Ðặc điểm nội dung và nghệ thuật kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại
TÓM TẮT:
Từ thập niên cuối thế kỷ XX ñến nay, Thành
phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm
sôi ñộng của văn học kịch và sân khấu kịch
của cả nước. Gắn với hoạt ñộng của sân khấu
kịch nói, trong hơn 20 năm qua, văn học kịch
Thành phố ñã hình thành nên ñội ngũ tác giả
kịch bản chuyên nghiệp, ñưa ñến công chúng
những tác phẩm phản ánh những xung ñột
trong cuộc sống và thế giới nội tâm, nội cảm
của con người Việt Nam giai ñoạn ñổi mới và
hội nhập của ñất nước cũng như ñóng góp
kinh nghiệm cho việc tiếp thu và vận dụng
những thành tựu nghệ thuật xây dựng kịch bản
của kịch nói hiện ñại thế giới, phù hợp với thói
quen tiếp nhận của người Việt.
Bài viết này khái quát ñặc ñiểm nội dung
phản ánh, trong ñó tập trung vào nội dung
xung ñột, và nghệ thuật xây dựng kịch bản trên
phương diện xây dựng cốt truyện, xây dưng
nhân vật, xây dựng ngôn ngữ ñối thoại và vận
dụng thủ pháp nghệ thuật mới của kịch bản
văn học kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh
ñương ñại. Bài viết hy vọng góp thêm vào
những ñánh giá, tổng kết về văn học kịch
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian hơn 20
năm qua ñến nay.
T khóa: kịch bản văn học ñương ñại, văn học kịch ñương ñại, kịch nói ñương ñại, kịch
nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ðặc điểm nội dung và nghệ thuật kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 Trang 96 ðặc ñiểm nội dung và nghệ thuật kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại • Lưu Trung Thủy ðại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh TÓM TẮT: Từ thập niên cuối thế kỷ XX ñến nay, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm sôi ñộng của văn học kịch và sân khấu kịch của cả nước. Gắn với hoạt ñộng của sân khấu kịch nói, trong hơn 20 năm qua, văn học kịch Thành phố ñã hình thành nên ñội ngũ tác giả kịch bản chuyên nghiệp, ñưa ñến công chúng những tác phẩm phản ánh những xung ñột trong cuộc sống và thế giới nội tâm, nội cảm của con người Việt Nam giai ñoạn ñổi mới và hội nhập của ñất nước cũng như ñóng góp kinh nghiệm cho việc tiếp thu và vận dụng những thành tựu nghệ thuật xây dựng kịch bản của kịch nói hiện ñại thế giới, phù hợp với thói quen tiếp nhận của người Việt. Bài viết này khái quát ñặc ñiểm nội dung phản ánh, trong ñó tập trung vào nội dung xung ñột, và nghệ thuật xây dựng kịch bản trên phương diện xây dựng cốt truyện, xây dưng nhân vật, xây dựng ngôn ngữ ñối thoại và vận dụng thủ pháp nghệ thuật mới của kịch bản văn học kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại. Bài viết hy vọng góp thêm vào những ñánh giá, tổng kết về văn học kịch Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian hơn 20 năm qua ñến nay. T khóa: kịch bản văn học ñương ñại, văn học kịch ñương ñại, kịch nói ñương ñại, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại 1. Nội dung xung ñột trong kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại Hơn 20 năm qua, kịch nói cả nước loay hoay tìm giải pháp thoát khỏi khó khăn do thiếu khán giả. Trong bối cảnh ñó, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh chọn hướng ñi thích ứng với thị trường ñể tồn tại và phát triển. Từ sự phát triển của sân khấu kịch nói mà văn học kịch Thành phố Hồ Chí Minh có ñiều kiện phát triển về số lượng tác phẩm, phản ánh những xung ñột ñang ñặt ra trong xã hội, cuộc sống, ñồng thời chuyển tải ñến công chúng những thông ñiệp mang tính chất hướng thiện, khuyến thiện. Ở góc ñộ ñề tài và phạm vi hiện thực, qua khảo sát hơn 60 tác phẩm dành ñược nhiều quan tâm của công chúng thành phố khoảng thập niên cuối thế kỷ XX ñến nay, chúng tôi thấy có thể phân chia ñề tài của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh thành bốn nhóm như sau: - Chính luận. - Lịch sử. - Tình yêu-hôn nhân-gia ñình. - ðạo ñức cá nhân. Có thể số lượng tác phẩm ở các mảng ñề tài có khác nhau nhưng nhìn chung phạm