Ứng dụng stent phủ thuốc trong thực hành lâm sàng
Can thiệp động mạch vành qua da (Percutaneous coronary intervention (PCI) đã
trở thành một thủ thuật thường quy trong
điều trị bệnh lý động mạch vành (ĐMV)
và thường có sử dụng stent. Việc ra đời
của biện pháp can thiệp mạch qua da bằng
bóng nong năm 1978 đã thực sự mở ra
kỷ nguyên mới trong điều trị bệnh động
mạch vành (Percutaneous transluminal
coronary angioplasty (PTCA). Tuy vậy, tỷ
lệ biến chứng tắc mạch cấp và tái hẹp sau
thủ thuật còn rất cao (tới 50 - 70% có triệu
chứng đau ngực lại). Do vậy có tới 20 - 30
% số bệnh nhân phải can thiệp lại sau 1
năm vì tái hẹp, phát triển thêm của tổn
thương [1-3].
Việc ra đời của stent kim loại (stent
thường - bare metal stents (BMS) từ
những năm 1984 đã làm giảm đáng kể tỷ
lệ tắc mạch cấp ngay sau can thiệp và tái
hẹp nếu so với nong mạch bằng bóng đơn
thuần. Tuy vậy, tỷ lệ bị triệu chứng đau
ngực lại vẫn khá cao từ 30 - 40% và tỷ lệ
phải can thiệp lại trong năm đầu vẫn là
từ 10 - 20% [4-6]. Cũng giống như PTCA,
vấn đề tái hẹp lại sau can thiệp đặt stent
thường xảy ra trong năm đầu tiên và sau
đó triệu chứng xuất hiện có lẽ là do sự
phát triển mới của tổn thương chứ không
phải do tái hẹp [6]
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng stent phủ thuốc trong thực hành lâm sàng
CHUYÊN ĐỀ ĐÀO TẠO LIÊN TỤC68 CHUYEÂN ÑEÀ ÑAØO TAÏO LIEÂN TUÏC Ứng dụng STENT phủ thuốc trong thực hành lâm sàng TS. BS. Phạm Mạnh Hùng MÔÛ ÑAÀU Can thiệp động mạch vành qua da (Per- cutaneous coronary intervention (PCI) đã trở thành một thủ thuật thường quy trong điều trị bệnh lý động mạch vành (ĐMV) và thường có sử dụng stent. Việc ra đời của biện pháp can thiệp mạch qua da bằng bóng nong năm 1978 đã thực sự mở ra kỷ nguyên mới trong điều trị bệnh động mạch vành (Percutaneous transluminal coronary angioplasty (PTCA). Tuy vậy, tỷ lệ biến chứng tắc mạch cấp và tái hẹp sau thủ thuật còn rất cao (tới 50 - 70% có triệu chứng đau ngực lại). Do vậy có tới 20 - 30 % số bệnh nhân phải can thiệp lại sau 1 năm vì tái hẹp, phát triển thêm của tổn thương [1-3]. Việc ra đời của stent kim loại (stent thường - bare metal stents (BMS) từ những năm 1984 đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tắc mạch cấp ngay sau can thiệp và tái hẹp nếu so với nong mạch bằng bóng đơn thuần. Tuy vậy, tỷ lệ bị triệu chứng đau ngực lại vẫn khá cao từ 30 - 40% và tỷ lệ phải can thiệp lại trong năm đầu vẫn là từ 10 - 20% [4-6]. Cũng giống như PTCA, vấn đề tái hẹp lại sau can thiệp đặt stent thường xảy ra trong năm đầu tiên và sau đó triệu chứng xuất hiện có lẽ là do sự phát triển mới của tổn thương chứ không phải do tái hẹp [6]. Stent thường (BMS) cũng làm giảm đáng kể tỷ lệ các biến cố ngắn hạn, giảm thời gian nằm viện, hạn chế biến chứng tách thành mạch vành (do nong vỡ), tỷ lệ biến chứng nhồi máu cơ tim cấp và tỷ lệ phải phẫu thuật làm cầu nối cấp cứu [7,8]. Để khắc phục biến chứng tái hẹp trong stent động mạch vành, một loạt các biện pháp được đề xuất như dùng thuốc toàn thân, bơm thuốc tại chỗ, dùng phóng xạ Nhưng, hoặc các biện pháp này không mang lại kết quả hoặc nhiều biến chứng khác. Việc ra đời của stent phủ thuốc (Drug- eluting stents (DES) đã như cuộc cách mạng, làm giảm đáng kể tỷ lệ tái hẹp trong stent cũng như việc phải tái can thiệp lại động mạch vành. Nguyên lý của DES là vẫn dựa trên cấu trúc stent kim loại thông thường, người ta phủ lớp polimer có trộn thuốc chống tái hẹp (vd. sirolimus hoặc paclitaxel) và do đó thuốc sẽ giải phóng từ từ tại chỗ ngăn ngừa sự phát triển tăng sinh lớp áo trong vào TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 51 - 2009 69 trong stent gây tái hẹp. Cả hai loại stent phủ thuốc nhóm limus và paclitaxel đã được chứng minh là làm giảm đáng kể hiện tượng tái hẹp và tỷ lệ tái can thiệp khi so sánh với BMS [9]. Tuy vậy, DES có thể