Y dược học chứng cứ trong thực hành y học

Y học chứng cứ ra đời từ giữa thế kỷ 20 và đang phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 21. Y học

chứng cứ là một cách tiếp cận để thực hành y tế, nhằm mục đích tối ưu hóa việc ra quyết định,

bằng cách nhấn mạnh việc sử dụng các bằng chứng từ các nghiên cứu được tiến hành tốt với thiết

kế tốt. Mặc dù tất cả các loại thuốc dựa trên khoa học đều có một mức độ hỗ trợ thực nghiệm, Y

học chứng cứ còn có thể đưa ra các khuyến cáo mạnh mẽ hơn, phân loại chứng cứ bằng sức mạnh

nhận thức luận của nó và yêu cầu chỉ những loại mạnh nhất (từ các phân tích meta, tổng quan hệ

thống, và các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên) các loại yếu hơn (chẳng hạn như từ các nghiên

cứu đối chứng) có thể chỉ mang lại các khuyến cáo yếu. Chuyên đề này sẽ điểm qua: Các loại

hình nghiên cứu khoa học, nghiên cứu y học và y dược học chứng cứ cùng các bước thử nghiệm

lâm sàng

pdf 5 trang dienloan 7940
Bạn đang xem tài liệu "Y dược học chứng cứ trong thực hành y học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Y dược học chứng cứ trong thực hành y học

Y dược học chứng cứ trong thực hành y học
Đại học Nguyễn Tất Thành 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 2 
66 
Y dược học chứng cứ trong thực hành y học 
Dương Diệu 
Khoa Y ĐH Nguyen Tat Thanh, 
duongdieumd@ntt.edu.vn 
Tóm tắt 
Y học chứng cứ ra đời từ giữa thế kỷ 20 và đang phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 21. Y học 
chứng cứ là một cách tiếp cận để thực hành y tế, nhằm mục đích tối ưu hóa việc ra quyết định, 
bằng cách nhấn mạnh việc sử dụng các bằng chứng từ các nghiên cứu được tiến hành tốt với thiết 
kế tốt. Mặc dù tất cả các loại thuốc dựa trên khoa học đều có một mức độ hỗ trợ thực nghiệm, Y 
học chứng cứ còn có thể đưa ra các khuyến cáo mạnh mẽ hơn, phân loại chứng cứ bằng sức mạnh 
nhận thức luận của nó và yêu cầu chỉ những loại mạnh nhất (từ các phân tích meta, tổng quan hệ 
thống, và các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên) các loại yếu hơn (chẳng hạn như từ các nghiên 
cứu đối chứng) có thể chỉ mang lại các khuyến cáo yếu. Chuyên đề này sẽ điểm qua: Các loại 
hình nghiên cứu khoa học, nghiên cứu y học và y dược học chứng cứ cùng các bước thử nghiệm 
lâm sàng 
® 2018 Journal of Science and Technology - NTTU 
Nhận 24.01.2018 
Được duyệt 22.05.2018 
Công bố 19.06.2018 
Từ khóa 
y học chứng cứ, dược học 
chứng cứ, thử nghiệm 
lâm sàng 
Sự nghèo khó đến từ nạn đói-thiếu nhà ở, cả hai đều là kẻ có 
khả năng giết người (potent killers) - nghèo hiểu biết trong 
đó có nghèo về kiến thưc y học cũng góp phần một cách có 
ý nghĩa. Y học dựa vào bằng chứng (Evidence Based 
Medicine - EBM) có mục đích áp dụng bắng chứng tốt nhất 
có được từ phương pháp khoa học đưa ra quyết định lâm 
sàng. Đánh giá độ mạnh về chứng cứ của các yếu tố nguy cơ 
hoặc lợi ích của điều trị và chẩn đoán đem lại hiệu quả cho 
người bệnh. Sau đây các loại hình nghiên cứu khoa học. 
nghiên cứu y học và y dược học chứng cứ cùng các bước thừ 
nghịêm lâm sàng sẽ lần lượt được điểm qua. 
1. Các loại hình nghiên cứu khoa học và nghiên 
cứu y học 
1.1 Khái quát về nghiên cứu khoa học và nghiên cứu y dược 
học 
1.1.1 Một số khái niệm chung: Khoa học là một tri thức về 
mọi qui luật của vật chất và sự vận động của vật chất, qui 
luật của tự nhiên và xã hội. Khoa học là một hoạt động xã 
hội nhằm tìm tòi, phát hiện qui luật để sáng tạo ra nguyên lý, 
các giải pháp tác động vào các sự vật hoặc hiện tượng nhằm 
biến đổi trạng thái của chúng. Khoa học là một hình thái ý 
thức xã hội, khoa học tồn tại, mang tính độc lập, thay đổi với 
các ý thức hình thái xã hội khác (triết học Mark). 
Hình 1. Sơ đồ loại hình khoa học và y học 
1.1.2 Kỹ thuật và công nghệ: Công nghệ là hoạt động để giải 
quyết vấn đề kỹ thuật (giải pháp, phương tiện, kiến thức). Kỹ 
thuật là kiến thức kinh 
nghiệm, kỹ năng có hệ thống sử dụng, chế tạo sản phẩm hoặc 
sản xuất. 
LOẠI KHOA HỌC 
NGÀNH 
CÁC BỘ MÔN KHOA HỌC 
NGÀNH NGÀNH 
KẾ HOẠCH SỨC KHỎE 
CÁC BỘ MÔN 
NGÀNH DƯỢC 
NGÀNH Y 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
67 Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 2 
1.1.3 Nghiên cứu khoa học: là tìm thuộc tính bản chất nhằm 
nhận thức và cải tạo thế giới khách quan.của tri thức thường 
nghiệm và tri thức khoa học như khái niệm, phạm trù, qui 