vi hiện thực mà kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm khá rộng. Trong ñó, ñề tài về tình yêu-hôn nhân-gia ñình cùng với ñề tài về ñạo ñức cá nhân là những ñề tài liên quan ñến phạm vi hiện thực của cá nhân chiếm hơn 70% số lượng kịch bản. Xu hướng này của kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại cũng nằm trong xu hướng chung của kịch nói Việt Nam, như nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X1-2016 Trang 97 (trong Phan Cự ðệ (Chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỷ XX: Những vấn ñề lịch sử và lý luận, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, năm 2004) nhận ñịnh về kịch nói sau Hội diễn sân khấu năm 1985: kịch nói Việt Nam sau thời kỳ ñổi mới ñã có một bước chuyển từ kịch thời sự-chính luận sang kịch tâm lý. Từ góc ñộ ñề tài, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh trong hơn 20 năm qua ñã cố gắng ñưa ñến ñộc giả và khán giả bức tranh phong phú về ñời sống của người thành phố nói riêng và vùng Nam bộ nói chung. Cụ thể: Ở mảng ñề tài mang tính chất chính luận, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh tập trung vào một số xung ñột mang tính chất thời sự trong quá trình xây dựng, phát triển và hội nhập của ñất nước như xung ñột trong phát triển kinh tế (tác phẩm Hoa Biển của Lê Bình). Hoa biển phản ánh xung ñột giữa phương thức làm giàu bằng mọi cách và làm giàu một cách bền vững. Hay như xung ñột giữa hội nhập và giữ gìn văn hóa truyền thống (ðất lở của Ngọc Linh, Tình duyên thuở trước của Thanh Hoàng, Biển của Lê Duy Hạnh), giữa văn hóa ứng xử phương ðông và Phương Tây (Dạ cổ Hoài Lang của Thanh Hoàng). Xung ñột về văn hóa ở các tác phẩm kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh chỉ mới dừng lại ở những va chạm, chưa ñến mức gay gắt. ðây cũng là ñiểm ñáng tiếc trong cách ñặt vấn ñề và xử lý của các kịch bản văn học thuộc phạm vi ñề tài này. Bởi vì những biến chuyển trong thời kỳ xây dựng, phát triển và hội nhập của ñất nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng ñang tác ñộng và làm thay ñổi những giá trị văn hóa của ñô thị cũng như nông thôn. Xung ñột về nhận thức và ứng xử giữa các thế hệ trong gia ñình và xã hội, xung ñột giữa giá trị văn hóa cũ và mới, giữa truyền thống và hiện ñại chưa ñược kịch nói ñặt ra, lý giải ñể tạo nên sự chia sẻ, cảm thông giữa thế hệ già và trẻ cũng như bảo vệ những hiện tượng văn hóa tích cực, phê phán những hiện tượng văn hóa tiêu cực hoặc lỗi thời. Ở mảng ñề tài chính luận, kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại cũng phản ánh một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội hiện nay như sự xuống cấp của ñạo ñức xã hội, thói vô trách nhiệm của một số cán bộ công quyền, thói vô cảm như Quả bom ñiếc của Nguyễn Thanh Bình. Còn Người thi hành án tử của Phạm Văn Quý, từ không gian của trại giam, cho thấy thực trạng là phạm pháp, tội ác diễn ra ở hầu hết các tầng lớp xã hội. Bên cạnh ñó, kịch bản văn học thành phố cũng ñề cập ñến những những xung ñột trong ñời sống nghệ thuật của ñất nước như nghệ thuật vị nhân sinh và nghệ thuật vị ñồng tiền trong Những con ma nhà hát (Lê Hoàng), hay giá trị thật và giả trong nghệ thuật trong Ca sĩ ngôi sao (Lê Hoàng). Tác phẩm Những bóng ma nhà hát ñặt ra hàng loạt nghịch lý diễn ra ở một nơi làm nghệ thuật mà những diễn viên tài năng ñã chuyển sang tấu hài, ñóng phim, kiếm tiền bằng cách thi... gameshow. Còn tác phẩm Ca sĩ ngôi sao (Lê Hoàng) phơi bày góc khuất của hoạt ñộng ca nhạc của ñất nước hiện nay. Kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh cũng ñi vào những hiện tượng xã hội liên quan ñến giới trẻ hiện nay như sống thử. Tác phẩm Sống thử của Ngọc Trúc ñề cập ñến xung ñột về lối sống, lối yêu chân thành và ngộ nhận của giới trẻ. Nhìn chung, ở những xung ñột mang tính chất thời sự, chính luận, kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại ñã có gắng tái hiện một số xung ñột mang tính chất thời sự. Nội dung xung