Uống trà trị bách bệnh
Trong thời kỳ Tần Hán trước công nguyên, trong cuốn “Thần nông bản thảo kinh” của
Trung Quốc có ghi chép lại về trà, khi đó có tác dụng như là dược thảo. Đến cuốn “Thần nông
bản thảo” của thời Chiến quốc thì đã trần thuật lại dược tính và tác dụng của trà: trà có vị đắng,
những người uống trà rất có ích cho tâm thái, giảm béo, sáng mắt”. Lá trà có màu sắc sáng, mùi
thơm, những chất có chứa trong lá trà rất có lợi cho sức khoẻ của con người. Những người
thường xuyên uống trà có được sức khoẻ, trường thọ, “mỗi ngày uống khoảng 3 đến 5 chén trà
thơm, có lợi cho sức khoẻ, tinh thần sảng khoái”. Trà được bắt nguồn từ Trung Quốc, trong rất
nhiều sách cổ của đất nước này có vô vàn những ghi chép thú vị về trà. Có ghi chép lại rằng,
Đường Tuyên Tông năm công nguyên 849, có một hôm có một vị hoà thượng hơn trăm tuổi
đến Lạc Dương, Đường Tuyên Tông hỏi vị hoà thượng uống thuốc bổ gì mà có thể được trường
thọ như vậy. Vị hoà thượng trả lời, khi còn nhỏ cuộc sống rất nghèo khổ, không biết thuốc bổ là
gì, không có uống bất cứ loại thuốc gì, chỉ là bình sinh thích uống trà, đi khắp nơi coi trà là cầu.
Đường Tuyên Tông nghe xong liền tặng ông 50 cân trà và chúc ông sẽ luôn trường thọ.
Trà không những có công hiệu trị liệu rất tốt mà còn có thể phòng chống được rất nhiều
bệnh tật. Nhà y học đời Đường của Trung Quốc Trần Tàng Khí đã từng đánh giá cao giá trị
dược liệu của trà: các loại trà là thuốc quý đối với rất nhiều bệnh tật, trà là thuốc chữa bách
bệnh. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, dược tính thần kì của trà đã có được sự công nhận
của mọi người. Nghiên cứu khoa học cũng đã chứng minh, trà có vai trò trong việc phòng trừ
bệnh đái tháo đường, các bệnh về tim mạch, chống ung thư, chống lão hoá v.v , có thể thấy trà
là một loại thuốc tốt trong việc chữa trị các loại bệnh tật.
Vậy rốt cuộc trong trà có chứa những vật chất nào có lợi cho sức khoẻ của con người, đồng
thời lại có công hiệu trừ bệnh tật? Khoa học phát hiện ra rằng, trong trà có chứa rất nhiều hợp
chất, trong đó có protein hoà tan, axit amin, hợp chất cacbon hydrat và rất nhiều loạ vitamin,
đặc biệt là vitamin C, vitamin B và vitamin P có trong trà rất có lợi đối với cơ thể con người, là
thành phần không thể thiếu trong quá trình trao đổi chất. Công dụng của trà trong việc phát
triển trí não, phòng chống lão hoá, nâng cao khả năng miễn dịch, cải thiện tổ chức tế bào
đường ruột và tiêu hoá, giải độc tố đã được nhiều công trình nghiên cứu khoa học chứng thực,
vì thế trà cũng chính là chất điều chỉnh chức năng rất tốt.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Uống trà trị bách bệnh
Uống Trà Trị Bách Bệnh Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : Table of Contents Lời nói đầu Chương I: Tác dụng như vị thuốc của trà Chương II: Những bệnh thường gặp của cơ quan hô hấp Chương III: Những căn bệnh thường gặp về hệ thống tuần hoàn và máu Chương IV: Những bệnh về đường tiêu hóa thường gặp Chương V: các bệnh thường gặp của hệ thần kinh, nội tiết và trao đổi chất Chương VI: Một số bệnh phụ (nam) khoa Chương VII: Một số bệnh về ngũ quan thường gặp Chương VIII: các bệnh nhi khoa thường gặp Chương IX: Những bệnh thường gặp khác Phụ lục: Những kiến thức xung quanh việc uống trà Hãy trở thành bác sĩ sử dụng trà điều trị bệnh tật cho chính mình ăn là một trong những việc quan trọng của đời người, nếu ăn đúng cách thì có thể biến thức ăn ngon trở thành thuốc quý. Lời nói đầu Trong thời kỳ Tần Hán trước công nguyên, trong cuốn “Thần nông bản thảo kinh” của Trung Quốc có ghi chép lại về trà, khi đó có tác dụng như là dược thảo. Đến cuốn “Thần nông bản thảo” của thời Chiến quốc thì đã trần thuật lại dược tính và tác dụng của trà: trà có vị đắng, những người uống trà rất có ích cho tâm thái, giảm béo, sáng mắt”. Lá trà có màu sắc sáng, mùi thơm, những chất có chứa trong lá trà rất có lợi cho sức khoẻ của con người. Những người thường xuyên uống trà có được sức khoẻ, trường thọ, “mỗi ngày uống khoảng 3 đến 5 chén trà thơm, có lợi cho sức khoẻ, tinh thần sảng khoái”. Trà được bắt nguồn