Cập nhật về viêm não màng não tiên phát và viêm não màng não dạng u hạt do ký sinh trùng naegleria fowleri và acanthamoeba

Đặt vấn đề: Viêm não màng não do amip là một nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương rất hiếm gặp và

thường xuất hiện rải rác, do tác nhân các amip sống tự do, đặc biệt Naegleria fowleri và Balamuthia

mandrillaris, cũng như loài Acanthamoeba và Sappinia(4).

Khía cạnh lâm sàng: Điển hình, N. fowleri gây ra các ca viêm não màng não do amip tiên phát (primary

amebic meningoencephalitis_PAM) và các loài amip khác gây viêm não dạng u hạt (granulomatous amebic

encephalitis_GAE) mà lâm sàng khó có thể phân biệt với viêm não màng não do virus hoặc vi khuẩn và hầu như các ca đều tử vong. Tại Việt Nam, gần đây trong Hội thảo về các bệnh nhiễm trùng đang nổi có báo cáo hai ca bệnh (1 bệnh nhân nam 23 tuổi và 1 trẻ em 6 tuổi).

Kết luận: Nhân đây, chúng tôi mong muốn tổng hợp và cập nhật thông tin về bệnh lý mới viêm não màng

não do tác nhân amip, như một mối đe dọa mới đang nhiễm ở loài người

pdf 7 trang dienloan 4800
Bạn đang xem tài liệu "Cập nhật về viêm não màng não tiên phát và viêm não màng não dạng u hạt do ký sinh trùng naegleria fowleri và acanthamoeba", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cập nhật về viêm não màng não tiên phát và viêm não màng não dạng u hạt do ký sinh trùng naegleria fowleri và acanthamoeba