ñột, nhìn chung, chỉ mới dừng lại ở ñặt vấn ñề hoặc nên lên hiện tượng chứ tác giả chưa ñi ñến bản chất, chưa thực sự ñặt ra rốt ráo những vấn ñề ñể công chúng nghiền ngẫm và tìm hướng giải quyết. Các nhân vật trong phạm vi xung ñột này cũng hành ñộng một cách chừng mực và tiết chế, chưa quyết liệt. ðây có thể xem là ñiều ñáng tiếc trong mảng ñề tài này của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại. Trong khi ñó, các tác phẩm thuộc ñề tài lịch sử lại phản ánh sắc nét những xung ñột mang tính chất SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 Trang 98 thời sự và ñậm tính chính luận thông qua những giai thoại và nhân vật lịch sử. ðó là xung ñột giữa trách nhiệm với dân, với nước và những toan tính cá nhân trong Bí mật vườn Lệ Chi (Hoàng Hữu ðản); xung ñột giữa sự tự mãn, bất cẩn, chia rẽ với cảnh giác, ñoàn kết trong thời bình trong Nỏ thần (Lê Duy Hạnh); xung ñột giữa quan niệm lấy dân làm gốc với bạo quyền làm gốc trong cai trị ñất nước trong Vương thánh Triều Lê (Lê Duy Hạnh); và xung ñột giữa quan niệm, hành ñộng vì dân với sự tham lam, vị kỷ, vơ vét của dân trong Tả quân Lê Văn Duyệt (Phạm Văn Quý). Chính ở mảng ñề tài lịch sử, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh mới có những tác phẩm tiêu biểu, gây ñược tiếng vang. Thông qua việc tái hiện và làm mới những xung ñột lịch sử, các tác giả ñã ñặt ra và giải quyết thấu ñáo những xung ñột ñang ñặt ra của ñất nước. Sự va chạm, xung ñột ñược thể hiện ñậm nét như tuyến nhân vật Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ với tuyến nhân vật Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh, thái giám Tạ Thanh trong Bí mật vườn Lệ Chi hay giữa Tả quân Lê Văn Duyệt với Phó tổng trấn Gia ðịnh Huỳnh Công Lý trong Tả quân Lê Văn Duyệt. Hành ñộng nhân vật quyết liệt ñể khẳng ñịnh ý chí tự do của mình như nhân vật Lê Thánh Tông trong Vương thánh triều Lê. Nhưng cũng từ việc mượn các câu chuyện lịch sử ñể xây dựng kịch bản, thể hiện quan ñiểm mà ta thấy rằng dường như các tác giả kịch bản chịu một áp lực nhất ñịnh khi tái hiện những xung ñột mang tính chất thời sự, chính luận mà trong báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2011-2015 của Chi hội tác giả kịch bản thuộc Hội sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh gọi là “tự kiểm duyệt bút pháp, tư tưởng”. Ở mảng ñề tài về tình yêu, hôn nhân, gia ñình, kịch bản văn học thành phố thường khai thác hai dạng xung ñột. Thứ nhất là những xung ñột mang tính muôn thuở trong tình yêu, hôn nhân, gia ñình như: tình yêu và sự vị kỷ (Việt võ ñường của Vương Huyền Cơ); tình yêu và sự ghen tuông (Ngôi nhà của những linh hồn, Ngôi nhà thiếu ñàn bà của Ngọc Linh, Người vợ ma của Xuyên Lâm); giá trị thực và giá trị ảo trong tình yêu (Hạnh phúc trên ñồi hoa máu của Mỹ Dung); tình yêu và thù hận (Thử yêu lần nữa của Hoàng Thái Thanh); tình yêu và vật chất (Mèo Hoang của Nguyên Thảo); hạnh phúc ước mơ và hiện thực (Trò chơi của quỷ của Vương Huyền Cơ, Chuyến tàu ñến thiên ñường của Lê Hoàng, Tơ duyên của Minh Hùng). Xu hướng thứ hai là những xung ñột gắn với bối cảnh, tác ñộng của môi trường xã hội như: tình yêu và ñịa vị xã hội (Chưa yêu sao hiểu của Vương Huyền Cơ), tình yêu và sự toan tính (Nếu như yêu của Vương Huyền Cơ), tình yêu và sự dối trá (Trần gian phải có tình yêu của Hoàng Thái Thanh, Mẹ và người tình của Lê Chí Trung). Tính chất giáo dục nhẹ nhàng là ñặc ñiểm nổi bật trong các tác phẩm kịch thuộc mảng ñề tài này. Không chú trọng vào việc ñẩy cao xung ñột, các tác phẩm thuộc ñề tài tình yêu-hôn nhân-gia ñình thường khai thác chủ yếu ở những va chạm, hiểu lầm của các nhân vật ñể hướng tới việc rút ra những bài học nhẹ nhàng về nhận thức và hành vi trong tình yêu-hôn nhân-gia ñình. Ở ñề tài về ñạo ñức cá nhân, các tác phẩm thuộc phạm vi ñề tài về ñạo ñức cá nhân thể hiện các xung ñột ña dạng trong phạm vi ñạo ñức như: giữa cái thiện và cái ác (Họa hồn của Bùi Quốc Bảo, Quả tim máu của Thái Hòa, Hồn