làm tăng nguy cơ huyết khối trong stent nếu việc dùng thuốc chống đông và ngưng kết tiểu cầu không được tôn trọng do các thuốc loại này làm chậm quá trình nội mạc hóa. CÔ CHEÁ HIEÄU QUAÛ CUÛA STENT PHUÛ THUOÁC Việc tái hẹp (restenosis) sau can thiệp mạch vành bằng nong bóng đơn thuần liên quan đến 3 yếu tố: - Co lại mạch (acute recoil), - Tái cấu trúc âm tính thành mạch (neg- ative remodeling), và - Tăng sinh lớp áo trong (neointimal hyperplasia). Việc dùng stent thường (BMS) đã cơ bản giải quyết được 2 yếu tố trên, nhưng không giải quyết được yếu tố sau cùng là sự tăng sinh thành mạch, sùi vào trong lòng stent gây tái hẹp. Stent phủ thuốc (DES), với việc giải phóng thuốc (thuốc ngăn ngừa phân bào) tại chỗ đã ngăn cản hiện tượng tăng sinh lớp áo trong và do đó ngăn ngừa được tái hẹp [10]. Trong thực nghiệm, không phải loại thuốc chống phân bào nào cũng ngăn ngừa được tái hẹp, với hai loại sirolimus và palitaxel đã được chứng minh là hạn chế được tốc độ phát triển lớp áo trong và trong stent gây hẹp lòng mạch chỉ là (in- stent lumen loss) (0,2 - 0,4 so với 0.9 - 1.0 mm với BMS) trong vòng 6 - 9 tháng [11- 14]. Việc hạn chế tăng sinh này còn được duy trì tới 2 năm [15]. BAÈNG CHÖÙNG LAÂM SAØNG Có 3 vấn đề về hiệu quả của DES được bàn đến trong việc chứng minh hiệu quả của DES là: 1- Hiệu quả của DES so với BMS; 2- So sánh giữa các loại DES thường dùng, (loại bọc sirolimus so với bọc paclitaxel); 3 - Việc dùng theo khuyến cáo so với dùng thực tế trên lâm sàng. Tại Hoa Kỳ, DES được dùng khá phổ biến tới 94% vào năm 2005 [16,17]. Tại một số nước khác DES cũng được dùng ngày một nhiều, tuy nhiên nó phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó có vấn đề giá thành. a) So sánh giữa DES và BMS. Có rất nhiều bằng chứng lâm sàng chứng tỏ hiệu quả của việc dùng DES so với BMS, trên cả đối tượng bệnh nhân được dùng theo khuyến cáo (on-label) và dùng theo thực tiễn lâm sàng (off -label). Các số liệu được tổng hợp từ nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên lâm sàng và các thử nghiệm theo dõi thực tế lâm sàng (registry data bases). Đã có một nghiên cứu phân tích tổng hợp năm 2007 (meta-analysis) bao gồm số liệu từ 38 nghiên cứu ngẫu nhiên (ran- domized trials) với tổng số bệnh nhân lên tới trên 18.000 người và dùng stent theo khuyến cáo (on label) [9]. Trong số đó, phải kể đến những thử nghiệm rất lớn là SIRIUS, TAXUS IV, và TAXUS V, với thời gian theo dõi từ 1 năm đến 4 năm. Mục CHUYÊN ĐỀ ĐÀO TẠO LIÊN TỤC70 đích của các nghiên cứu này là xem xét hiệu quả của DES so với BMS trong việc làm giảm tỷ lệ tái hẹp và tái can thiệp lại, và kết quả cho thấy làm giảm đáng kể nguy cơ này với tỷ suất chênh (odds ra- tios) là 0.30 (đối với loại phủ sirolimus) và 0.42 (đối với loại phủ palitaxel), 95% CI là 0.24-0.37 và 0.33-0.53, theo thứ tự). Trong một nghiên cứu ghi chép theo thực tế lâm sàng (registry report) tại On- tario, Canada, đã phản ánh hiệu quả của DES trong thực hành thường ngày, trên 3.751 cặp bệnh nhân được dùng hoặc DES hoặc BMS từ năm 2003 đến 2005 [20]. Sau thời gian theo dõi 2 năm, tỷ lệ tái hẹp phải can thiệp lại thấp hơn một cách đáng kể ở nhóm được dùng DES (7.4 so với 10.7 percent). Hiệu quả của DES bị hạn chế ở những bệnh nhân có 2 hoặc 3 yếu tố nguy cơ cao của tái hẹp là: đái tháo đường, mạch vành nhỏ <3 mm, và tổn thương dài ≥ 20 mm. b) Việc dùng DES trong thực tế (không theo khuyến cáo) Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) mới chỉ khuyến cáo việc dùng DES với 2 loại là (sirolimus-eluting và paclitaxel-eluting stents (SES and PES) cho những bệnh nhân có tổn thương mới, một chỗ, độ dài < 28 đến 30 mm và đường kính mạch từ 2.5 - 3.75 mm. Việc dùng DES theo cách này được gọi là dùng theo khuyến cáo (on-label). Tuy vậy, trong thực hành thường ngày, các tình huống thường gặp lại không đơn giản với