từ Trung Quốc, trong rất nhiều sách cổ của đất nước này có vô vàn những ghi chép thú vị về trà. Có ghi chép lại rằng, Đường Tuyên Tông năm công nguyên 849, có một hôm có một vị hoà thượng hơn trăm tuổi đến Lạc Dương, Đường Tuyên Tông hỏi vị hoà thượng uống thuốc bổ gì mà có thể được trường thọ như vậy. Vị hoà thượng trả lời, khi còn nhỏ cuộc sống rất nghèo khổ, không biết thuốc bổ là gì, không có uống bất cứ loại thuốc gì, chỉ là bình sinh thích uống trà, đi khắp nơi coi trà là cầu. Đường Tuyên Tông nghe xong liền tặng ông 50 cân trà và chúc ông sẽ luôn trường thọ. Trà không những có công hiệu trị liệu rất tốt mà còn có thể phòng chống được rất nhiều bệnh tật. Nhà y học đời Đường của Trung Quốc Trần Tàng Khí đã từng đánh giá cao giá trị dược liệu của trà: các loại trà là thuốc quý đối với rất nhiều bệnh tật, trà là thuốc chữa bách bệnh. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, dược tính thần kì của trà đã có được sự công nhận của mọi người. Nghiên cứu khoa học cũng đã chứng minh, trà có vai trò trong việc phòng trừ bệnh đái tháo đường, các bệnh về tim mạch, chống ung thư, chống lão hoá v.v , có thể thấy trà là một loại thuốc tốt trong việc chữa trị các loại bệnh tật. Vậy rốt cuộc trong trà có chứa những vật chất nào có lợi cho sức khoẻ của con người, đồng thời lại có công hiệu trừ bệnh tật? Khoa học phát hiện ra rằng, trong trà có chứa rất nhiều hợp chất, trong đó có protein hoà tan, axit amin, hợp chất cacbon hydrat và rất nhiều loạ vitamin, đặc biệt là vitamin C, vitamin B và vitamin P có trong trà rất có lợi đối với cơ thể con người, là thành phần không thể thiếu trong quá trình trao đổi chất. Công dụng của trà trong việc phát triển trí não, phòng chống lão hoá, nâng cao khả năng miễn dịch, cải thiện tổ chức tế bào đường ruột và tiêu hoá, giải độc tố đã được nhiều công trình nghiên cứu khoa học chứng thực, vì thế trà cũng chính là chất điều chỉnh chức năng rất tốt. Đồng thời trà còn có vai trò dự phòng và trị liệu phụ trợ đối với rất nhiều loại bệnh tật. Muối vô cơ có trong lá trà, đặc biệt là các nguyên tố (các nguyên tố vi lượng) như đồng, phốt pho, sắt, nhôm, mangan, kẽm, canxi, magiê v.v có thể bổ sung nhu cầu của con người đối với khoáng chất, đối với sức khoẻ của con người và làm chậm lại quá trình lão hoá cũng có vai trò quan trọng. Cafein có trong trà có thể kích thích thần kinh hưng phấn cao độ, khiến cho tinh thần của con người hưng phấn, tư duy hoạt bát, tiêu trừ mỏi mệt. Ngoài ra, cafein còn khiến cho tim mạch hoạt động nhanh hơn, làm cho các động mạch được giãn nở, tăng cường sự cung cấp máu cho tim, có vai trò trong việc xây dựng một trái tim khoẻ mạnh, còn có thể tăng cường sự hô hấp, năng cao khối lượng làm việc của các cơ bắp, nhưng lại không hề làm cho huyết áp tăng cao. Đồng thời trà cũng có tác dụng cầm máu, tiêu diệt vi khuẩn, giải độc khi cơ thể hấp thu phải lượng muối kim loại hoặc chất kiềm sinh vật. Chất cafein và phênol có trong trà kết hợp với nhau có thể phòng trừ sự tăng cao của cholesterol trong cơ thể. Khoa học thực nghiệm còn phát hiện ra rằng, trà còn có tác dụng chống lại sự ngưng tụ, có thể khiến sự hình thành protein xơ có độ kết dính tăng cao được giảm bớt, điều đó chứng minh trà có thể khống chế sự xơ cứng động mạch. Có nghiên cứu còn cho thấy rõ, uống cà phê khiến hàm lượng cholesterol trong cơ thể tăng cao, nhưng uống trà có nhiều thành phần phenol và vitamin có thể có vai trò tốt trong việc thanh lọc cafein có hại, vì thế điểm đặc biệt của trà chính là ở đây. Vì vậy, từ xưa tới nay trà luôn được coi là thực phẩm tốt trong việc tốt cho sức khoẻ và kéo dài tuổi thọ, có công hiệu giống như là “linh đơn huyền diệu”. Chính vì thế nhà thơ nổi tiếng đời Tống là Tô Đông Pha đã chủ trương khởi xướng nếu bệnh nhẹ thì chỉ cần uống trà, không cần phải uốn thuốc, ông nói: thà rằng uống mấy bất trà còn hơn là uống một viên thuốc. Cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, yêu cầu của con người đối với các loại thực phẩm cũng bắt đầu từ “ăn no” đến “ăn ngon” rồi chuyển đến hình thức “tẩm bổ cho sức khoẻ”. Sự huyền diệu