ma báo oán của Vương Huyền Cơ); chân thành và giả dối (Sát thủ hai mảnh của Lê Hoàng), Hoàng Oanh của Ngọc Linh), Ba người ñàn ông họ Lôi của Hoàng Thái Thanh-Mỹ Dung); tham vọng và sự lương thiện (Ngôi nhà anh túc của Nguyễn Mạnh Tuấn); giữa ñịnh kiến và vị tha, bao dung (Xóm Gà của Vương Huyền Cơ); giữa thù hận và lòng vị tha (Giếng lạ của Phạn Văn Tân- Huỳnh Anh Tuấn, Trái tim nhảy múa của Nguyễn Thị Minh Ngọc); giữa ñồng tiền và phẩm giá (Chuyện lạ của Lê Duy Hạnh). Xung ñột trong các tác phẩm thuộc mảng ñề tài ñạo ñức cá nhân thường là dạng xung ñột giữa cái thiện và cái ác, giữa tích cực và tiêu cực, cho nên TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X1-2016 Trang 99 diễn ra gay gắt, kịch tính. Xung ñột trong ñề tài này ít nhiều ñược các tác giả ñặt ra và lý giải từ góc ñộ tác ñộng tiêu cực của xã hội lên ñạo ñức, nhân phẩm con người. ða phần xung ñột trong mảng hiện thực này phản ánh những tác ñộng của mặt trái thị trường tác ñộng ñến ñạo ñức, nhân phẩm con người. Hiện thực diễn ra trước mắt khán giả như một sự cảnh tỉnh về những suy thoái ñạo ñức, nhân cách ñang diễn ra trong xã hội. Các tác phẩm truyền ñến khán giả thông ñiệp về giữ gìn nhân phẩm, ñạo ñức trước những cám dỗ của vật chất, danh vọng. ðiều hạn chế là tuy nhìn thấy thực trạng và ảnh hưởng, tác hại của suy thoái ñạo ñức cá nhân ñối với gia ñình, xã hội, quốc gia nhưng nhiều kịch bản chưa lý giải thấu ñáo căn nguyên của sự suy thoái ñó, chưa nhận thấy những nguyên nhân tạo nên suy thoái như từ tác ñộng mặt trái của nền kinh tế thị trường, từ việc chưa gắn chặt giữa phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa, ñạo ñức hay từ việc buông lỏng quản lý và giáo dục văn hóa, ñạo ñức. Việc lý giải chỉ mới dừng lại ở góc ñộ nhận thức và ñộng mang tính chất cá nhân nên còn thiếu sức thuyết phục. Ngoài ra, ở một số tác phẩm, nhất là tác phẩm ñược gọi là kịch kinh dị, kịch tính ñược tạo nên không phải là từ sự va chạm, ñấu tranh của các nhân vật mà từ những thủ pháp tạo nên không khí hồi hộp mang tính chất hoang ñường như hồn ma, những sự kiện ngẫu nhiên kỳ bí trong khi ñó ý nghĩa xã hội của hành ñộng kịch lại không ñược tác giả lý giải thấu ñáo hoặc nêu lên một cách mờ nhạt, khiến cho tác phẩm mang nặng tính chất giải trí và hiệu quả giáo dục, hướng thiện không cao. Có thể thấy rằng, ở góc ñộ ñề tài, tuy phạm vi hiện thực khá rộng nhưng nội dung xung ñột của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại mới chỉ dừng ở góc ñộ phản ánh và khơi gợi tình cảm cho công chúng. Không nhiều kịch bản ñặt ra cho công chúng những vấn ñề cần suy nghĩ và ñề xuất hướng giải quyết những vướng mắc trong cuộc sống hôm nay của người dân Thành phố và vùng Nam bộ. Thiếu tính vấn ñề, thiếu những xung ñột ñược xây dựng ñầy ñặn nên kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh chưa thực sự thể hiện rõ nét vai trò tiên phong, nhạy cảm trước thời cuộc. Ở góc ñộ loại xung ñột, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại khai thác cả xung ñột bên trong lẫn xung ñột bên ngoài nhưng chủ yếu vẫn sử dụng xung ñột bên ngoài thể hiện qua xung ñột giữa tính cách với tính cách, ví dụ như: giữa lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi với sự vị kỷ của Nguyễn Thị Anh trong Bí mật vườn Lệ Chi (Hoàng Hữu ðản); giữa trung nghĩa của Nhan Tấn và xảo quyệt của Cao Thục trong Nỏ thần (Lê Duy Hạnh); giữa nhận thức lấy dân làm gốc của Lê Thánh Tông với nhận thức lấy vương quyền làm gốc của Lê Nguyễn Quốc Công trong Vương thánh Triều Lê (Lê Duy Hạnh). Các xung ñột bên ngoài ñều là sự va chạm của các tính cách ñối lập nhau chứ không thấy có xung ñột giữa tính cách với hoàn cảnh hoặc xã hội cho nên cảm hứng chủ ñạo của phần lớn các tác phẩm hoặc là khẳng ñịnh tính tích cực của cá nhân trong việc cải tạo hoàn cảnh, cải tạo bản thân hoặc biểu hiện với cảm hứng hài hước chứ không mang màu sắc bi quan. Vì vậy có thể hiểu tại sao kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại phần lớn sử dụng thể loại chính kịch và thể loại hài kịch. Kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh thiên về xu hướng sử dụng một xung ñột xuyên suốt tác phẩm. Ít khi xây dựng dựa trên nhiều xung ñột chồng chéo, phức tạp. Bên cạnh những nguyên nhân như ñảm bảo sự thống nhất hành ñộng, tâm lý tiếp nhận của khán giả thì chúng tôi cho rằng hoạt ñộng biểu diễn cũng là yếu tố chi phối quan trọng. Hiện nay, các sân khấu kịch của Thành phố Hồ Chí Minh ñều là những sân khấu vừa hoặc nhỏ, quy mô khán giả khoảng chừng 300-500 người/suất diễn. Cho nên các sân khấu kịch thường chọn những kịch bản vừa vặn, số ... o Bích Hồng trong những tình huống khác nhau. ðây cũng là kiểu sáng tác kịch bản nhiều tập ñộc ñáo. Thử yêu lần nữa khai thác niềm day dứt giữa lòng hận thù và khát vọng yêu thương của nhân vật Thôi Hồng Phấn khi gặp cô giáo Bích Hồng. Màu của tình yêu khai thác nội tâm của hai nhân vật này khi người vợ cũ quay trở về trước thềm ñám cưới của họ. Và Cảm ơn mình ñã yêu em khai thác nội tâm của hai nhân vật trước ngưỡng cửa của cái chết, chia lìa họ. Các kịch bản dòng kịch tâm lý giúp diễn viên thể hiện chiều sâu diễn xuất của mình và làm nên phong cách riêng của tác giả Hoàng Thái Thanh cũng như sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh. Lê Hoàng có lẽ là tác giả có nhiều kịch bản sáng tác theo xu hướng nghệ thuật phi truyền thống nhất. Ở góc ñộ xây dựng nhân vật, nhân vật trong kịch của Lê Hoàng ñược xây dựng theo hướng biểu trưng, biểu tượng hơn là tính cách. Tiêu biểu như nhân vật người chủ cửa hàng trong tác phẩm Lùng người trong mộng của Lê Hoàng. Nhân vật này lúc ñầu xuất hiện là một con người bình thường nhưng về sau lại ñược các nhân vật nữ lắp ghép thành các nhân vật khác. Ngoài ra có thể kể ñến nhân vật Miên Tâm trong Ngôi nhà anh túc của Nguyễn Mạnh Tuấn. Nhân vật Miên Tâm ám chỉ bóng ñêm, những góc khuất trong lòng người. Và nếu ta thỏa hiệp với nhân vật ñấy thì từng chút, từng chút một, nhân vật ñấy sẽ dẫn ta ñến con ñường xa ngã. Ngoài ra, nhân vật dàn ñồng ca trong kịch bản Người ñàn bà thất lạc của Nguyễn Thị Minh Ngọc cũng là một nét mới trong xây dựng nhân vật của kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại. Nhân vật này vừa ñóng vai trò bình phẩm như trong sân khấu truyền thống Việt Nam nhưng ñồng thời ñóng vai trò dẫn dắt và thúc ñẩy mạch kịch vận ñộng ở một kịch bản mà xung ñột kịch không hiện trên bề nổi thông qua sự ñối kháng giữa tính cách nhân vật. Nhân vật giàn ñồng ca còn là một kiểu nhân vật biểu trưng, ñại diện cho tập thể những người phụ nữ Việt Nam. Mặc dù số lượng kịch bản thời gian qua khá lớn, kiểu, loại nhân vật ñược thể hiện trong kịch bản phong phú nhưng kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại chưa có nhiều hình tượng nhân vật lưu dấu sâu ñậm trong tâm trí của ñộc giả cũng như khán giả. Lý do có thể bắt nguồn từ phần lớn nội dung kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñi vào những xung ñột mang tính chất cá nhân hoặc sinh hoạt ñời sống, không nhiều các tác phẩm khai thác những xung ñột mang tính chất xã hội, thể hiện tính chính luận, tư tưởng sắc bén cho nên thiếu những nhân vật trung tâm thể hiện sức khái quát hóa và ñiển hình hóa ñặc trưng của thời xây dựng, phát triển và hội nhập của thành phố và ñất nước. Ngoài ra, khi ñi vào các ñề tài có nội dung gắn với bối cảnh ñất nước hiện nay, kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại thường theo khuynh hướng kịch hiện thực phê phán. Các nhân vật ñại diện cho tiêu cực trong xã hội ñược ñiển hình hóa trong khi nhân vật tích cực thì lại chưa ñược xây dựng ñúng tầm, ñôi khi tác giả xử lý hành ñộng của nhân vật tích cực mang tính chất gượng ép, chưa hợp lý và thiếu sức thuyết phục. Kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại ñang thiếu những nhân vật kết tinh ñậm nét và mang hơi thở của thời ñại xây dựng, phát triển và hội nhập của thành phố và ñất nước, thiếu những người “anh hùng” của