nhiều tổn thương rất phức tạp: đa tổn thương, mạch nhỏ, dài, than chung, phân nhánh, tắc hoàn toàn mạn tính Việc dùng DES trong những tình huống này gọi là không theo khuyến cáo (off -label). Theo một nghiên cứu ghi chép lâm sàng (registries) tại Hoa Kỳ, tỷ lệ dùng DES kiểu off -label là khoảng 24% năm 2003 - 2004 [23] , 47% giữa năm 2005 [24] , và 55% nếu tính từ tháng Bảy năm 2004 đến tháng 9 năm 2005 [25]. Về kết quả đánh giá sử dụng DES off -label Khi đánh giá kết quả dùng DES kiểu off -label phải ghi nhận 2 vấn đề: 1) hiệu quả của nó so với BMS và, 2) so sánh với việc dùng theo khuyến cáo (on-label) Theo một nghiên cứu ghi chép của NHLBI (Dynamic registry) so sánh việc dùng DES off -label so với BMS trên 6551 bệnh nhân, trong đó việc dùng off -label của BMS là 55% và DES là 49%[22]. Tỷ lệ tái hẹp phải can thiệp lại thấp hơn đáng kể ở nhóm dùng DES so với nhóm dùng BMS kể cả theo kiểu on-label hoặc off -la- bel sau một năm theo dõi (OR 0.53, 95% CI 0.41-0.69 và 0.63 95% CI 0.0.52-0.77, theo thứ tự). Để đánh giá hiệu quả việc dùng DES kiểu off -label so với kiểu on-label, có 2 nghiên cứu ghi chép thực tế lâm sang lớn là (D.E.S.cover và EVENT). Nghiên cứu D.E.S.cover bao gồm 5.541 bệnh nhân được dùng DES trong 6 tháng đầu năm 2005; 47% được dùng kiểu off -label [24]: Sau 30 ngày, các biến cố tim mạch nặng như tử vong, nhồi máu cơ tim, huyết khối trong stent có vẻ cao hơn ở nhóm dùng TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 51 - 2009 71 theo kiểu off -label (2.5% so với 1.0 %, ad- justed hazard ratio [HR] 1.45, 95% CI 1.24- 3.48). Không có sự tăng nguy cơ sau đó khi theo dõi đến 1 năm. Sau 1 năm, tỷ lệ tái hẹp phải can thiệp lại của nhóm off -la- bel cao hơn đáng kể so với nhóm on-label (7.6% so với 4.4 %, adjusted HR, 1.49; 95% CI 1.13-1.98). Kết quả cũng thấy tương tự trong nghiên cứu ghi chép lâm sang EVENT trên 3.323 bệnh nhân [25]. Qua đây cho thấy, việc dùng DES rõ ràng có lợi hơn BMS. Tuy vậy, việc dùng một cách không theo khuyến cáo cho kết quả hạn chế hơn cách dùng theo khuyến cáo, đặc biệt lưu ý tới biến cố huyết khối trong stent. Việc dùng DES theo cách không khuyến cáo (off -label) phải được cân nhắc thận trọng giữa lợi ích và nguy cơ và cân đối với các phương án điều trị khác như là nội khoa hoặc phẫu thuật cầu nối. c) Vấn đề dùng DES cho những tổn thương đặc biệt Các lợi ích và nguy cơ của dùng DES trong thực tế lâm sàng được bàn đến đối với các tổn thương đặc biệt hoặc bệnh cảnh lâm sang đặc biệt như: tổn thương thân chung động mạch vành trái, tổn thương nhiều nhánh, tổn thương dài, tổn thương mạch nhỏ, tổn thương chỗ chia nhánh, tổn thương tắc hoàn toàn mạn tính hoặc trên những bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt như: nhồi máu cơ tim cấp, bệnh nhân đái tháo đường, tái hẹp trong stent cũ, cầu nối tĩnh mạch Trong thực tế, các nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh hiệu quả của DES đã thể hiện rõ hơn trong những tổn thương đặc biệt này nếu so với BMS. Tuy nhiên, trong một số tình huống cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ của việc dùng DES nếu so với các biện pháp điều trị khác (điều trị nội khoa, phẫu thuật cầu nối) d) So sánh giữa hai loại stent phủ thuốc thường dùng trên lâm sàng (si- rolimus so với paclitaxel) Một nghiên cứu gộp tổng hợp năm 2007 (meta-analysis) dựa trên 16 nghiên cứu ngẫu nhiên đã phân tích trên 8.695 bệnh nhân với tổn thương mới của ĐMV được điều trị bằng DES so sánh 2 nhóm trên, bao gồm cả kết quả ban đầu của nghiên cứu SORT OUT II, cho thấy nhóm bệnh nhân được đặt loại stent phủ sirolimus- eluting stents (SES) có kết quả tốt hơn so với nhóm được đặt loại stent phủ pacli- taxel-eluting stents (PES) trong thời gian theo dõi trung bình từ 9 - 37 tháng [26]: Tỷ lệ tái hẹp phải can thiệp lại thấp hơn (HR 0.74, 95% CI 0.63-0.87); tỷ lệ huyết khối trong stent cũng thấp hơn (HR 0.66, 95% CI 0.46-0.94). Tuy nhiên, không có sự khác biệt về các biến cố nặng cộng gộp (chết, nhồi máu cơ tim). Thực tế, các nghiên cứu đối đầu vẫn đang tiến hành và câu trả lời cho stent DES nào tốt hơn vẫn chưa được ngã ngũ và còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố về thiết kế stent, hoàn cảnh lâm sàng, đặc điểm tổn thương e) Vấn đề cân đối giá thành - lợi ích (cost-eff ectiveness) Đã có những nghiên cứu về vấn đề giá thành - lợi ích của DES. Nghiên cứu SIRIUS so sánh việc dùng DES với BMS trên 1.058 CHUYÊN ĐỀ ĐÀO TẠO LIÊN TỤC72 bệnh nhân với hầu hết tổn thương phức tạp, can thiệp lần đầu. Kết quả nghiên cứu này về khía cạnh giá thành – hiệu quả cho thấy chi phí tại viện đối với nhóm đặt SES cao hơn $2881 so với BMS. Sau 1 năm, thì giá thành lại thấp hơn rất nhiều với ($309 với mỗi bệnh nhân) do việc không phải can thiệp lại. Giá trị được tính theo điều chỉnh chất lượng cuộc sống (cost per qual- ity-adjusted life year (QALY) đạt được là $27,540. Cũng tương tự như vậy, việc dùng stent nhóm PES trong nghiên cứu TAXUS IV trên 1.314 bệnh nhân cho thấy QALY đạt được là $47,798 [28]. Việc chi phí thấp hơn theo thời gian khi bệnh nhân được dùng DES liên quan đến việc giảm được nguy cơ phải tái can thiệp do tái hẹp ĐMV [29,30]. VAÁN ÑEÀ TAÙI HEÏP SAU KHI ÑAËT STENT PHUÛ THUOÁC Việc đặt DES không có nghĩa là loại trừ hoàn toàn được tái hẹp hoặc các biến cố khác. Mặc dù tỷ lệ này là thấp nhưng người ta thấy vẫn gặp và thường có liên quan đến nhiều yếu tố về lâm sàng và thương tổn mạch (đái tháo đường, mạch nhỏ, dài, chia nhánh, lỗ vào, nhiều mạch) cũng như về kỹ thuật lúc đặt stent đã không được nở hết, không áp thành toàn bộ, còn khoảng trống giữa thành mạch và stent, thuốc không phát huy tác dụng [10,31-34]. Những chứng cứ này được chứng minh qua nghiên cứu đối với stent bọc si- rolimus-eluting stents (SES): trong nghiên cứu E- SIRIUS việc tái hẹp có liên quan đến kỹ thuật đặt stent, có nong bóng trước hay không, có nong bóng áp lực cao sau đó hay không [31]. Nghiên cứu bằng siêu âm trong nong mạch (IVUS), cho thấy, những bệnh nhân bị tái hẹp sau đặt stent bọc thuốc thường vẫn còn tồn tại mức độ hẹp sau khi đặt stent (stent chưa nở hết); có tổn thương nứt vỡ thành mạch, có gãy mắt stent, có khoảng trống giữa stent và thành mạch Do vậy, để tránh tối đa hiện tượng tái hẹp sau khi đặt DES cần chú ý những điểm sau về mặt kỹ thuật: - Stent phải phủ hết tổn thương - Nên nong mạch bằng bóng trước để mở rộng mạch cho stent áp thành tốt và nở tốt. - Nên tránh đặt stent chồng nhau - Nên nong bóng áp lực cao (nếu cần) Việc điều trị tái hẹp trong DES hiện vẫn còn bàn cãi. Có thể dùng cách nong bóng đơn thuần, nong bóng có phủ thuốc (loại khác), đặt DES loại khác, đặt BMS hoặc nên cân nhắc phẫu thuật cầu nối. VAÁN ÑEÀ AN TOAØN LAÂU DAØI KHI ÑAËT STENT PHUÛ THUOÁC Khi ra đời, DES đã mang lại một sự lạc quan quá mức cho các nhà tim mạch can thiệp. Tuy nhiên, đến năm 2006, một số báo cáo đã cảnh báo về độ an toàn của DES qua theo dõi lâu dài. Một vấn đề rất rõ là DES làm giảm tỷ lệ tái hẹp lại trong stent so với BMS. Tuy nhiên, việc tái hẹp là quá trình diễn ra từ từ, gây triệu chứng và cần phải can thiệp hoặc phẫu thuật nhưng thường không gây nguy hiểm đến tính mạng ngay. Trái TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 51 - 2009 73 lại, những biến cố tắc mạch đột ngột do huyết khối có thể gây biến cố nặng trầm trọng và có thể chết người. Vấn đề đặt ra với DES là có đạt được mức độ an toàn (ít nhất ngang với BMS). Các lo ngại về độ an toàn của DES đã được phân tích về huyết khối trong stent (huyết khối muộn), tử vong, nhồi máu cơ tim, giảm mạng lưới tuần hoàn bang hệ, tăng phản ứng quá mẫn tại chỗ 1. Huyết khối trong stent (Stent thrombosis) Huyết khối trong stent xảy ra khoảng 