverse PCR của gia đình bệnh nhân thứ nhất Hình 1‐ Kết quả Inverse PCR gia đình bệnh nhân thứ nhất Giếng T: Thang 1 Kb Plus DNA; Giếng (‐): Chứng âm; Giếng 1: Bệnh nhân; Giếng 2: Mẹ bệnh nhân; Giếng 3: Chị bệnh nhân; Giếng 4: Chị bệnh nhân đang mang thai; Giếng 5: Người bình thường; Giếng 6: Chứng dương. Nhận xét: Bệnh nhân ở giếng 1 có 1 băng DNA tương ứng với băng kích thước 559 bp của chứng dương ở giếng số 6 chứng tỏ bệnh nhân có đột biến đảo đoạn intron 22. Người chị của bệnh nhân đang mang thai có 1 băng DNA 600bpp 500bp6 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 205 tương ứng với băng kích thước 487 bp của người bình thường ở giếng số 5 chứng tỏ người này là người bình thường. Mẹ bệnh nhân ở giếng số 2 và người chị của bệnh nhân ở giếng số 3 có 2 băng DNA tương ứng với băng 559 bp và 487 bp chứng tỏ hai người này mang kiểu gen dị hợp tử. Bệnh nhân bị mắc bệnh Hemophilia A thể nặng do di truyền từ mẹ. Kết quả Inverse PCR của gia đình bệnh nhân thứ hai Hình 2‐ Kết quả Inverse PCR gia đình bệnh nhân thứ hai Giếng T: Thang 1 Kb Plus DNA; Giếng (‐): Chứng âm; Giếng 1: Bệnh nhân; Giếng 2: Mẹ bệnh nhân; Giếng 3: Dì bệnh nhân; Giếng 4: Người bình thường; Giếng 5: Chứng dương Nhận xét: Bệnh nhân ở giếng 1 có 1 băng DNA tương ứng với băng kích thước 559 bp của chứng dương ở giếng số 5chứng tỏ bệnh nhân có đột biến đảo đoạn intron 22. Mẹ bệnh nhân ở giếng số 2 và người dì của bệnh nhân ở giếng số 3 có 2 băng DNA tương ứng với băng 559 bp và 487 bp chứng tỏ hai người này mang kiểu gen dị hợp tử. Bệnh nhân bị mắc bệnh Hemophilia A thể nặng do di truyền từ mẹ. BÀN LUẬN Hemophilia A là bệnh di truyền lặn liên kết với nhiễm sắc thể giới tính X do đột biến tại gen F8 dẫn đến thiếu hụt yếu tố VIII gây ra rối loạn đông máu. Các đột biến ở gen F8 vô cùng đa dạng bao gồm mất toàn bộ gen, đảo đoạn DNA lớn, các đột biến vô nghĩa, sai nghĩa, lệch khung, splicing... đều có thể gây ra những bất thường trong sự biểu hiện, tiết và thời gian phân hủy của yếu tố VIII. Trong số các đột biến ở gen F8 thì đột biến quan trọng nhất là đột biến đảo đoạn intron 22 chiếm 40‐ 50% các trường hợp Hemophilia thể nặng(4). Đặc biệt, 21% các trường hợp đảo đoạn intron 22 sẽ sản xuất kháng thể kháng lại yếu tố VIII điều trị bổ sung dẫn đến rất nhiều khó khăn trong việc điều trị bệnh Hemophilia(9). Gen F8 là một trong những gen lớn nhất với kích thước 186 kb nằm ở vị trí Xq28. Gen F8 có 26 exon có kích thước từ 69 đến 3106 bp. Chiều dài của vùng intron lên đến 177,9 kb với intron lớn nhất là intron 22 dài 32,8kb(3). Vào năm 1990, Levison đã phát hiện trong gen F8 có chứa 1 gen khác là gen F8A, gen này nằm ngược chiều với gen F8 và nằm trong vùng intron 22(5). Sau đó, Freije và Schlessinger đã phát hiện trong nhiễm sắc thể X có 3 bản sao của gen F8A, 1 nằm ở vùng intron 22 và 2 bản sao còn lại nằm ngược hướng cách gen F8 500kb(2). Vào năm 1993, hai nhóm nghiên cứu đã chứng minh nguyên nhân của 50% các trường hợp Hemophilia A thể nặng là do một đột biến tại 600bpp 500bp6 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 206 vùng intron 22 ngăn cản sự phiên mã liên tục của mRNA từ exon 22 sang exon 23. Cả 2 nhóm đã đề xuất một mô hình dựa trên sự tái tổ hợp tương đồng giữa các đoạn gen F8A nằm ở intron 22 và ngược chiều gen F8. Khi sự tái tổ hợp diễn ra sẽ làm đảo ngược trình tự DNA nằm bên trong và phá vỡ khung đọc gen F8(4,7). Hình 3‐ Cơ chế đảo đoạn intron 22 của gen F8 Vào năm 2005, Rosetti đã thiết kế phương pháp Inverse PC nhằm phát hiện đột biến đảo đoạn intron 22. Sau khi xử lý cắt bằng enzyme BclI và nối lại bằng T4 Ligase sẽ tạo ra DNA vòng chứa vùng trình tự intron 22. Rosetti đã thiết kế 3 mồi trong đó 2 mồi ID và IU bắt cặp với trình tự nằm ở trong gen F8 khi PCR sẽ tạo ra sản phẩm có kích thước 487 bp tương ứng với gen F8 bình thường không xảy ra đảo đoạn. Mồi ED bắt cặp với trình tự ở giữa int22h‐2 và int22h‐3 nằm bên ngoài gen F8. Khi xảy ra đảo đoạn thì một phần int22h‐1 được thay thế bằng đoạn int22h‐2 hoặc int22h‐ 3, mồi ED sẽ kết hợp với mồi IU để tạo thành sản phẩm PCR kích