thời cuộc. Cuối cùng, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại vẫn còn nhiều kịch bản mà các nhân vật chủ yếu thể hiện vai trò chức năng, ñại diện cho hai thái cực tốt-xấu, tích cực-tiêu cực mang tính chất giáo dục tình cảm, ñạo ñức hơn là thể hiện ñược những tính cách sinh ñộng, có chiều sâu, với sức khái quát mang tính chất xã hội. Nguyên nhân này thuộc về trình ñộ sáng tác của tác giả kịch bản. Các nhân vật ñược xây dựng theo nguyên tắc sáng tác hiện thực nhưng chất liệu, cơ sở của hiện thực nội dung và hiện thực tâm lý nhân vật chưa chắc chắn và nhuần nhuyễn. Cốt truyện chưa xây dựng ñược những sự kiện, biến cố mang tính logic, phù hợp với TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X1-2016 Trang 107 tích cách và sự phát triển của nhân vật. Cho nên hành ñộng của nhân vật trước các sự kiện, biến cố mang tính chất khiên cưỡng, không làm bật lên tính cách nhân vật cũng như tính hợp lý về sự tự do ý chí và hành ñộng của nhân vật. 2.3. Xây dựng ngôn ngữ ñối thoại Ở nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ, ngôn ngữ ñối thoại của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại phần lớn vẫn mang những ñặc ñiểm chung của ngôn ngữ kịch nói Việt Nam hiện ñại. Ngôn ngữ ñối thoại của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh là ngôn ngữ thể hiện hành ñộng và tính cách nhân vật. Ngôn ngữ hành ñộng ñược thể hiện bằng tranh luận, tấn công, truy vấn, thuyết phục, cầu khẩn, ñe dọa giữa các nhân vật với nhau Tính logic của hành ñộng nhân vật cũng thể hiện qua tính logic trong ngôn ngữ ñối thoại giữa các nhân vật. Không có vai trò dẫn dắt của tác giả như trong thể loại văn học tự sự, những gì thuộc về nhân vật ñược bộc lộ bằng chính ngôn ngữ ñối thoại của nhân vật ñó. Ngôn ngữ ñối thoại giúp ñộc giả hiểu ñược suy nghĩ, quan ñiểm của nhân vật. Thông qua ngôn ngữ ñối thoại, tính cách nhân vật ñược bộc lộ, phơi bày. Bên cạnh ñó, ñiểm ñặc sắc trong ngôn ngữ kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại là ngôn ngữ ñối thoại miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật theo hình tượng con người Nam bộ. Việc khắc hóa tính cách Nam bộ ñược thể hiện thông qua lối khẩu ngữ Nam bộ, sử dụng lối nói và phương ngữ Nam bộ. Xây dựng ngôn ngữ ñối thoại của nhân vật theo lối khẩu ngữ Nam bộ góp phần vừa khắc họa tính cách nhân vật, phù hợp với bối cảnh ñặt ra trong kịch bản vừa góp phần làm nên tính chất ñặc sắc của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh so với các ñịa phương khác của cả nước. Bên cạnh ñó, ngôn ngữ ñối thoại của nhân vật kịch Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại ña phần ñều là dạng ngôn ngữ hồn nhiên, chất phác. Nhìn chung, ngôn ngữ ñối thoại của nhân vật trong kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ít bóng bảy, ẩn ý hay cao giọng lý luận, triết lý. ðây là phong cách ngôn ngữ nhân vật không chỉ riêng kịch nói mà có lẽ là phong cách truyền thống của các nhân vật trong văn học Nam bộ từ các tác phẩm văn xuôi hoặc kịch nói ñầu thế kỷ XX của Nam bộ cho ñến nay. Ngôn ngữ nhân vật này là phản chiếu phong cách ngôn ngữ và tư duy của người Việt vùng Nam bộ. ðiều này vừa góp phần ñưa kịch nói gần gũi với ñộc giả, khán giả Nam bộ vừa cá tính hóa nhân vật kịch trong thể hiện bối cảnh ñời sống, xã hội, văn hóa và con người vùng Nam bộ. 2.4. Những ñiểm mới trong thủ pháp nghệ thuật Về mặt thủ pháp nghệ thuật, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại bước ñầu ñã tiếp thu và vận dụng những thủ pháp nghệ thuật của kịch nói hiện ñại thế giới vào xây dựng tác phẩm. Có thể kể ñến các tác phẩm vận dụng thành công những thủ pháp mới như : Thủ pháp về giấc mơ ñược Hoàng Hữu ðản vận dụng trong tác phẩm Bí mật vườn lệ chi thông qua giấc mơ của hoàng hậu Nguyễn Thị Anh. Hoặc giấc mơ của bà Hậu và cuộc ñối thoại của bà với bóng trắng trong Ngôi nhà không có ñàn ông của Ngọc Linh. Thủ pháp gián cách ñược Việt Linh vận dụng trong tác phẩm Thiên Thiên, với