1% tổng số bệnh nhân được đặt DES trong năm đầu tiên. Việc xuất hiện huyết khối khi đặt DES có lẽ có liên quan đến việc chậm của quá trình nội mạc hóa phủ stent (do thuốc ức chế) dẫn đến việc dễ hình thành huyết khối trên stent (dù sao cũng là dị vật trong lòng mạch). Việc hình thành huyết khối này là nguyên nhân trong phần lớn các trường hợp dẫn đến tử vong hoặc nhồi máu cơ tim cấp sau đặt DES. Trong một nghiên cứu gần đây trên 8.146 bệnh nhân được điều trị bằng DES, tỷ lệ huyết khối được ghi chép là 3.3% sau 4 năm theo dõi [51]. Đái tháo đường có liên quan đến tỷ lệ bị huyết khối sớm cao hơn và huyết khối muộn lại t ... t phải dùng 2 loại thuốc ức chế ngưng kết tiểu cầu (aspirin và clopidogrel) trong vòng ít nhất 1 năm. 3. Chức năng tuần hoàn bàng hệ ĐMV Việc ức chế các yếu tố phát triển (growth factors), cytokines, và chemotac- tic proteins bởi các thuốc bọc trong DES có thể ảnh hưởng đến dòng chảy phía sau và hệ tuần hoàn bàng hệ của ĐMV. Trong một nghiên cứu trên 60 bệnh nhân có triệu chứng sau đặt stent, tiến hành chụp lại ĐMV [48], chỉ số tuần hoàn bàng hệ (collateral fl ow index (CFI) và điện tâm đồ được phân tích cho thấy: 1) CFI giảm đáng kể ở những bệnh nhân được đặt DES so với nhóm BMS (0.154 so với 0.224) và, 2) mức chênh lên của ST ≥ 1 mV khi bơm bóng thường gặp hơn ở nhóm DES (83 so với 55%). Đây có lẽ cũng góp thêm phần giải thích cho biến cố huyết khối trong stent dễ gặp hơn ở nhóm DES. 4. Phản ứng quá mức (Hypersen- sitivity reactions) Khi đặt DES có thể có một số phản ứng quá mức, tuy nhiên những phản ứng toàn thân thường là do việc dùng thuốc phối hợp (aspirin, clopidogrel). Một số phản ứng tại chỗ có thể gặp: viêm, loét, phình, không liền nội mạc CHÆ ÑÒNH DUØNG STENT PHUÛ THUOÁC VAØ STENT THÖÔØNG Việc chỉ định dùng BMS hay DES cần cân nhắc lựa chọn dựa trên thực tế và cân bằng giữa những lợi ích và nguy cơ cùng những ưu điểm và nhược điểm của từng loại stent. Vấn đề tái hẹp và huyết khối trong stent là 2 vấn đề lớn nhất cần quan tâm để quyết định nên dùng loại stent TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 51 - 2009 75 nào. Như đã đề cập đến ở trên, DES làm giảm tỷ lệ tái hẹp sau đặt stent, giảm tỷ lệ phải can thiệp lại nhưng có thể liên quan đến nguy cơ huyết khối sau đặt stent nhất là khi bệnh nhân không được (không thể) dùng clopidogrel dài ngày. 1. Gợi ý trường hợp nên đặt stent thường * Bệnh nhân không thể dùng được hai loại thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (as- pirin phối hợp với clopidogrel) kéo dài trong ít nhất 1 năm * Bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao * Bệnh nhân đang phải dùng thuốc chống đông đường uống kéo dài do bệnh lý khác * Bệnh nhân cần phải phẫu thuật sớm (trong 1 năm sau đó) mà phải dừng thuốc chống ngưng kết tiểu cầu * Bệnh nhân mà không thể đặt được DES do kỹ thuật hoặc bệnh nhân có mạch vành lớn (đường kính ≥ 3.5 mm), hoặc tổn thương ngắn (≤ 10 mm). 2. Gợi ý những trường hợp nên đặt DES Là những trường hợp không nằm trong nhóm trên Tổn thương lần đầu Đường kính từ 2,5 - 3,5 mm; Độ dài < 30 mm Cân nhắc rõ lợi ích - nguy cơ 3. Cần cân nhắc khi quyết định * Bệnh nhân bị NMCT cấp * Bệnh nhân bị đái tháo đường * Tổn thương nhiều mạch * Các trường hợp dùng kiểu off -label (mạch dài, nhỏ, tổn thương thân chung, chỗ chia nhánh, lỗ vào, stent gối nhau) * Cân nhắc giá thành tại cơ sở can thiệp TOÙM TAÉT • Stent có phủ thuốc (DES) là một bước tiến bộ trong can thiệp động mạch vành đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tái hẹp trong stent cũng như tỷ lệ phải can thiệp lại. • DES cũng liên quan đến một số vấn đề cần quan tâm: huyết khối trong stent, tử vong và tái nhồi máu cơ tim sau đặt stent Tuy nhiên, nếu chúng ta tôn trọng các khuyến cáo về việc dùng stent cũng như dùng các thuốc chống ngưng kết tiểu cầu thì DES không những không làm tăng các nguy cơ mà còn có thể làm giảm các nguy cơ nếu so với BMS. • Cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ, bệnh cảnh cụ thể để có quyết định tốt nhất mang lại lợi ích tối ưu cho bệnh nhân khi đặt DES hay BMS cho bệnh nhân. TAØI LIEÄU THAM KHAÛO 1. Ormiston, JA, Stewart, FM, Roche, AHG, et al. Late regression of the dilated site af- ter coronary angioplasty. A 5-year quan- titative angiographic study. Circulation 1997; 96:468. 