do việc uống trà mang tới sẽ đem đến rất nhiều điều tốt đẹp cho con người trong việc bảo vệ sức khoẻ và kéo dài tuổi thọ. Chương I: Tác dụng như vị thuốc của trà I. Lịch sử và sự phát triển của trà thuốc Trà vốn là một loại thực vật hoang dã thuộc loại sơn trà thường mọc thành bụi. Khoảng hơn 4000 năm trước vào thời đại Thần nông, những người lao động đã ngẫu nhiên phát hiện ra trà cũng như tác dụng giải độc của trà, từ đó trà đã trở thành thứ đồ uống giải độc. Trà thuốc là thành phần thuốc quan trọng trong y học của Trung Quốc, là kinh nghiệm được tổng kết lại trong một thời gian dài và trong quá trình chiến đấu với bệnh tật của người lao động Trung Quốc. Trà có tác dụng như một vị thuốc, nó đã tồn tại trong 2700 năm lịch sử của người Trung Quốc. Trong cuốn Bản thảo Thần Nông thời Đông Hán, cuốn Bản thảo bổ sung của Trần Tạng Khí đời Đường, cuốn Trà phổ của Cố Nguyên Khánh đời Minh đều ghi chép lại một cách rất cẩn thận công dụng như một vị thuốc của lá trà. Tương truyền Thần Nông Thị nếm phải bạch thảo, nhiễm phải 72 vị độc, nhờ có lá trà mới giải được độc. Những danh y lớn đời Hán là Trương Trung Cảnh, Hoa đều dùng trà để chữa các loại bệnh. Vào thời Đường đã có khá nhiều cách luận giải về việc phòng bệnh và chữa bệnh khi dùng lá trà. Cuốn Bản thảo đời Đường có nói: “Lá trà cam thảo có vị mát lạnh mà không độc, tiêu đờm, trợ tiêu hóa, lợi tiểu tiện. Lại nói: “Hạ khí tiêu hóa thức ăn, khi uống cho thêm thủ di, hành và gừng vào. Lấy trà và các vị trà thuốc ứng dụng vào việc chữa đau đầu, đờm nóng, tiêu hóa thức ăn và tiêu nước, từ đó có tác dụng bổ thận chống mỏi lưng, thính tai sáng mắt, cơ bắp chắc khỏe. Tác dụng giống như vị thuốc của trà: Do trà uống rất thuận lợi nên người ta hay cho thêm vài vị thuốc vào trà, từ đó mà tạo nên trà thuốc. Theo sự tích lũy kinh nghiệm của những người chữa bệnh, cho rằng trà thuốc là chỉ một loại thuốc, vị tất phải cho thêm lá trà mới gọi chung là trà thuốc. Trong cuốn Thái bình thánh huệ vương của Vương Hoài Ân đời Tống đã kể ra hơn 10 phương trà thuốc như trà thông thị, trà bạc hà, trà lưu huỳnh. Trong cuốn n thiện chính yếu của Hốt Tư Tuệ đời Nguyên cũng ghi chép về các phương trà thuốc; cuốn Bản thảo cương mục của Lí Thời Trân đời Minh đã luận giải rất rõ ràng về các phương trà thuốc, trong đó có luận giải về trà chủ trị ho khan, tiêu đờm. Trà thuốc khá thịnh hành vào thời Minh Thanh, là một thứ trà bổ dưỡng cho sức khỏe, những người nghiên cứu về trà ngày càng nhiều, thậm chí ứng dụng vào trà thuốc càng phong phú, vào thời đó thịnh hành nhất là đại trà ẩm, là một loại trà thuốc bảo vệ sức khỏe. Theo phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc, dùng trà dưỡng sinh kết hợp với thuốc trung thảo càng là một sự phát triển lớn, càng khiến cho công dụng của trà thuốc cũng như trà bổ dưỡng sức khỏe lớn hơn nữa, nó đã trở thành một viên ngọc sáng quý báu trong y học cổ truyền của người Trung Quốc. Ví dụ như trong cuốn Bản thảo cầu chân cũng nói tác dụng của trà là lọc phổi tiêu đờm, thanh nhiệt giải độc, điều tiết dịch nhầy, giải sạch độc. Phàm là các chứng thức ăn khó tiêu hóa, đầu mắt không sạch, đờm không tiêu, tiểu tiện khó khăn, cảm giác háo nước, cho đến nôn ra máu, tiểu tiện ra máu, hỏa thương mục, khi uống trà đều có tác dụng. Trong hoàng cung thời nhà Thanh, uống trà thuốc để chữa bệnh, bồi dưỡng sức khỏe đã trở thành tục lệ phổ biến của các tầng lớp vương công quý tộc. Các danh y đời trước trong một thời gian dài đã từng bước tích lũy được những kinh nghiệm phong phú về cách chữa bệnh vào việc sử dụng những loại trà thuốc bồi bổ sức khỏe. Sau khi thống nhất đất nước, trong phần phụ lục cuốn Dược điển phần thứ nhất của Trung Quốc đã ghi chép yêu cầu và cách dùng để chữa trị của trà thuốc, sự phổ biến của trà bồi bổ sức khỏe đã từng bước có tác dụng. Trà thuốc qua các nhà dưỡng sinh và danh y thời trước đã không ngừng hoàn thiện, từ đó đã xuất hiện các phương trà thuốc nhiều tác dụng, đã trở thành một nét đặc sắc trong phương pháp dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe, phòng bệnh và chữa bệnh của các danh