luật, định luật, tiên đề, học thuyết, 
1.1.4 Đạo đức trong nghiên cứu khoa học: Việc lạm dụng các 
đối tượng con người trong nghiên cứu không phải là mới. 
Tuy nhiên, sau những cuộc tàn bạo y khoa ghê tởm của Đức 
quốc xã trong Thế chiến II cuối cùng đã được phơi bày và 
đánh giá tại Nuremberg, có vẻ như các quốc gia và các tổ 
chức toàn cầu đã ghi nhận và đưa ra những hướng dẫn về đạo 
đức cổ điển cho việc sử dụng các đối tượng con người trong 
nghiên cứu. Tuyên bố Helsinki. ban đầu được thông qua vào 
tháng 6 năm 1964 tại Helsinki, Phần Lan và từ đó đã trải qua 
7 lần sửa đổi (lần gần nhất tại Đại hội đồng vào tháng 10 năm 
2013) và hai lần làm rõ, tăng đáng kể từ 11 đoạn năm 1964 
đến 37 trong phiên bản 2013. Tuyên bố là một tài liệu quan 
trọng trong lịch sử của đạo đức nghiên cứu vì nó là nỗ lực 
đáng kể đầu tiên của cộng đồng y tế tự điều chỉnh nghiên cứu 
và tạo cơ sở cho hầu hết các tài liệu tiếp theo [1] 
1.2 Các loại hình khoa học: 
 Bảng 1. Khác nhau gữa khoa học và công nghệ 
Khoa học Công nghệ 
Nghiên cứu khoa học 
mang tính xác suất 
Điều hành công nghệ 
mang tính xác định 
Hoạt động khoa học luôn 
đổi mới không lập lại 
Hoạt động công nghệ lặp 
lại theo chu kỳ 
Sản phẩm khó định trước 
Sản phẩm định trước theo 
thiết kế 
Sản phẩm đặc trưng mang 
thông tin 
Sản phẩm tùy thuộc vào 
đầu vào 
Lao động linh hoạt và 
mang tính sáng tạo cao 
Lao động theo qui định 
Có thể mang mục đích tự 
thân 
Có thể không mang mục 
đích tự thân 
Phát minh khoa học tồn tại 
mãi với thời gian 
Sáng chế bị tiêu vong theo 
lịch sử tiến bộ khoa học 
1.2.1 Khái niệm chung: Dựa vào chủng loại sản phẩm từ 
nghiên cứu khoa học. 
1.2.2 Ba loại hình nghiên cứu khoa học: 
-Nghiên cứu cơ bản: Bản chất, qui luật là nghiên cứu thuần 
tuý: Tìm bản chất, qui luật 
Nghiên cứu cơ bản định hướng có 2 loại: Nghiên cứu cơ bản 
định hướng nền tảng: quan sát, đo đạc, mô tả sức khoẻ cộng 
đồng và nghiên cứu cơ bản định hướng chuyên đề: Gene di 
truyền. 
-Nghiên cứu ứng dụng: giải pháp, tổ chức, quản lý. 
-Nghiên cứu triển khai: lấy vật mẫu trong Phòng Thí nghiệm-
Đại trà - Phát minh sáng chế 
2. Y dược học chứng cứ: [2] 
Y học dựa vào bằng chứng (EBM) có mục đích áp dụng bắng 
chứng tốt nhất có được từ phương pháp khoa học đưa ra 
quyết định lâm sàng. Đánh giá độ mạnh về chứng cứ của các 
yếu tố nguy cơ hoặc lợi ích của điều trị và chẩn đoán. Vì đây 
là loại hình khoa học ứng dụng có thể áp dụng cho các lĩnh 
vực khác như ngành răng, điều dưỡng, tâm lý. Trong thực 
hành dựa trên bằng chứng tìm cách để làm sáng tỏ mục đích 
chính của phương pháp nghiên cứu khoa học và áp dụng 
những phương pháp này để đảm bảo có sự tiên lượng chính 
xác nhất của kết quả phép điều trị ngay cả tranh luận tiếp tục 
về kết quả mong muốn. “Y học chứng cứ là sự lồng ghép 
bằng chứng nghiên cứu tốt nhất với trải nghiệm lâm sàng và 
thực trạng bệnh nhân ” – theo Dave Sackett. Ba nhóm sau 
đây có liên quan mật thiết với nhau: Y học dựa vào chứng cứ 
(EMB); Thực hành lâm sàng dựa vào bằng chứng (Evidence 
Based Clinical Practice -EBCP) và Điều trị dựa trên bằng 
chứng (Evidence Based Treatment-EBT). Điều trị dựa trên 
bằng chứng (EBT) là một cách tiếp cận mà cố gắng để xác 