2. uiteras-Val, P, Varas-Lorenzo, C, Garcia- Picart, J, et al. Clinical and sequential angiographic follow-up six months and 10 years aft er successful percutaneous transluminal coronary angioplasty. Am J Cardiol 1999; 83:868. 3. Cannan, CR, Yeh, W, Kelsey, SF, et al. In- cidence and predictors of target vessel CHUYÊN ĐỀ ĐÀO TẠO LIÊN TỤC76 revascularization following percutaneous transluminal angioplasty: A report from the National Heart, Lung, and Blood Insti- tute Percutaneous Transluminal Coronary Angioplasty Registry. Am J Cardiol 1999; 84:170. 4. Fischman, DL, Leon, MB, Baim, DS, et al. A randomized comparison of coronary– stent placement and balloon angioplasty in the treatment of coronary artery dis- ease. N Engl J Med 1994; 331:496. 5. Serruys, PW, de Jaegere, P, Kiemeneij , F, et al. A comparison of balloon– expand- able– stent implantation with balloon an- gioplasty in patients with coronary artery disease. N Engl J Med 1994; 331:489. 6. Cutlip, DE, Chauhan, MS, Baim, DS, et al. Clinical restenosis aft er coronary stenting: perspectives from multicenter clinical tri- als. J Am Coll Cardiol 2002; 40:2082. 7. Kimmel, SE, Localio, AR, Krone, RJ, Las- key, WK. The eff ects of contemporary use of coronary stents on in-hospital mortal- ity. Registry Committ ee of the Society for Cardiac Angiography and Interventions. J Am Coll Cardiol 2001; 37:499. 8. Kimmel, SE, Localio, AR, Brensinger, C, et al. Eff ects of coronary stents on cardio- vascular outcomes in broad-based clinical practice. Arch Intern Med 2000; 160:2593. 9. Stett ler, C, Wandel, S, Allemann, S, et al. Outcomes associated with drug-eluting and bare-metal stents: a collaborative net- work meta-analysis. Lancet 2007; 370:937. 10. osta, MA, Simon, DI. Molecular basis of restenosis and drug-eluting stents. Circu- lation 2005; 111:2257. 11. Moses, JW, Leon, MB, Popma, JJ, et al. Sirolimus-eluting stents versus standard stents in patients with stenosis in a na- tive coronary artery. N Engl J Med 2003; 349:1315. 12. Schofer, J, Schluter, M, Gershlick, AH, et al. Sirolimus-eluting stents for treatment of patients with long atherosclerotic le- sions in small coronary arteries: double- blind, randomised controlled trial (E-SIR- IUS). Lancet 2003; 362:1093. 13. Stone, GW, Ellis, SG, Cox, DA, et al. A polymer-based, paclitaxel-eluting stent in patients with coronary artery disease. N Engl J Med 2004; 350:221. 14. Mauri, L, Orav, EJ, O’Malley, AJ, et al. Re- lationship of late loss in lumen diameter to coronary restenosis in sirolimus-eluting stents. Circulation 2005; 111:321. 15. Aoki, J, Colombo, A, Dudek, D, et al. Peris- tent remodeling and neointimal suppres- sion 2 years aft er polymer-based, pacli- taxel-eluting stent implantation: insights from serial intravascular ultrasound anal- ysis in the TAXUS II study. Circulation 2005; 112:3876. 16. Cohen, HA, Williams, DO, Holmes, DR, et al. Use of drug-eluting stents in con- temporary interventions: a comparison to bare metal stent use in the National Heart, Lung, and Blood Institute Dynamic Regis- try (abstract). J Am Coll Cardiol 2005; 45 (suppl A):63A. 17. Williams, DO, Abbott , JD, Kip, KE. Out- comes of 6906 patients undergoing percu- taneous coronary intervention in the era of drug-eluting stents: report of the DES- TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 51 - 2009 77 cover Registry. Circulation 2006; 114:2154. 