y Trung Quốc. II. Đông y với việc nhận thức về chức năng bảo vệ sức khỏe của trà thuốc Đông y với việc nhận thức về nguyên lí chữa bệnh của các phương thuốc, chủ yếu là thông qua việc giải thích những lí luận cơ bản về tứ khí, ngũ vị, tăng giảm chìm nổi, quy kinh. 1. Tứ khí Bao gồm nóng, lạnh, ấm, mát, nó là sự thông qua phân loại quy nạp tính chất các loại bệnh không giống nhau mà ra. Người bệnh tuy có các dạng bệnh như thế nào, biến chứng đến đâu nhưng chung quy lại cũng chỉ có mấy dạng cơ bản này. Qua thực tiễn cũng đã tổng kết được chức năng của các loại thuốc, phàm là những loại thuốc chữa những bệnh tính lạnh lại có thuộc tính nóng, ấm, có chức năng ấm nóng, trợ dương, giải lạnh, ích khí như phụ tử, gừng khô; những loại thuốc chữa những loại bệnh tính nóng lại có thuộc tính mát, lạnh, có chức năng thanh nhiệt, hạ hỏa, mát máu, giải độc, tư âm, như hoàng liên, sinh địa; ngoài ra, những loại thuốc chữa chứng cơ thể suy nhược có chức năng bổ khí, tráng dương, tư âm, dưỡng huyết, an thần như nhân sâm, đương quy; những loại thuốc có chức năng tăng cường cơ thể hoặc những loại bệnh phát ra hay ẩn ở bên trong, đều có chức năng hạ tả, lợi nước, thông tiện, chữa què, hoạt huyết như đại hoàng, xuyên loan v.v 2. Ngũ vị Chỉ các vị không giống nhau là chua, cay, mặn, ngọt, đắng. Cay có thể tạo chua, hành khí như ma hoàng, quế, tía tô. Chua có thể tạo chát như ô mai, vị đắng có thể làm hạ tả, dưỡng ẩm, giảm nghịch như hoàng liên v.v. Vị ngọt có thể bổ ích như cam thảo v.v Vị mặn có thể làm mềm cứng tản kết như côn bộ v.v 3. Tăng giảm chìm nổi Chỉ những vị thuốc khi vào cơ thể có thể có tác dụng bổ dương, hoặc giảm bình nghịch, hoặc tăng phát tán, hoặc hạ thông đường tiểu, có thể làm bệnh tình thuyên giảm. Thuốc tăng nổi có chức năng thăng dương, phát tán, giải độc, giảm nôn, thuốc giảm chìm có chức năng thanh nhiệt, tả hạ, lợi tiểu, giảm nghịch, nhịp thở đều, tiềm dương. 4. Quy kinh Chỉ những loại thuốc có tác dụng chữa bệnh đối với một loại tạng phủ nào đó của cơ thể, như hoàng liên có chức năng thanh tả tâm hỏa khi hoàng liên đi vào tâm kinh. Tóm lại, tác dụng về nguyên lí của những loại thuốc là thông qua cơ chế có tính tổng hợp của tứ khí, ngũ vị, tăng giảm chìm nổi, quy kinh mà thành, tuy mỗi loại thuốc có một vài công dụng, thậm chí là nhiều công dụng nhưng đều có thành phần chủ yếu khác nhau, không thể chọn một loại thuốc để chữa tất cả các loại bệnh. Những loại thuốc có chức năng không giống nhau theo lí luận của ng y, thông qua những tác dụng biện chứng, cách kết hợp hợp lí có thể đạt được những hiệu quả có tính chỉnh thể rõ rệt, từ đó có thể chữa được những căn bệnh thường gặp hoặc những căn bệnh nan giải. Trà thuốc được sử dụng theo cách lí luận của Đông y, chức năng bảo vệ sức khỏe của nó cũng giống như cơ chế chữa bệnh của các loại thuốc khác, đồng thời thông qua sự tác động lẫn nhau của thuốc và bệnh đối với sự bổ sung, điều tiết chính cơ thể để đạt tới mục đích chữa bệnh. Ví dụ như bệnh có tính nóng biểu hiện là phát nóng, đổ mồ hôi, miệng khát, thích uống nước lạnh hoặc ở trạng thái buốn bực, dùng những loại thuốc lạnh mát hoặc thậm chí dùng cách uống nước lạnh thì có thể đạt được tác dụng trong việc kháng lại chất độc nóng, cuối cùng sẽ hồi phục được sự cân bằng âm dương trong cơ thể. III. Những thành phần có lợi trong lá trà Uống trà có thể bổ sung các chất protein và axit amin cần thiết cho cơ thể. Thông qua uống trà có thể hấp thụ trực tiếp hàm lượng protein là 2% ở dạng hòa tan có trong lá trà, phần lớn protein là ở dạng hòa tan nằm trong bã cặn của trà. Qua việc nghiên cứu chứng minh của các nhà khoa học trong một thời kì dài, hàm lượng hóa học có trong lá trà vô cùng phong phú, bao gồm hơn 500 thành phần các loại, trong đó có rất nhiều thành phần là các chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe, có tác dụng trong việc phòng chữa các loại bệnh. Trà có nhiều chất phenol, lipopolysaccharides, axit amin v.v.. Hàm lượng phenol có trong lá trà (chủ yếu là ở cây nhi trà) thường chiếm 20-30%, là một loại oxi tự do phổ biến nhất của hợp chất, có tác dụng