định cách thức mà các chuyên gia hoặc người ra quyết định 
khác bằng cách xác định chứng cứ như vậy cho một thực tế 
và đánh giá theo cách khoa học có thể có được. Mục tiêu là 
để loại bỏ tập quán không lành mạnh hoặc quá rủi ro để có 
những kết quả tốt hơn. Trường hợp EBT được áp dụng, nó 
khuyến khích các chuyên gia sử dụng chứng cứ tốt nhất có 
thể, ví dụ, các thông tin thích hợp nhất hiện có. Ứng dụng y 
học chứng cứ là quá trình liên tục vì những thông tin y học 
liên tục được cập nhật theo số lượng và những kết quả của 
những công trình nghiên cứu mới, đặc biệt là những kết quả 
từ các công trình đánh giá lại có hệ thống (systematic review) 
mà trước đây chưa thực hiện được do chưa đủ thông tin. 
Ngoài ra, phương pháp học theo vấn đề của y học chứng cứ 
rất phù hợp trong bệnh viện, vì rất nhiều vấn đề nảy sinh khi 
tiếp xúc với bệnh nhân Đây là cách học rất thiết thực và hiệu 
quả trong chương trình học hỏi liên tục trong bệnh viện. 
2.1 Độ mạnh của y học dựa vào chứng cứ:[2] 
Năm 1989, Tổ công tác Cơ quan Dự phòng Hoa Kỳ 
(Preventive Services Task Force-USPSTF) đưa ra mức sau 
đây: 
Mức I: Bằng chứng thu được từ ít nhất một thử nghiệm đối 
chứng ngẫu nhiên được thiết kế hợp lý. 
Mức độ II-1: Bằng chứng thu được từ thử nghiệm đối chứng 
được thiết kế tốt mà không cần ngẫu nhiên. 
Mức độ II-2: Bằng chứng thu được từ các nghiên cứu thuần 
tập được thiết kế tốt hoặc các nghiên cứu đối chứng, tốt hơn 
là từ nhiều trung tâm hoặc nhóm nghiên cứu. 
Mức độ II-3: Bằng chứng thu được từ thiết kế hàng loạt ca 
qua thời gian có hoặc không có sự can thiệp. Kết quả đáng 
kể trong các thử nghiệm không đối chứng được cũng có thể 
được coi là loại bằng chứng này. 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 2 
68 
Hình 2. Tháp biểu diễn nghiên cứu – phân tích độ mạnh 
Mức độ III: Ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền, dựa trên 
kinh nghiệm lâm sàng, các nghiên cứu mô tả, hoặc các báo 
cáo của các ủy ban chuyên gia. 
Theo Cơ quan Sức Khỏe quốc gia Anh Quốc có 4 loại: 
1. Mức A: Thử nghiệm lâm sàng thuần tập, ngẫu nhiên, đối 
chứng, 
 quyết định lâm sàng dựa trên quần thể khác nhau. 
2. Mức B: Hồi cứu thuần tập, bệnh chứng. 
3. Mức C: Nghiên cứu bệnh chứng. 
4. Mức D: Ý kiến chuyên gia. 
Như vậy chúng ta có thể xếp y học chứng cứ thành 4 mức: 
1. Mạnh nhất: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đối chứng, 
thuần tập. 
2. Mạnh: Thử nghiệm lâm sàng đối chứng 
3. Trung bình: Thử nghiệm lâm sàng qua hàng loạt ca 
4. Yếu: Ý kiến chuyên gia qua một vài ca dựa vào y học cơ 
sở. 
Chú thích tháp phân hạng độ mạnh chứng cứ từ đáy đến đỉnh: 
- Tầng đáy: Nghiên cưu động vật vá nghiên cứu trong labo. 
- Tầng 1: Chứng cứ yếu. Quan điểm, kinh nghiệm cá nhân. 
- Tầng 2: Chứng cứ trung bình, từ các công trình nghiên cứu 
không thực nghiệm có thiết kế nghiên cứu tốt. Nghiên cứu 
hàng loạt ca bệnh. Nghiên cứu ca bệnh điển hình. 
- Tầng 3: Chứng cứ mạnh, từ các công trình nghiên cứu thực 
nghiệm có thiết kế nghiên cứu tốt, có đối chứng. 
- Tầng 4: Chứng cứ mạnh nhất từ các công trình nghiên cứu 
thuần tập 
- Tầng 4a: Chứng cứ mạnh nhất, từ ít nhất 1 công trình nghiên 
cứu có đối chứng, ngẫu nhiên (Randomised controlled trial) 