vai trò dẫn dắt và xâu nối cốt truyện của nhân vật Thiên thiên. Hay trong kịch bản Người ñàn bà thất lạc của Nguyễn Thị Minh Ngọc, với vai trò dẫn dắt của nhân vật dàn ñồng ca. Thủ pháp ñồng hiện về không gian ñược Ngọc Linh vận dụng sáng tạo trong tác phẩm Ngôi nhà thiếu ñàn bà. Hai tuyến nhân vật tồn tại ở hai thế giới khác nhau: thế giới của người sống và thế giới của người chết. Nhân vật ở hai không gian này tuy không ñối thoại trực tiếp với nhau nhưng cùng song song tồn tại và quan sát lẫn nhau. Trong khi ñó, thủ pháp ñồng hiện về thời gian ñược Nguyễn Thị Minh Ngọc sử dụng sáng tạo trong Người ñàn bà thất lạc. Ở tác phẩm, nhân vật SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 Trang 108 người chồng và những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử, truyền thuyết và văn học khác nhau về thời gian nhưng họ cùng xuất hiện và ñối thoại với nhau. Bên cạnh ñó, kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại cũng có những tác phẩm xây dựng kiểu nhân vật mang tính biểu trưng như ñặt tên các nhân vật là trắng, xanh, vàng, ñỏ trong tác phẩm Lùng người trong mộng của Lê Hoàng hay nhân vật Miên Tâm trong tác phẩm Ngôi nhà anh túc của Trần Mạnh Tuấn. Nhìn chung, một số ñiểm mới trong thủ pháp xây dựng kịch bản văn học thế giới hiện ñại ñã ñược một số tác giả kịch bản thành phố tiếp thu và vận dụng sáng tạo trong ñiều kiện cụ thể của kịch nói Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh, phù hợp với thói quen tiếp nhận của công chúng. Và trong tình hình của văn học kịch Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cần tạo ñiều kiện cho những kịch bản văn học theo xu hướng ñổi mới nghệ thuật ñến với công chúng, ñồng thời trở thành xu hướng chủ ñạo nhằm thúc ñẩy tiến trình phát triển của kịch nói chứ không chỉ dừng lại ở việc xây dựng tác phẩm mới lạ nhằm thu hút khán giả ñến với sân khấu. Bởi lịch sử kịch nói thế giới ñã chứng minh rằng nếu không có sự ñổi mới từ kịch bản văn học gồm cả nội dung và nghệ thuật thể hiện thì sẽ rất khó có những ñổi mới trong nghệ thuật dàn dựng và trình diễn kịch. 3. Kết luận Trong hơn 20 năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những ñịa phương, không muốn nói là duy nhất của cả nước, có hoạt ñộng sáng tác kịch bản và biểu diễn kịch nói sôi ñộng. Có thể còn những ý kiến khác nhau về sự chưa ñồng ñều về chất lượng nghệ thuật của kịch bản văn học, vở diễn và cả cách thức tổ chức hoạt ñộng của kịch nói thành phố nhưng có một ñiều không thể phủ nhận là với tâm huyết của ñội ngũ tác giả kịch bản, ñạo diễn, diễn viên và các nghệ sĩ có liên quan, thể loại văn học và sân khấu này ñã tồn tại và phát triển tại thành phố trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước. Và chắc chắn, nếu ñề cập ñến những ñặc ñiểm, thành tựu của kịch nói Việt Nam thời gian qua, với tư cách là một thể loại văn học, mà không nhắc ñến những ñóng góp trong việc duy trì và phát triển ñội ngũ sáng tác kịch bản cũng như nội dung phản ánh và những ñiểm ñổi mới về mặt nghệ thuật của kịch nói bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ñương ñại thì quả là một thiếu sót. Thời gian vừa qua, văn học kịch Thành phố Hồ Chí Minh ñã tiến những bước mạnh về lực lượng sáng tác, số lượng kịch bản. Nhưng nhìn tổng thể, nỗ lực ñổi mới chưa trở thành xu hướng chủ ñạo. Kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh ñang hiếm những kịch bản văn học mang chiều sâu tư duy, mới lạ về ñiểm nhìn và nghệ thuật thể hiện. Mà kịch bản văn học với tư cách là khâu ñầu tiên, quan trọng của toàn bộ quy trình sáng tạo vở diễn cần phải thay ñổi và ñổi mới trước tiên. Cho nên cần thiết phải có những hỗ trợ cho những tác giả, kịch bản mạnh dạn ñổi mới. Hiện nay những kịch bản cách tân vẫn còn bị khuất lấp bởi những kịch bản sáng tác theo lối mòn, công thức. ðổi mới phải gồm cả về nội dung và nghệ thuật xây dựng kịch bản, ñổi mới về tư duy tuyển chọn, sử dụng kịch bản và cả cách thức ứng xử với tác giả, tác phẩm từ chính các sân khấu kịch nói của thành phố. ðổi mới phải tiếp tục ñược khuyến khích, tạo ñiều kiện và phải trở thành xu hướng chủ ñạo. Cuối cùng, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có thể tiếp tục phát triển vững chắc khi nỗ lực ñổi mới phải diễn ra cùng lúc, cùng chiều ở cả hai phương diện: văn học kịch và sân khấu kịch. Bởi sẽ khó có một nền sân khấu kịch phát triển nếu không có một nền văn học kịch phát triển và ngược lại. Riêng ở góc ñộ văn học, bên cạnh việc nâng cao lực lượng sáng tác kịch bản, văn học kịch Thành phố ñang cần một sự quan tâm ñúng mức của giới phê bình và nghiên cứu văn học. TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X1-2016 Trang 109 The features of content and playwriting art in Ho Chi Minh City’s contemporary play • Luu Trung Thuy Vietnam National University - Ho Chi Minh City ABSTRACT: Since the last decade of the twentieth century, Ho Chi Minh City has become one of the Vietnamese lively dramatic literature and theater centers. During the past twenty years, together with dramatic theater, Ho Chi Minh City’s dramatic literature has built up a professional playwriter force, providing audiences plays which reflect the conflicts between human’s life in the time of Vietnam’s reformation and integration. Besides, these plays have contributed experiences in acquiring and applying the world modern playwriting techniques to suit Vietnamese’s drama reception habits. This paper generally provides content feature (focus on conflicts) and playwriting art feature (focus on plots, characteristics, dialogue language construction and the acquirement of new art techniques in Ho Chi Minh City’s contemporary literary scripts), contributing to the evaluation and summary of Ho Chi Minh City’s dramatic literature during the past. Keywords: drama, Contemporary Vietnamese play, Contemporary Vietnamese drama, Contemporary Ho Chi Minh City play, Contemporary Ho Chi Minh City drama TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Annette J.Saddik (2007), Contemporary American drama, Edinburgh University Press, Edinburgh. [2]. David Krasner (2012), A history of modern drama, Wiley-Blackwell, Oxford. [3]. Trần Trọng ðăng ðàn (2004), Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. [4]. Trần Trọng ðăng ðàn (2011), Kịch Việt Nam: thưởng thức và bình luận, Nhà xuất bản Văn hóa-Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. [5]. Phan Cự ðệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX: Những vấn ñề lịch sử và lý luận, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [6]. John Howard Lawson (1960), Theory and technique of playwriting, Hill and Wang, New York. [7]. Marvin Carlson (1993), Theories of the theatre: a historical and critical survey, from the Greeks to the present, Cornell University Press, New York. [8]. Oscar G.Brockett, Robert Findlay (1991), Century of innovation: A history of European and American theatre and drama since the late nineteenth century, Allyn and Bacon, Massachusetts. [9]. ðình Quang, “Kịch nói giai ñoạn từ sau Cách mạng tháng Tám ñến nay”, Tạp chí Văn học, số 7, tr.3-12 (2001). SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 Trang 110 [10]. ðình Quang, “ðiểm qua phương pháp sáng tạo của sân khấu phương Tây”, Tạp chí sân khấu, số tháng 10, tháng 11, tr.56-59 (2012). [11]. Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Sân khấu và tôi, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội. [12]. Nguyễn Văn Thành (2008), Kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh một chặng ñường lịch sử, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội. [13]. Tất Thắng (1996), Diện mạo sân khấu: nghệ sĩ và tác phẩm, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội. [14]. Viện sân khấu (1995), 20 năm sân khấu Việt Nam (1975-1995), Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội.
File đính kèm:
- ac_diem_noi_dung_va_nghe_thuat_kich_ban_van_hoc_thanh_pho_ho.pdf