giảm lượng mỡ trong máu, giảm huyết áp, giảm lượng đường trong máu, phòng trừ lão hóa, chống phóng xạ, diệt khuẩn, tiêu đờm v.v Hàm lượng chất lipopolysacchrides trong lá trà vào khoảng 3%, nó có thể làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể và còn có tác dụng cải thiện chức năng tạo máu, chống phóng xạ, trị những bệnh liên quan đến phóng xạ. Các loại axit amin có trong lá trà rất phong phú, gồm hơn 25 loại, trong đó có isoleucine, leucine, lysine, phenylalanine, threonine, axit methyl butyric là sáu trong tám loại axit amin cần thiết cho cơ thể. Ngoài ra còn có chất histidine cần cho trẻ sơ sinh đến khi trưởng thành. Hàm lượng axit amin có trong lá trà chiếm từ 2-5%, nó là đơn vị chủ yếu của thành phần protein chứa trong tế bào để tạo nên cơ thể, là yếu tố không thể thiếu trong bộ máy trao đổi chất của cơ thể, có tác dụng giảm huyết áp, chống mệt mỏi và bảo vệ sức khỏe, có lợi cho việc hóa trị liệu đối với người bị ung thư. Trong những năm gần đây, người ta đã tách chất hồng trà có trong hồng trà, có tác dụng chống lão hóa, chống lại sự di căn của ung thư, giảm lượng đường, giảm lượng mỡ v.v Những lợi ích này rất có tác dụng về sức khỏe đối với cơ thể, ... ợc nhặt trong tay, lại giữ lấy điểm tựa cũ thêm một lần nữa rồi đứng lên. IX. Mất ngủ Mất ngủ là hiện tượng khi ngủ gặp trở ngại, thường do chức mất chức năng điều tiết của ngũ tạng gây ra, trong đó đặc biệt là tim, gan, thận là chủ yếu. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà dẫn đến hư nhược. Nếu nóng trong, tâm thận không giao hoà, thường biểu hiện ra ở hiện tượng buồn bực, mệt mỏi, hay quên, giấc ngủ không tốt. Nếu còn bị những lo lắng sợ hãi từ bên ngoài, gan nóng, thận nóng, tâm trạng bất an, thì càng thấy biểu hiện nóng nảy, sợ hãi hoặc oán thán, đêm không ngủ được. Loại thứ nhất nên dùng những loại sản phẩm từ dưỡng an thần, loại sau nên dùng những loại vật phẩm để điều tiết gan thận. Các nhà nghiên cứu cho rằng, mất ngủ là do giấc ngủ không đủ, hoặc ngủ không sâu, không ngon, thường có 3 biểu hiện ban đầu là mất ngủ, mất ngủ trong thời gian ngắn hoặc mất ngủ lâu dài. Những vấn đề liên quan đến mất ngủ không lớn lắm, chỉ có những người liên tục mất ngủ trong thời gian dài mới coi là mất ngủ. 1. Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh Các phương thức truyền thống giúp ngủ tốt thường lấy bồi bổ làm chính. Các loại thực phẩm thường dùng là hạt sen, đại táo, táo, táo chua, actiso, long nhãn, sơn dược phối hợp uống cùng với trà, có thể làm cho đại não tiêu tán được sự mệt mỏi, có lợi trí nhớ cho việc học hành. 2. Các loại trà nên sử dụng Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 5 quả đại táo, 50 gam hạt dẻ, 10 gam phục thần. Cho phục thần vào đun sôi, lọc lấy nước, bỏ cặn đi, sau đó lấy nước phục thần cho thêm đại táo, hạt dẻ vào đun lên, uống ngày 2 lần vào buổi sáng và tối khi ăn cơm. Công dụng chữa trị: Trấn tĩnh, giúp ngủ ngon. Chú ý: Đại táo ngọt ấm, có tác dụng tốt trong bổ trung ích khí, dưỡng huyết an thần. Theo báo cáo của các nhà khoa học Nhật Bản, từ quả đại táo có thể chiết xuất ra một loại chất, qua các thí nghiệm trên thực tế thì thấy nó có tác dụng trấn tĩnh, giúp ngủ ngon. Loại tác dụng giúp trấn tĩnh này, cũng tương tự như hiệu quả “an thần” như trong Đông y. Phục thần có chứa nhiều loại vi khuẩn màu trắng, hương vị tương tự như phục linh, tính vị can bình, có tác dụng dưỡng tâm an thần, chuyên được dùng để trấn tĩnh, định thần, chống chứng hay quên. Trong cuốn “Danh y biệt lục” có viết: “Phục thần có tác dụng trấn tĩnh, chống buồn bực, nổi nóng, hay quên, tâm trạng cởi mở, an thần, tĩnh tâm”. Khi đun lấy nước uống nó có tác dụng giúp trấn tĩnh rất tốt. Hạt dẻ, nhất là loại hạt nhỏ, thành phần dinh dưỡng cũng tương tự như gạo tẻ, có tác dụng tốt cho thận và dạ dày. Cuốn “Tuỳ tức cư ẩm thực phổ” cho rằng, công dụng của hạt dẻ cũng tương tự như của gạo ăn mà chúng ta vẫn thường ăn, nhưng tính tương đối mát, người bệnh ăn rất tốt”. Trong phương thuốc trên, nếu chỉ dùng đại táo thì tác dụng không mạnh lắm, nên chọn dùng thêm phục thần, hạt dẻ bổ sung