Cập nhật về viêm não màng não tiên phát và viêm não màng não dạng u hạt do ký sinh trùng naegleria fowleri và acanthamoeba
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  533
CẬP NHẬT VỀ VIÊM NÃO MÀNG NÃO TIÊN PHÁT VÀ VIÊM NÃO  
MÀNG NÃO DẠNG U HẠT DO KÝ SINH TRÙNG  
NAEGLERIA FOWLERI VÀ ACANTHAMOEBA 
Nguyễn Văn Chương*, Huỳnh Hồng Quang* 
TÓMTẮT 
Đặt vấn đề: Viêm não màng não do amip là một nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương rất hiếm gặp và 
thường  xuất  hiện  rải  rác,  do  tác  nhân  các  amip  sống  tự  do,  đặc  biệt  Naegleria  fowleri  và  Balamuthia 
mandrillaris, cũng như loài Acanthamoeba và Sappinia(4).  
Khía cạnh lâm sàng: Điển hình, N. fowleri gây ra các ca viêm não màng não do amip tiên phát (primary 
amebic meningoencephalitis_PAM)  và  các  loài  amip  khác  gây  viêm  não  dạng  u  hạt  (granulomatous  amebic 
encephalitis_GAE) mà lâm sàng khó có thể phân biệt với viêm não màng não do virus hoặc vi khuẩn và hầu như 
các ca đều tử vong. Tại Việt Nam, gần đây trong Hội thảo về các bệnh nhiễm trùng đang nổi có báo cáo hai ca 
bệnh (1 bệnh nhân nam 23 tuổi và 1 trẻ em 6 tuổi).  
Kết luận: Nhân đây, chúng tôi mong muốn tổng hợp và cập nhật thông tin về bệnh lý mới viêm não màng 
não do tác nhân amip, như một mối đe dọa mới đang nhiễm ở loài người.  
Từ khóa: Naegleria fowleri, Acanthamoeba, viêm não màng não do amip  
ABSTRACT 
UPDATE OF PRIMARY AMEBIC MENINGOENCEPHALITIS (PAM) AND GRANULOMATOUS 
AMEBIC ENCEPHALITIS (GAE)DUE TO NAEGLERIA FOWLERI AND ACANTHAMOEBA 
Nguyen Van Chuong, Huynh Hong Quang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 533 – 539 
Backgrounds: Amebic meningoencephalitis, an extremely rare and sporadic central nervous system (CNS) 
infection,  is  caused  by  free‐living  amoebae;  specifically,  Naegleria  fowleri  and  Balamuthia  mandrillaris, 
Acanthamoeba, and Sappinia(4).  
Clinical  aspects:  Typically, N.  fowleri  causes  primary  amebic meningoencephalitis  (PAM),  and  other 
amoebae  cause granulomatous amebic  encephalitis  (GAE), which are  clinically  indistinguishable  from viral or 
bacterial meningitis,  and most  of  infected  cases  are  consequently  dead.  In Vietnam,  recently  two  reports  in 
National Emerging  Infectious Diseases Symposium  (2013)    confirmed  the  amebic meningoencephalitis  in  one 
adult man (23 year old) and one 6 year old child. 
Conclusion:  Here,  we  would  like  to  review  and  update  generally  on  informations  related  to  amebic 
meningoencephalitis as a new infectious threaten in human beings. 
Key words: Naegleria fowleri, Acanthamoeba, Amebic meningoencephalitis  
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC 
Trên thế giới 
Mặc dù  là bệnh hiếm,  song ngày  càng  có 
nhiều ca PAM và GAE được báo cáo khắp thế 
giới,  cho  thấy  tính  chất  có mặt  khắp  nơi  của 
loài sinh vật này. Hơn 125 ca Balamuthia GAE 
báo  cáo  kể  từ năm  1975. Hầu hết báo  cáo  từ 
Mỹ, Úc,  châu Âu, mặc dù  điều này  có nhiều 
nơi nữa song chưa đầy đủ do việc xác định và 
* Viện Sốt rét KST‐CT Quy Nhơn 
Tác giả liên lạc: TS. Huỳnh Hồng Quang     ĐT: 0905103496  Email: huynhquangimpe@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 534 
sai  số  trong báo  cáo và gần  đây nhiễm  trùng 
loại  Balamuthia  tại  Nam  Mỹ  đang  gia  tăng. 
Ngoài  ra,  có một  sự  nổi  trội  về  số  ca  tại  các 
vùng có thời tiết ấm hơn và trong các mùa ấm 
hơn của năm. PAM và GAE là rất hiếm nhưng 
vẫn  tiếp  tục  ghi  nhận  qua  dữ  liệu,  PAM 
thường gặp ở các vùng ấm hơn và vào những 