18. Hill, RA, Boland, A, Dickson, R, et al. Drug-eluting stents: a systematic review and economic evaluation. Health Technol Assess 2007; 11:iii,. 19. Marzocchi, A, Saia, F, Piovaccari, G, et al. Long-term safety and effi cacy of drug-elut- ing stents: two-year results of the REAL (REgistro AngiopLastiche dell’Emilia Ro- magna) multicenter registry. Circulation 2007; 115:3181. 20. Tu, JV, Bowen, J, Chiu, M, et al. Eff ective- ness and safety of drug-eluting stents in Ontario. N Engl J Med 2007; 357:1393. 21. Abbott , JD, Voss, MR, Nakamura, M, et al. Unrestricted use of drug-eluting stents compared with bare-metal stents in rou- tine clinical practice: fi ndings from the National Heart, Lung, and Blood Institute Dynamic Registry. J Am Coll Cardiol 2007; 50:2029. 22. Marroquin, OC, Selzer, F, Mulukutla, SR, et al. A comparison of bare-metal and drug-eluting stents for off -label indica- tions. N Engl J Med 2008; 358:342. 23. Rao, SV, Shaw, RE, Brindis, RG, et al. On- versus off -label use of drug-eluting coronary stents in clinical practice (Report from the American College of Cardiology National Cardiovascular Data Registry [NCDR]). Am J Cardiol 2006; 97:1478. 24. Beohar, N, Davidson, CJ, Kip, KE, et al. Outcomes and complications associated with off -label and untested use of drug- eluting stents. JAMA 2007; 297:1992. 25. Win, HK, Caldera, AE, Maresh, K, et al. Clinical outcomes and stent thrombosis following off -label use of drug-eluting stents. JAMA 2007; 297:2001. 26. Schomig, A, Dibra, A, Windecker, S, et al. A meta-analysis of 16 randomized trials of sirolimus-eluting stents versus paclitaxel- eluting stents in patients with coronary artery disease. J Am Coll Cardiol 2007; 50:1373. 27. Cohen, DJ, Bakhai, A, Shi, C, et al. Cost-ef- fectiveness of sirolimus-eluting stents for treatment of complex coronary stenoses: results from the Sirolimus-Eluting Bal- loon Expandable Stent in the Treatment of Patients With De Novo Native Coronary Artery Lesions (SIRIUS) trial. Circulation 2004; 110:508. 28. Bakhai, A, Stone, GW, Mahoney, E, et al. Cost eff ectiveness of paclitaxel-eluting stents for patients undergoing percuta- neous coronary revascularization: results from the TAXUS-IV Trial. J Am Coll Car- diol 2006; 48:253. 29. Elezi, S, Dibra, A, Folkerts, U, et al. Cost analysis from two randomized trials of sirolimus-eluting stents versus paclitaxel- eluting stents in high-risk patients with coronary artery disease. J Am Coll Cardiol 2006; 48:262. 30. Vaitkus, PT. Common sense, dollars and cents, and drug-eluting stents. J Am Coll Cardiol 2006; 48:268. 31. Carrozza, JP Jr. Sirolimus-eluting stents: does a great stent still need a good in- terventionalist?. J Am Coll Cardiol 2004; 43:1116. 32. Lemos, PA, Saia, F, Ligthart, JM, et al. Cor- onary restenosis aft er sirolimus-eluting CHUYÊN ĐỀ ĐÀO TẠO LIÊN TỤC78 stent implantation: morphological de- scription and mechanistic analysis from a consecutive series of cases. Circulation 2003; 108:257. 33. Fujii, K, Mintz, GS, Kobayashi, Y, et al. Contribution of stent underexpansion to recurrence aft er sirolimus-eluting stent implantation for in-stent restenosis. Cir- culation 2004; 109:1085. 34. Takebayashi, H, Kobayashi, Y, Mintz, GS, et al. Intravascular ultrasound assessment of lesions with target vessel failure aft er sirolimus-eluting stent implantation. Am J Cardiol 2005; 95:498. 35. Lemos, PA, Hoye, A, Goedhart, D, et al. Clinical, angiographic, and procedural predictors of angiographic restenosis aft er sirolimus-eluting stent implanta- tion in complex patients: an evaluation from the Rapamycin-Eluting Stent Evalu- ated At Rott erdam Cardiology Hospital (RESEARCH) study. Circulation 2004; 109:1366. 