thêm vào, phối hợp lại để làm cho tác dụng an thần càng thêm mạnh mẽ, phối hợp với hạt dẻ còn để tốt cho thận và dạ dày. Toàn phương thuốc có tác dụng tốt thận an tâm, an thần ích trí, tâm thận hư nhược, kinh hoảng sợ hãi, mất ngủ hay quên, tinh thần không tập trung (2). Trà quả dâu actiso Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 100 gam quả dâu tươi, 50 gam actiso tươi. Cho cả hai thứ vào rửa sạch, thêm nước đun sôi lên, mỗi ngày uống 1 lần. Công dụng chữa trị: Tĩnh tâm an thần. Chú ý: Phương trà trên có tác dụng nhuận tràng thông tiện, cũng rất tốt cho chứng bí tiện lâu năm. Những người thận vị hư hàn, bài tốt không tốt không nên dùng thuốc này. Quả dâu có vị chua, tính hàn, cam hàn, từ âm bổ huyết, dễ thanh nhiệt, là một loại thực phẩm bổ gan thận thường được dùng. Nó có tác dụng cải thiện tâm thận hư nhược, yếu ớt. Actiso bổ ích khí huyết và nhuận tràng. Những người gan thận âm hư mà bên trong lại sinh nhiệt, tinh thần phiền muộn, đêm không ngủ thành giấc, lo buồn bất an, có thể dùng quả dâu để bổ âm trừ khí, actiso an thần, chống nhiệt, định thần và giúp có giấc ngủ tốt. (3). Trà đại táo hành trắng Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 20 quả đại táo, 10 gam hành trắng. Cho đại táo vào rửa sạch, bổ ra, cho vào nồi cùng hành trắng, thêm nước vào đun sôi lên, sau khoảng 15-20 phút thì bắc ra, lọc lấy nước uống, mỗi tối uống 1 lần, uống khi nóng. Công dụng chữa trị: Dưỡng huyết an thần. Chú ý: Loại trà trên có tác dụng bổ trung ích khí, dưỡng huyết an thần, thích hợp với người tâm thận hư hàn, mệt mỏi mất sức, ăn ít, mệt mỏi, buồn bực không ngủ được. Đại táo cam nhuận, bổ thận ích khí, trấn tĩnh tinh thần, chống hay quên, mất ngủ, nếu muốn bồi bổ hư tổn tâm thận, đa số người ta thường dùng đại táo để điều chỉnh. Hành trắng là một bộ phận gần với họ bách hợp, đôi khi còn gọi là củ hành trắng, tính vị ấm nóng sinh nhiệt, dùng để thông dương khí. Trong phương thuốc trên dùng hành trắng còn có một tầng ý nghĩa nữa, đại táo để nhuận bổ, thêm hành vào để sinh nhiệt, như vậy có thể phát huy hết tác dụng của đại táo, càng có thể giúp cơ thể nóng lên, làm cho con người sung mãn. (4). Trà cam thảo đại táo Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 10 gam cam thảo, 5 quả đại táo, 10 gam tiểu mạch. Cho cả 3 loại thuốc trên vào nước lạnh ngâm, sau đó đun sôi lên, mỗi lần để sôi trong khoảng nửa giờ, sau khi đun sôi 2 lần, chắt lấy nước. Mỗi ngày 2 lần, uống vào buổi sáng và tối. Uống nóng thay trà, ăn đại táo. Công dụng chữa trị: Dưỡng tâm an thần. Chú ý: Loại trà trên có tác dụng ức chế thần kinh đại não hưng phấn bất thường, làm cho trạng thái quá mẫn cảm của hệ thống thần kinh được hồi phục lại trạng thái bình thường, có thể làm giảm sự hưng phấn của đại não, làm cho con người dễ rơi vào trạng thái buồn ngủ. Nếu là những người tâm khí không đầy đủ, âm hư huyết thiếu, gan khí tích tụ dẫn đến mất ngủ, ra mồ hôi trộm, tinh thần hoảng hốt, lo lắng bất an, bi thương buồn khổ thì nên dùng loại trà này. (5). Trà lê Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 3 quả lê, 25 gam đường khô. Lê rửa sạch, bỏ vỏ, thái mỏng, thêm nước đun sôi trong khoảng 20 phút, sau đó thêm lượng đường vừa đủ vào ăn vừa miệng là được, chia làm 2 lần dùng, uống thay trà, đồng thời ăn lê. Công dụng chữa trị: Dưỡng tâm an thần. Chú ý: Loại trà trên có tác dụng “tốt cho phong nhiệt và tâm, lo âu sợ hãi, tâm tư bất an”. Phong nhiệt và tâm thần bất định, buồn phiền lo lắng khiến đêm ngủ không ngon giấc. Muốn trị chứng bệnh này, phải thanh nhiệt trừ phong, tĩnh tâm an thần. Lê là một loại quả thuộc họ tường vi, gồm có lê trắng, sa lê, lê mùa thu. Lê tính ngọt, vị chua, tính mát, thích hợp để thanh nhiệt hoá viêm, sinh nhiệt nhuận táo. Phối hợp với đường khô có tác dụng bổ thận nhuận gan, từ đó phát huy tác dụng thanh nhiệt hoá viêm, đó là một trong những loại thuốc hoà trung an thần. Nó thích hợp để điều trị các chứng viêm nóng, tâm trạng lo âu, tâm tổn thương, dẫn đến mất ngủ, buồn bã. Nếu phong tà rõ rệt, có thể kết hợp dùng thêm với bạc hà, hoa cúc để trừ phong. (6). Trà