tháng ấm trong năm như mùa xuân và hè. Tuy 
nhiên,  nó  cũng  được  ghi  nhận  tại  vùng  phía 
bắc  của Minnesota.  Khoảng  60  ca  Balamuthia 
GAE được báo cáo kể từ năm 1975(1). 
Tại Việt Nam 
Với số  liệu còn hạn hữu với 2 ca viêm mão 
màng não doN.  fowleri ghi nhận vào năm  2012 
trên một thanh niên 23 tuổi và một trẻ em 6 tuổi. 
Vì sự phát hiện và xác định còn khó khăn về kỹ 
thuật xét nghiệm cũng như hình  ảnh  lâm sàng 
trùng lắp nên có thể một số ca tử vong do viêm 
não màng não trước đây là chưa thể loại trừ.   
Giới tính và nhóm tuổi 
Tỷ  lệ mắc  nam  ‐  nữ  của PAM  là  2:1;  tỷ  lệ 
nam ‐ nữ của GAE là 5:1. Bệnh lý PAM đã được 
báo cáo trên các em nhỏ chừng 4 tháng tuổi. Mặc 
dù mọi  lứa  tuổi  bệnh  nhân  đều  có  thể  bị  ảnh 
hưởng  bởi  GAE,  song  loại  nhiễm  trùng  này 
dường như xảy ra thường hơn ở các cá nhân tuổi 
lớn hơn(1). Tiền sử bệnh hiếm khi giúp phân biệt 
viêm  não màng  não  do  amip(1)  với  các  bệnh 
nhiễm trùng hệ TKTU khác. 
Viêm  não  màng  não  do  amip  tiên  phát 
(PAM) 
Triệu  chứng  của  PAM  bao  gồm  sốt,  nhức 
đầu,  sợ  ánh  sáng,  cứng  cổ,  buồn  nôn  và  nôn 
mửa. Một số triệu chứng khác có thể gặp như lú 
lẫn, lẫn lộn, buồn ngủ bất thường, co giật và hôn 
mê. Nhiễm trùng có thể tiến triển nhanh chóng. 
Một  số  đặc  điểm  khác  của  PAM  có  thể  ảnh 
hưởng trên các trẻ em và người trẻ tuổi mà trước 
đó hoàn  toàn khỏe mạnh, bệnh  xảy  ra  thường 
gặp trong suốt các tháng có thời tiết ấm hơn của 
năm. Các bệnh nhân có PAM có  thể có  tiền sử 
bơi  lội,  tắm  hoặc  chơi  đùa  trong  nguồn  nước 
đọng ao hồ có nhiệt độ ấm trong vài ngày hoặc 2 
tuần  trước  đó,  hiếm  hơn,  các  bệnh  nhân mắc 
PAM có  thể biểu hiện  rối  loạn vị giác và khứu 
giác. Hầu như các triệu chứng của PAM khó có 
thể phân biệt với các bệnh lý viêm não màng não 
cấp do vi khuẩn. Thời đầu cấp tính của bệnh lý 
PAM  xảy  ra  trong  thời  gian  vào  giờ  đến  1‐2 
ngày. 
Viêm não do amip dạng u hạt (GAE) 
GAE phải được chẩn đoán phân biệt với các 
abces não hoặc khối u và nhiễm trùng hay viêm 
màng não mạn  tính. Triệu chứng  lâm sàng của 
GAE gồm có sốt vừa và các dấu hiệu thần kinh 
khu trú như  liệt thần kinh sọ não,  liệt nửa thân 
mình,  thất điều, chứng mất ngôn ngữ, song  thị 
và động kinh. Các bệnh nhân mắc GAE cũng có 
thể biểu hiện thay đổi hành vi, cứng cổ, dấu tăng 
áp  lực sọ não,  trạng  thái sững sờ hoặc hôn mê. 
Đôi  khi  diễn  tiến  bệnh  khác  nhau  trên  các  ca 
sống sót  trong vài  tuần đến vài  tháng. Các đặc 
điểm của GAE cũng gồm các dấu hiệu sau: GAE 
ảnh hưởng  trên các bệnh nhân nhóm  tuổi khác 
nhau, dù cho tuổi rất nhỏ hoặc rất cao tuổi cũng 
mắc. Những người suy giảm miễn dịch hoặc suy 
nhược  cơ  thể  có  thể  dễ mắc  với GAE,  nhiễm 
trùng xảy ra quanh năm vì tác nhân gây bệnh có 
mặt khắp nơi. Các đối tượng bị GAE có thể viêm 
kết – giác mạc hay loét hoặc tổn thương da. Biểu 
hiện  bệnh  lý  bán  cấp  hay  mạn  tính,  kéo  dài 
nhiều ngày đến nhiều tuần. 
BỆNH SINH 
Viêm  não màng  não  tiên  pháp  do  amip 
(Primary amebic meningoencephalitis) 
Mặc dù có mặt ở khắp nơi trong đất và môi 
trường,  song  N.  fowleri  cũng  có  thể  tìm  thấy 
trong  nước  ấm,  đặc  biệt  nếu  nước  đọng. Việc 
phơi nhiễm với các amip là rất thường xuyên và 
phổ  biến.  Các  trẻ  em  dưới  2  tuổi mang mầm 
bệnh mà không có triệu chứng trong mũi và hầu 
họng của chúng,  đặc biệt các  tháng có  thời  tiết 
ấm hơn.  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  535
PAM là một hậu quả khác thường do sự xâm 
nhập vào hệ  thần kinh  trung ương  (TKTU) của 