trong nghiên cứu thuần tập. 
- Tầng 4b: Chứng cứ mạnh nhất, từ ít nhất 1 công trình đánh 
giá có hệ thống ( systematic review) trong nghiên cứu thuần 
tập 
2.2 Dược bằng chứng tại các nước đang phát triển 
(Evidence-based pharmacy in developing countries) [3] 
 Sự nghèo khó đến từ nạn đói-thiếu nhà ở, cả hai đều là kẻ có 
khả năng giết người (potent killers) -nghèo hiểu biết trong đó 
có nghèo về kiến thưc y học cũng góp phần một cách có ý 
nghĩa. Thực hành dựợc dựa vào bằng chứng là cách làm giảm 
thiểu những vấn đề này-internet là tiện lợi nhất giúp giải 
quyết về nghèo kiến thức. Chương trình thuốc thiết yếu là 
một bước tiến bộ lớn giúp tiến đến hiệu quả trong điều trị 
người bệnh.. 
Nhiều nước đang phát triển có chính sách về thuốc theo 
khuyến cáo Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) như chính sách 
về thuốc của Indonesia 1983 theo các mục tiêu sau: Bảo đảm 
tính khả thi về nhu cầu thuốc của dân chúng; Cải thiện sự 
phân phối thuốc trên toàn thể dân chúng; Đảm bảo tính hiệu 
quả, an toàn, giá trị của thuốc để sử dụng hiệu quả từ trung 
ương đến địa phương; Bảo vệ cho dân chúng không sử dụng 
sai hay lạm dụng; Phát triển khả năng dược tự chủ trong 
nước theo sự phát triển kinh tế của quốc gia. Để đạt được 
những điều này Indonesia đã trãi qua những thay đổi : Danh 
mục thuốc thiết yếu-bổ sung theo thời gian; Danh mục thuốc 
generic của khu vực công thông qua Hội đồng thuốc và điều 
trị của bệnh viện theo Nghị đính 1989. Bệnh viện huyện-
trung tâm chăm sóc sức khỏe dựa váo danh mục thuốc thiết 
yếu. Phần lớn thuốc được cung cấp bởi 3 công ty của nhà 
nước. Có khóa huấn luyện về quản lý và sử dụng thuốc theo 
danh mục của các tuyến đến nhân viên. Quản lý chất lượng 
thuốc tứ trung ương đến tỉnh phải tăng cường. Bệnh viện 
hướng dẩn sử dụng thuốc theo tuyến –sách hướng dẩn chẩn 
đoán và điều trị sử dụng kháng sinh theo tuyến Thuốc gốc 
phải được cung cung cấp và khả thi về giá cho các đối tược 
có thu nhập thấp. 
Nội dung về dược bằng chứng tại các nước đang phát triển: 
 Khuyến khích kê đơn điều trị căn nguyên-theo dõi điều trị-
cần dữ liệu về thử nghiệm lâm sàng- cập nhật chứng cứ-phối 
hợp nhiều thuốc phải thận trọng.Nên chú ý đến giá thành 
trong điều trị. Indonesia nghiên cứu 50% trẻ em và 75% trên 
5 tuổi đến điều trị tại tram y tế nhận ít nhất mũi tiêm. Tiêm 
có thể là không cần thiết. Tiêm ảnh hưởng đến da-cơ (teo cơ 
delta) và suy dinh dưỡng. Trình dược viên các công ty dược 
và bác sĩ kê đơn làm tăng sử dụng thuốc có thể nói chưa cấn 
thiết. Là hậu quả của sự kháng kháng sinh. 
 Điều trị căn nguyên: Nhiều bệnh nhân nghèo mua thuốc 
từng ngày khi không có tiền không mua được thuốc không 
tuân thủ điều trị nhất là bệnh lao, cùi... Cân nhắc sử dụng 
vitamine để giúp người nghèo giảm chi phí điều trị 
 Khái niệm về danh mục thuốc thiết yếu và danh mục: Theo 
alphabet 27 nhóm. Ví dụ P-Paracetamol: dạng viên-đặt- 
sirop. Khảo sát sử dụng thuốc này cho thấy: Nhu cầu thuốc 
điều trị NNTs (numbers needed to treat) gia tăng nhưng 
chứng minh là không cần thiết nhất là người nghèo. 
 Thông tin công khai trong cộng đồng: không nên dùng 
thuốc tiêm khi có thể dùng đường uống-không dùng kháng 