ngó sen tươi Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 1 cuống sen tươi, 1 quả lê. Cho ngó sen rửa sạch, tước vỏ. Lê bỏ vỏ, bỏ hạt, thái nhỏ. Rửa sạch riêng từng loại rồi cho vào túi vải buộc lại, đun sôi 2 lần lấy nước, trộn 2 loại nước đó lại với nhau, uống nhiều lần thay trà. Công dụng chữa trị: An thần bổ huyết. Chú ý: Loại trà trên thích hợp điều trị chứng mất ngủ, có hiệu quả rất tốt đối với những chứng như tâm buồn bực, miệng khô khát, ho, viêm họng dẫn đến đêm ngủ không ngon giấc. Cuống sen khi dùng tươi và khi dùng chín có tác dụng khác nhau: Dùng chín thì ngọt ấm, tốt nhất cho tâm thận, kiện thận, khai dạ dày, ích huyết bổ tâm; Dùng chín thì ngọt lạnh, có thể thanh nhiệt chống nóng, mát máu. Cả hai cách dùng đều có tác dụng an thần. Phương trà trên, chúng ta nên dùng loại tươi, vì có thể thanh nhiệt an thần, phối hợp với hiệu quả thanh nhiệt của quả lê, thì càng khiến cho hiệu quả đó được tốt hơn. Đây là một phương thuốc tốt để an thần. 3. Những điều cần ghi nhớ Mất ngủ ở một mức độ tương đối có thể là một loại thói quen, cho nên việc bảo đảm một thói quen sinh hoạt tốt, tuân theo quy luật ngủ nghỉ theo đồng hồ sinh học là một phương pháp rất tốt để phòng chống chứng mất ngủ. Một khi bị mất ngủ, nên theo đúng chỉ dẫn của những thầy thuốc có kinh nghiệm để dùng thuốc. Đồng thời, nên làm những việc sau đây: (1). Xây dựng thói quen ăn ngủ đúng giờ, trước khi đi ngủ nên thả lỏng tư tưởng. (2). Trước khi đi ngủ không nên ăn quá no, làm việc quá nặng nhọc. (3). ánh sáng phòng ngủ nên dịu nhẹ, không nên quá nóng, cũng không nên để quá cao. (4). Kiên trì rửa chân bằng nước ấm hàng ngày trước khi đi ngủ. (5). Khi ăn uống nên ăn nhiều hoa quả, đại táo, mật ong, tiểu mạch, sữa bò buổi tối có thể ăn tiểu mạch, hạt sen, hồng táo, cháo bách hợp. (6). Sau buổi trưa, nên cố gắng không uống nước chè, cà phê, côca côla. (7). Trước khi đi ngủ không nên uống rượu. Tuy rượu có thể làm cho chúng ta nhanh chìm vào giấc ngủ, những đồng thời có cũng làm rối loạn giấc ngủ, ảnh hưởng đến sự hồi phục thể lực. (8). Không hút thuốc. Chất nicotin trong thuốc lá làm mất sự ổn định của giấc ngủ và ảnh hưởng đến chất lượng của giấc ngủ, cho dù trước khi đi ngủ có hút một chút thuốc thôi thì giấc ngủ cũng sẽ bị ảnh hưởng nhất định. X. Stress Stress hay thường gọi là chứng phiền muộn là do mật trong cơ thể tiết ra quá nhiều, sau khi vào não, nó là nguyên do gây ra vỡ sự hoạt động của chúng. Nó là một dạng bệnh do trở ngại về tâm lý, còn được gọi là trở ngại về tình cảm hoặc tinh thần, là một sự tổng hợp của những chứng bệnh về tinh thần phản ánh vào trong tâm trạng, thường có kèm theo sự thay đổi về tư duy và hành vi. Phiền muộn là chứng bệnh thần kinh thường gặp, tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh này chiếm khoảng 5% tỷ lệ dân số thế giới, trong đó tỷ lệ dẫn đến tự sát là 12-15 %, nó là đứng đầu tiên trong các chứng bệnh thần kinh, và còn được gọi là “sát thủ tâm lý hàng đầu”. Những bệnh nhân mắc chứng phiền muộn này thường phải mang theo những nỗi đau khổ trong nội tâm, và thường là những “người bi thương, tiêu cực nhất trên thế giới”. 1. Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh Nếu gan khí không tốt sẽ có thể dẫn đến những vấn đề về tinh thần như tâm trạng xuống dốc, phiền muộn v.v cho nên cần phải biết điều chỉnh tâm lý, điều khí dưỡng gan. Hoa hợp hoan khô có màu hơi vàng hoặc vàng xanh, mùi thơm dịu nhẹ. Nó có vị ngọt, là một loại thuốc bổ cho hệ thống thần kinh, có tác dụng hoá giải căng thẳng, giảm mệt mỏi. Ngâm hãm hoa hợp hoan làm thành trà uống có tác dụng rất tốt trong điều trị chứng phiền muộn. 2. Các loại trà nên sử dụng (1). Trà hạt sen Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 30 gam hạt sen, 20 gam đường phèn, 5 gam lá trà. Lấy tâm sen ra rồi ngâm trong nước sôi khoảng vài giờ đồng hồ, thêm đường phèn và nước vào làm thành trà. Trà cho vào nước tâm sen ngâm hãm trong khoảng 5 phút, sau đó cho hạt sen vào nước trà đó là được. Mỗi ngày 1 thang, uống nhiều lần thay trà. Công dụng chữa trị: Dưỡng tâm dưỡng thận, thanh tâm an thần. Chú