thước 559 bp(10). Phương pháp Inverse PCR có nhiều ưu điểm hơn so với 2 phương pháp Southern Blot và Long distance PCR trước đó dùng để chẩn đoán đột biến đảo đoạn intron 22 là thời gian thực hiện nhanh hơn phương pháp Southern Blot (2 ngày so với 8 ngày) và tương đương phương pháp Long distance‐PCR. Đồng thời phương pháp này không sử dụng chất đồng vị độc hại như phương pháp Southern Blot hay yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng Taq, chu trình nhiệt, chất lượng DNA bản mẫu như phương pháp Long distance‐PCR. Inverse PCR được đánh giá là phương pháp đơn giản, tiết kiệm chi phí, đảm bảo tính đặc hiệu cao do sự đặc hiệu của enzyme cắt giới hạn phù hợp ứng dụng ở điều kiện Việt Nam(6). Khi ứng dụng phương pháp Inverse PCR để xác định đột biến đảo đoạn intron 22 ở 2 gia đình bệnh nhân thì 2 bệnh nhân nam đều di truyền đột biến từ mẹ của mình. Đa số các người nữ trong 2 gia đình đều là người lành mang gen bệnh (4/5 người), nếu họ mang thai thì cần tiến hành chẩn đoán trước sinh và thực hiện tư vấn di truyền vì nguy cơ họ truyền gen bệnh cho con là 50%. Đối với người chị bệnh nhân đang mang thai ở gia đình thứ nhất thì không cần tiến hành chọc ối vì người mẹ không mang gen bệnh nên sẽ không truyền gen bệnh cho thai nhi. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 207 Hình 4‐ Nguyên tắc của phương pháp Inverse PCR xác định đảo đoạn intron 22 KẾT LUẬN Nghiên cứu đã ứng dụng thành công kỹ thuật Inverse PCR xác định đột biến đảo đoạn intron 22 ở bệnh nhân Hemophilia A và người lành mang gen bệnh. Trong 2 gia đình bệnh nhân được phân tích thì có 1 người nữ mang kiểu gen bình thường, 2 bệnh nhân bị đột biến đảo đoạn intron 22 và 4 người nữ là người lành mang gen bệnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bolton‐Maggs PH, Pasi KJ (2003),“Hemophilias A and B”, Lancet, 361:1801‐1809. 2. Freije D, Schlessinger (1992), “A 1.6‐Mb contig of yeast artificial chromosomes around the human factor VIII gene reveals three regions homologous to probes for the DXS115 locus and two for the DXYS64 locus”, Am J Hum Genet, 51(1):66‐80. 3. Gitschier J, Wood WI, Goralka TM, Wion KL, Chen EY, Eaton DH, Vehar GA, Capon DJ, Lawn RM (1984), “Characterization of the human factor VIII gene”, Nature, 312:326–330. 4. Lakich D, Kazazian HH, Jr., Antonarakis SE, Gitschier J (1993), “Inversions disrupting the factor VIII gene are a common cause of severe haemophilia A”, Nat Genet, 5:236– 241. 5. Levinson B, Kenwrick S, Gamel P, Fisher K, Gitschier J (1992), “Evidence for a third transcript from the human factor VIII gene”, Genomics, 14(3):585‐9. 6. Liliana C. Rossetti, Claudia P. Radic, Miguel M. Abelleyro, Irene B. Larripa, and Carlos D. De Brasi (2011), “Eighteen Years of Molecular Genotyping the Hemophilia Inversion Hotspot: From Southern Blot to Inverse Shifting‐PCR”, Int J MolSci, 12(10): 7271–7285. 7. Naylor J, Brinke A, Hassock S, Green PM, Giannelli F, (1993), “Characteristic mRNA abnormality found in half the patients with severe haemophilia A is due to large DNA inversions”, Hum Mol Genet, 2(11):1773‐8. 8. Naylor JA, Buck D, Green PM, Williamson H, Bentley D, Giannelli F (1995), “Investigation of the factor VIII intron 22 repeated region (int22h) and the associated inversion junctions”,Hum Mol Genet, 4:1217‐1224. 9. Oldenburg J, Schröder J, Hermann Brackmann HH, Müller‐ Reible C, Schwaab R, Tuddenham E (2004), “Environmental and genetic factors influencing inhibitor development”, Semin Hematol, 41:82–88. 10. Rossetti LC, Radic CP, Larripa IB, De Brasi CD (2005), “Genotyping the hemophilia inversion hotspot by use of inverse PCR”, Clin Chem, 51:154–158. 11. Wood WI, Capon DJ, Simonsen CC, Eaton DL, Gitschier J, Keyt B, Seeburg PH, Smith DH, Hollingshead P, Wion KL, et al (1984), “Expression of active human factor VIII from recombinant DNA clones”, Nature, 312:330–337. Ngày nhận bài báo: 05/9/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/9/2014 Ngày bài báo được đăng: 20/10/2014
File đính kèm:
- ung_dung_ky_thuat_inverse_shifting_pcr_xac_dinh_dot_bien_dao.pdf