36. Stone, GW, Moses, JW, Ellis, SG, et al. Safety and effi cacy of sirolimus- and pa- clitaxel-eluting coronary stents. N Engl J Med 2007; 356:998. 37. Spaulding, C, Daemen, J, Boersma, E, et al. A pooled analysis of data comparing sirolimus-eluting stents with bare-metal stents. N Engl J Med 2007; 356:989. 38. Kastrati, A, Mehilli, J, Pache, J, et al. Anal- ysis of 14 trials comparing sirolimus-elut- ing stents with bare-metal stents. N Engl J Med 2007; 356:1030. 39. Nordmann, AJ, Briel, M, Bucher, HC. Mortality in randomized controlled tri- als comparing drug-eluting vs. bare metal stents in coronary artery disease: a meta- analysis. Eur Heart J 2006; 27:2784. 40. Stone, GW, Ellis, SG, Colombo, A, et al. Off sett ing impact of thrombosis and rest- enosis on the occurrence of death and myocardial infarction aft er paclitaxel- eluting and bare metal stent implantation. Circulation 2007; 115:2842. 41. Farb, A, Boam, AB. Stent thrombosis redux-the FDA perspective. N Engl J Med 2007; 356:984. 42. Lagerqvist, B, James, SK, Stenestrand, U, et al. Long-term outcomes with drug-eluting stents versus bare-metal stents in Sweden. N Engl J Med 2007; 356:1009. htt p://www.medscape.com/ viewarticle/565189 (accessed June 4, 2008). 43. James, S. Long-term outcomes with drug-eluting stents versus bare-metal stents in Sweden-one addition year of follow-up: Presented at the 2007 Euro- pean Society of Cardiology Congress; Septmenber 5, 2007; Vienna, Austria. 44. Hannan, EL, Racz, M, Holmes, DR, et al. Comparison of coronary artery stenting outcomes in the eras before and aft er the introduction of drug-eluting stents. Circu- lation 2008; 117:2071. 45. Daemen, J, Garcia-Garcia, HM, Nkukreja, N et al. The long-term value of sirolimus- and paclitaxel-eluting stents over bare metal stents in patients with diabetes mellitus. Eur Heart J 2007; 28:26. 46. Sabate, M, Jimenez-Quevedo, P, Angiolil- lo, DJ, et al. Randomized comparison of TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 51 - 2009 79 sirolimus-eluting stent versus standard stent for percutaneous coronary revascu- larization in diabetic patients: the diabe- tes and sirolimus-eluting stent (DIABE- TES) trial. Circulation 2005; 112:2175. 47. Meier, P, Zbinden, R, Togni, M, et al. Coronary collateral function long aft er drug-eluting stent implantation. J Am Coll Cardiol 2007; 49:15. 48. Nebeker, JR, Virmani, R, Bennett , CL, et al. Hypersensitivity cases associated with drug-eluting coronary stents: a review of available cases from the Research on Ad- verse Drug Events and Reports (RADAR) project. J Am Coll Cardiol 2006; 47:175. 49. Garg, P, Cohen, DJ, Gaziano, T, Mauri, L. Balancing the risks of restenosis and stent thrombosis in bare-metal versus drug- eluting stents: results of a decision analyt- ic model. J Am Coll Cardiol 2008; 51:1844. 50. King, SB, Smith, SC, Hirshfeld, JW Jr, et al. 2007 Focused update of the ACC/AHA/ SCAI 2005 guideline update for PCI. Cir- culation 2008; 117:e1. Available at: htt p:// circ.ahajournals.org (accessed January 29, 2008). Wenaweser P, Daemen J, Zwahlen M, et al. Incidence and correlates of drug-eluting stent thrombosis in routine clinical prac- tice. 4-year results from a large 2-insti- tutional cohort study. J Am Coll Cardiol 2008;52:1134-1140. 51. Baran KW, Lasala JM, Cox DA, et al. A clinical risk score for prediction of stent thrombosis Am J Cardiol 2008;102:541- 545. 52. Hannan EL, Racz M, Holmes DR, et al. Comparison of coronary artery stenting outcomes in the eras before and aft er the introduction of drug-eluting stents Cir- culation 2008;117:2071-2078. 53. Malenka DJ, Kaplan AV, Lucas FL. Out- comes following coronary stenting in the era of bare-metal vs. the era of drug-elut- ing stents JAMA 2008;299:2868-2876.
File đính kèm:
- ung_dung_stent_phu_thuoc_trong_thuc_hanh_lam_sang.pdf