ý: Loại trà trên thích hợp với chứng thiếu khí huyết, tâm trạng lo lắng, hoảng loạn. Hạt sen có thể giúp thanh tâm, tiêu phiền muộn; ngân nhĩ có thể bổ hư, phối hợp hai loại này lại, có thể trị chứng phiền muộn ở người già rất tốt. (2). Trà cẩu kỷ tử, dâm dương Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 12 gam cẩu kỷ tử, 9 gam dâm dương, 9 gam sa uyển tử, 6 gam ngũ vị tử, 9 gam củ mài. Tất cả những thứ này cho vào đun lên uống thay trà, mỗi ngày 1 thang. Công dụng chữa trị: Từ bổ gan thận, trợ dương ích trí. Chú ý: Loại trà trên thích hợp trị chứng phiền muộn thần kinh suy nhược, mất sức, trí nhớ giảm sút. (3). Trà hợp hoan Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 10 gam hoa hợp hoan, 10 gam tố hinh hoa, 10 gam hoàn phúc hoa. Cho cả 3 vị trên vào đun trong 15 phút lấy nước uống nhiều lần. Công dụng chữa trị: Mát gan điều khí. Chú ý: Loại trà trên có tác dụng mát gan điều khí, làm cho con người ta thư thái. Đông y cho rằng, gan khí vượng vào mùa xuân, gan khí khai thông có nghĩa là thông thoáng, mở rộng. 3. Những điều cần ghi nhớ Chứng phiền muộn về cơ bản có thể chia ra làm ba loại lớn: phiền muộn đơn phương, phiền muộn song phương, phiền muộn do các tật bệnh của cơ thể. Các loại phiền muộn này khác nhau, cho nên các phòng ngừa chúng cũng khác nhau. Cách phòng ngừa chứng phiền muộn, có thể theo những yêu cầu sau: Những hỗ trợ thuộc nhân tố tâm lý xã hội. Phiền muộn đơn phương có mối quan hệ mật thiết đến cá tính của người bệnh, những người này đa số đều có tính cách yếu đuối, đa sầu đa cảm, quá quan tâm đến sức khoẻ của bản thân mình, cho nên khi gặp phải những vấn đề xã hội không tốt ảnh hưởng đến tâm lý, ví dụ như áp lực công việc quá lớn, quan hệ xã hội căng thẳng, mâu thuẫn gia đình, cơ thể mắc một chứng bệnh nào đó v.v thì tự dưng nảy sinh tâm lý lo lắng, sợ hãi, tiêu cực, không cách nào thoát khỏi cảm giác đó được, dẫn đến phiên muộn, đau khổ, bi quan. Đối với những bệnh nhân này, cần hướng dẫn cho người bệnh tìm ra được các nguyên nhân gây bệnh, những đau khổ trong lòng, đồng thời cùng với gia đình và bạn bè thân thiết cùng hỗ trợ tâm lý cho người bệnh, để tránh khỏi việc gặp phải những vấn đề rắc rối đó và nguy cơ gây bệnh. Đối với bệnh nhân song phương phiền muộn, sự hỗ trợ từ phía gia đình và xã hội cũng có những tác dụng tích cực nhất định, nên kết hợp giữa gia đình và đơn vị công tác, cố gắng giải quyết những vấn đề khó khăn tồn tại trong công việc và trong cuộc sống thực tế của người bệnh, có gắng tạo ra một môi trường vui vẻ, nhẹ nhàng cho người bệnh, để xoá bỏ hoặc giảm nhẹ những gánh nặng tâm lý hoặc những thứ không thể đạt được, vì chứng phiền muộn là một chứng bệnh hoàn toàn có thể chữa khỏi được. Một khi bệnh tình có dấu hiệu tốt, những chuyện không hay trong công việc, học hành và cuộc sống hàng ngày có thể đem đến cho người bệnh những ảnh hưởng tiêu cực, dễ dẫn đến những cảm xúc bi quan, dẫn đến bệnh phiền muộn lại tiếp tục tái phát. Trong cuộc sống hàng ngày, những người có xu hướng phiền muộn nên chú ý mấy điểm sau: Nên tạo cho mình một giấc ngủ ngon. Nếu mất ngủ lâu dài có thể dẫn đến chứng phiền muộn, nếu bị những lo lắng do việc mất ngủ gây ra, cần phải biết cách để loại trừ nó. Khi gặp phải khó khăn không nên quá tức giận. Nên học cách giảm bớt áp lực do việc nóng giận gây ra, bảo đảm sự cân bằng tâm lý. Bình thường, nên biết cách giải quyết những khó khăn của bản thân, nếu gặp phải những áp lực trong cuộc sống thì cần phải biết giải quyết chúng. Nên tham gia nhiều vào các hoạt động bên ngoài, chịu khó vận động cơ thể là một cách phòng ngừa chứng phiền muộn tốt nhất và tự nhiên nhất. Nên áp dụng những cách bảo vệ bản thân và tránh những kích thích bên ngoài, nếu bị quấy rầy, ví dụ như những nơi nào có thể khiến bạn bị tổn thương thì không nên đi, nên tránh xa những người có thể làm bạn tức giận, từ đó tránh bực tức xảy đến với mình. Đối với những kích thích lớn, nên tự nâng cao khả năng chịu đựng. Trong cuộc sống hàng ngày nên sắp xếp cho mình một số những hoạt động vui vẻ để làm.
File đính kèm:
- uong_tra_tri_bach_benh.pdf