các đối tượng khỏe mạnh do tác nhân N. fowleri. 
Trong  suốt một giai  đoạn vài ngày  đến 2  tuần 
sau khi bơi, lặn, tắm hay chơi trong nguồn nước 
sông  hồ  đọng,  loại N.  fowleri  di  chuyển  thông 
qua vách xoang nhiều lỗ, đi dọc theo phần thon 
dài của khứu giác và mạch máu và đi vào trong 
phần  trước  hỗ  não,  ở  đó  chúng  gây  thêm  các 
vùng viêm lan rộng, hoai tử và xuất huyết(2).  
Một số báo cáo đã chi tiết các ca nhiễm trùng 
hiếm gặp sau khi rửa ráy khiến cho nước vòi vào 
trong hai lỗ mũi. Tương tự, quá trình rửa các lỗ 
xoang  bằng  vòi  nước  nhiễm  bệnh  thông  qua 
dùng các ấm bình, lọ cũng dẫn đến hâu quả của 
PAM.  
Viêm  não  dạng  u  hạt  do  amip 
(Granulomatous amebic encephalitis) 
Ngược với bệnh cảnh PAM, GAE hình như 
dẫn  đến  từ  viêm  kết  mạc  ‐  giác  mạc  do 
acanthamebic,  thông qua một hiện  tượng không 
phổ biến mà trong đó các amip lan rộng từ giác 
mạc vào đến hệ thần kinh trung ương hoặc  lan 
rộng theo đường máu mà amip có mặt khắp nơi 
gây nên GAE (loài B mandrillaris và Acanthamoeba 
và Sappinia) từ các vị trí tiêm trên da hoặc đường 
vào từ phổi đến hệ TKTU, ở đó các khối abces và 
nhiễm trùng dạng u hạt tại chỗ hình thành. Các 
nhiễm  trùng  này  thường  xảy  ra  trên  các  đối 
tượng  bị  suy nhược/suy  giảm miễn dịch;  song 
GAE(4) cũng có thể tác động trên các đối tượng 
khỏe mạnh.  
LÂM SÀNG  
Khám thực thể hiếm khi giúp cho thầy thuốc 
phân biệt viêm não màng não do amip với các 
bệnh lý trên hệ thần kinh trung ương. Các thăm 
khám chuyên khoa thần kinh nên đưa ra.  
Viêm  não  màng  não  do  amip  tiên  phát 
(PAM) 
Các  bệnh  nhân  khai  có  thay  đổi  hay  bất 
thường về vị giác và khứu giác. Các dấu chứng 
khác của PAM gồm có sốt, sợ ánh sáng, cứng cổ, 
rối  loạn tâm thần và động kinh, co giật. Nhiễm 
trùng dạng PAM có  thể  tiến  triển nhanh chóng 
khi có bằng chứng tăng áp lực sọ não và thoát vị 
não. Hiếm hơn, viêm cơ tim cũng có thể xảy ra, 
mặc dù amip không có mặt ở trong cơ tim.  
Viêm não do amip dạng hạt (GAE) 
Các  ca mắc GAE  có  thể  có  sốt nhẹ,  sợ ánh 
sáng hoặc cứng cổ. Khám bệnh có thể phát hiện 
liệt  dây  thần  kinh  sọ  não,  liệt  nửa  người, mất 
ngôn ngữ, thất điều hoặc song thị hoặc các cơn 
động kinh cục bộ. Các ca mắc GAE có  thể biểu 
hiện triệu chứng tăng áp  lực sọ não và  thoát vị 
não. Viêm giác mạc – kết mạc trên các ca mang 
kính sát  tròng hoặc  tổn  thương da có  thể hiếm 
khi xảy ra.  
Sự cân nhắc về chẩn đoán(2,3) 
Các  tình  trạng  hoặc  bệnh  lý  cần  cân  nhắc 
trong chẩn đoán phân biệt viêm não màng não 
do amip với các bệnh sau:  
‐ Bệnh lý não do Angiostrongylus cantonensis; 
‐ Bệnh lý não do Baylisascaris procyonis; 
‐ Abces não do các tác nhân vi khuẩn, virus; 
‐ Nấm Cryptococcus neoformans; 
‐ Bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae 
‐ Viêm não do nhiều nguyên nhân; 
‐ Xuất huyết nội sọ; 
‐ Bệnh do Sappinia diploidea; 
‐ Bệnh do Sappinia pedata; 
‐ Viêm màng não vô trùng; 
‐ Viêm não não do vi khuẩn; 
‐ U nguyên bào tủy; 
‐ Nhiễm trùng do não mô cầu; 
‐ Bệnh lý mô liên kết hỗn hợp; 
‐  Nhiễm  trùng  nấm  thuộc  nhóm 
Mucoromycotina ở não; 
‐ Bệnh lý ấu trùng sán dây lợn thể thần kinh; 
‐ Xuất huyết ngoại vi não  thất  / xuất huyết 
nội não thất; 
‐  Viêm  đa  động  mạch  nút  hay  bệnh 
Kussmaul‐Maier; 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 536 
‐ Bệnh dại; 
‐ Nhiễm trùng sán dây Taenia spp. 
‐ Bệnh do Toxoplasma gondii; 
‐ Bệnh lao màng não; 
Chẩn đoán phân biệt 
Bệnh do amip;  
Bệnh u tế bào hình sao;  
Bệnh mèo quào (Catscratch); 
Bệnh Coccidioidomycosis 
U sọ hầu 
Bệnh do sán Echinococcosis 