sinh bừa bãi –phải theo đơn thuốc bác sĩ. Thông tin phản hồi 
từ nghiên cứu tại địa phương đến các bác sĩ, nhân viên y tế 
cũng như công chúng như việc không cần sử dung kháng sinh 
trong một số bệnh tiêu chảy, viêm hô hấp.. 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
69 Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 2 
 Thuốc tặng: TCYTTG khuyến cáo (2005): chọn lọc thuốc-
chất lượng-bao bì nhãn gói –thông tin và quản lý. 
 Thực hành dược chứng cứ: Dược lâm sàng khuyến cáo nên: 
- Sắp xếp theo nhóm tác dụng hơn là alphabet. 
- Khoảng đông lạnh nên đủ chổ. 
- Thuốc đóng gói để ngoài cảnh giác với chuột. 
- Thuốc ngoại trú về bao bì nhãn-hướng dẫn sử dụng trong 1 
tuần cho bệnh nhân chưa thực hiện hoàn chỉnh về tuân thủ 
điều kiện của thuốc do bệnh nhân. 
- Phải thận trọng với thuốc đã ra khỏi gói. 
- Các tờ hướng dẫn về thuốc rất ít khi tìm thấy- phải có trong 
các gói thuốc. Dược sĩ hướng dẫn không có mặt thường 
xuyên mặc dầu nhà thuốc mở cửa 24/24 tại Mumbay-Ấn Độ. 
3. Các bước thử nghiệm lâm sàng (The phases of 
clinical research)[4][5][6] 
Bảng 2. Các giai đoạn của thử nghiệm lâm sàng(12-18 năm) 
Giai đoạn I 
Xác định liều lượng, an toàn 
tác dụng phụ 
20-100 
bệnh nhân 
Giai đoạn II 
Xác định xem các công trình 
về thuốc như trên để quản lý 
100-300 
bệnh nhân 
Giai đoạn III 
Giám sát sau khi tiếp thị ảnh 
hưởng lâu dài của thuốc 
Thử nghiệm lâm sàng trên con người chỉ có thể bắt đầu sau 
một giai đoạn tiền lâm sàng, liên quan đến nghiên cứu trong 
phòng thí nghiệm (in vitro) và thử nghiệm trên động vật, 
trong đó đã chỉ ra rằng các loại thuốc thử nghiệm được coi là 
an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, không có động vật là đủ 
tương tự như con người (ngay cả những biến đổi gen) để thực 
hiện thử nghiệm. Vì lý do này, các loại thuốc thử nghiệm 
cũng phải được thử nghiệm trên người. Trước khi được phê 
chuẩn để đưa vào sử dụng một phương pháp điều trị mới, hay 
những loại thuốc và vắc-xin phải trải qua quá trình kiểm 
nghiệm vô cùng nghiêm ngặt và có hệ thống trên những tình 
nguyện viên. Quy trình này được thiết kế để đánh giá một 
sản phẩm mới có thể được phê duyệt để sử dụng rộng rãi hay 
không. Mỗi thử nghiệm lâm sàng được thiết kế nhằm đáp 
ứng những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu. Đó là sự bám sát 
vào đề cương nghiên cứu đã được xác định trước một cách 
chặt chẽ nhằm đảm bảo kết quả chính xác và an toàn. Mỗi 
giai đoạn thử nghiệm có mục đích khác nhau để phát triển 
một loại thuốc hay một vắc-xin. 
Giai đoạn I: Những nhà nghiên cứu kiểm nghiệm một loại 
thuốc hay giải pháp điều trị đang trong quá trình thử nghiệm 
trên một nhóm nhỏ từ 20-80 người để lần đầu đánh giá độ an 
toàn, xác định liều lượng phù hợp, theo dõi những diễn biến 
của hợp chất bên trong cơ thể, và bắt đầu nhận biết tác dụng 
phụ. 
Giai đoạn II: Thuốc hay giải pháp điều trị đang nghiên cứu 
được thử nghiệm trên một nhóm bệnh nhân lớn hơn từ 100-
300 người nhằm thu được những bằng chứng sơ bộ của tác 
dụng và nhằm đánh giá độ an toàn sau này. Nếu chứng cứ 
thu thập về tác dụng và tính rủi ro có thể chấp nhận được, 
loại thuốc này có thể được chuyển qua giai đoạn nghiên cứu 
tiếp theo. 
Giai đoạn III: Ở giai đoạn này thuốc được kiểm nghiệm trên 
một số lượng bệnh nhân lớn hơn khoảng 1,000 – 3,000 
người, để tiếp tục thử nghiệm hiệu quả và theo dõi tác dụng 
phụ của thuốc. Trong một số trường hợp, kết quả này sẽ được 
so sánh với một giải pháp điều trị chuẩn nếu có. 
Giai đoạn IV: Sau khi một loại thuốc hay một giải pháp điều 
trị được phê duyệt bởi các cơ quan quản lý nhà nước và được 
đưa ra thị trường, tiếp tục nghiên cứu độ an toàn và hiệu quả 
của thuốc trong thời gian dài hơn và trên số lượng bệnh nhân 
nhiều hơn. Cần tiếp tục nghiên cứu những chỉ định mới cho 
các sản phẩm đã được cấp phép lưu hành. Thông thường có 
cả nghìn người tham gia vào giai đoạn thử nghiệm IV này. 
4. Kết luận 
Y học dựa vào bằng chứng là cơ sở để phát triển nghiên cứu 
y học một cách bền vững. Áp dụng y học chứng cứ để đem 
lại hiệu quả cho người bệnh một cách tốt nhất. Tuy nhiên cần 
biết hạn chế của vần đề này là sai số trong quá trinh nghiên 
cứu. 
Thực hành dựợc dựa vào bằng chứng là cách làm giảm thiểu 
nghèo hiểu biết trong đó có nghèo về kiến thưc y học. Với 
internet là tiện lợi nhất sẽ giúp giải quyết về nghèo kiến thức. 
Chương trình thuốc thiết yếu là một bước tiến bộ lớn giúp 
tiến đến hiệu quả trong điều trị người bệnh. 
Mỗi thử nghiệm lâm sàng được thiết kế nhằm đáp ứng 
những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu, được xác định trước 
một cách chặt chẽ nhằm đảm bảo kết quả chính xác và an 
toàn, có mục đích khác nhau để phát triển một loại thuốc hay 
một vắc-xin. 
Đại học Nguyễn Tất Thành 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Số 2 
70 
Tài liệu tham khảo 
1. https://en.wikipedia.org/wiki/Declaration_of_Helsinki 
2. https://en.wikipedia.org/wiki/Evidence-based_medicine 
3. https://en.wikipedia.org/wiki/Evidence-based_pharmacy_in_developing_countries#p-search#p- search 
4. https://en.wikipedia.org/wiki/Phases_of_clinical_research 
5. United States Food and Drug Administration's (FDA) 2006 Guidance on Exploratory Investigational New Drug (IND) 
Studies. 
6. EU Directive 2001/83/EC relating to Medicinal Products for Human Use. 
Evidence- based medicine and evidence- based pharmacy in medical practice. 
Duong Dieu 
Faculty of Medicine-Nguyen Tat Thanh University 
Abstract Evidence- based medicine was born in the mid-20th century and has been developed strongly in the 21st century. 
Evidence-based medicine is an approach to medical practice aimed at optimizing decision-making by emphasizing the use of 
evidence from well-conducted and well-designed studies. Although all science-based drugs have a degree of empirical support, 
evidence-based medicine can offer stronger recommendations, classify evidence with its epistemological power, and the need 
for only the strongest categories (from meta-analyzes, systematic reviews, and randomized controlled trials) to weaker types 
(such as from case-control studies) with weak recommendations. This topic will address: Types of scientific research, medical 
research and evidence-based medicine /pharmacy and 4 phrases of clinical research. 
Key words Evidence- based medicine, Evidence- based pharmacy, Clinical trials. 

File đính kèm:

  • pdfy_duoc_hoc_chung_cu_trong_thuc_hanh_y_hoc.pdf