Bệnh do ấu trùng giun đầu gai Gnathostoma 
spinigerum; 
Bệnh  thần  kinh  trung  ương  do  nấm 
Histoplasma capsulatum; 
Sốt rét ác tính thể não;  
Viêm mạch và viêm tĩnh mạch. 
Tiếp cận chẩn đoán 
Chọc dò tủy sống  lấy dịch não tủy và phân 
tích về dịch não  tủy  là công cụ chẩn đoán đầu 
tiên  đối  với  PAM  và  GAE.  Tuy  nhiên,  viêm 
màng  não  do  amip  hiếm  khi  được  chẩn  đoán 
trước  khi  bệnh  nhân  tử  vong.  Các  khó  khăn 
trong chẩn đoán và bệnh tiến triển nhanh đã gây 
khó khăn cho các nhà lâm sàng khó điều trị. Vì 
lý do này, việc  truy  tìm  để  chẩn  đoán  trên  các 
bệnh nhân có xét nghiệm dịch não tủy phù hợp 
với viêm màng não do vi khuẩn mà nếu có tiền 
sử phơi nhiễm nguồn nước ô nhiễm mà nhuộm 
gram bệnh phẩm âm tính(1).  
Xét nghiệm dịch não tủy phân biệt các bệnh 
nhân  bị  PAM  với  bệnh  nhân  bị  GAE.  Ví  dụ, 
phân  tích dịch não  tủy  trong bệnh  lý GAE đặc 
trưng  điển  hình  ít  có  phản  ứng  viêm  thì  nghĩ 
đến  PAM. Ngoài  ra,  các  thể  tư  dưỡng  có  thể 
nhìn thấy trong dịch não tủy các bệnh nhân mắc 
PAM,  nhưng  chúng  sẽ  không  tìm  thấy  trong 
dịch não tủy các bệnh nhân có bệnh lý GAE.  
Các xét nghiệm về mặt mô học 
Sinh  thiết và các mẫu bệnh phẩm khi phẩu 
tích tử thi từ các bệnh nhân mắc PAM biểu hiện 
viêm mạnh, với  sự  xâm nhập  các bạch  cầu  đa 
nhân trung tính, xuất huyết và hình ảnh hoại tử 
đặc  trưng  của viêm màng não  cấp. Các kháng 
thể huỳnh quang có thể giúp xác định nhiều thể 
tư dưỡng trong mẫu dịch não tủy(5).  
Sinh thiết các thương tổn mô hạt tại chỗ trên 
các bệnh nhân có  thương  tổn u hạt có GAE có 
thể hỗ trợ cho việc thiết lập chẩn đoán. Trên các 
cá nhân bị GAE, phản ứng mô hạt mức độ vừa 
biểu hiện  liên quan  đến mạch máu. Các  thể  tư 
dưỡng và nang sẽ có số lượng ít hơn trong PAM, 
có thể xác định thông qua sử dụng các kháng thể 
huỳnh quang.  
Xét  nghiệm  PCR  trên  các  bệnh  phẩm mô 
cũng được đề xuất như một công cụ chẩn đoán 
hỗ trợ trên các bệnh nhân nhiễm amip tự do. 
Nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh 
Chụp cắt lớp vi tính não (CT scan) hoặc chụp 
cộng  hưởng  từ  hạt  nhân  (MRI)  nên  thực  hiện 
trước khi chọc dò  tủy sống nếu có bằng chứng 
liên quan  đến hệ  thần kinh  trung ương  tại chỗ 
hoặc tăng áp lực sọ não. Tăng áp lực sọ não biểu 
hiện và CT  scan và MRI biểu hiện  sung huyết 
màng não và phù não.  
Các nghiên  cứu về  chẩn  đoán hình  ảnh  có 
thể biểu hiện chứng cứ của sự tăng áp lực sọ não 
hoặc  thoát  vị  não.  Tuy  nhiên,  trên  một  bệnh 
nhân  có  biểu  hiện  PAM,  thì  hành  khứu  giác, 
thùy thái dương và thùy trán liên quan bệnh có 
thể tràn lan, lan tỏa. Trên các cá nhân biểu hiện 
GAE, các thương tổn tại chỗ rất phổ biến và có 
thể nhìn thấy khắp hệ thần kinh trung ương(5).  
Phân tích về dịch não tủy 
Trong  viêm  não màng  não  do  amip  tiên  phát 
(PAM) 
Như đã đề cập ở  trên, chọc dò  tủy sống để 
phân tích dịch não tủy là công cụ chẩn đoán đầu 
tiên trong bệnh lý PAM. Phân tích dịch não tủy 
khó có thể phân biệt với các bệnh lý viêm màng 
não cấp do vi khuẩn, ngoại trừ nhuộm giêm sa 
luôn luôn âm tính.  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  537
Tăng bạch  cầu  đa nhân  trung  tính  là  điểm 
nổi bật, với tăng nồng độ protein, giảm nồng độ 
glucose và có hồng cầu xuất hiện. Nếu nghi ngờ 
bệnh nhân mắc PAM,  trên dịch não  tủy  có  thể 
thấy thể tư dưỡng di động.  
Thực hiện thử nghiệm PCR loại phát hiện 3 
tác  nhân  (triplex  real‐time  polymerase  chain 
reaction  assay)  để  tìm Naegleria, Acanthamoeba, 
Balamuthia  đã  được  phát  triển  xây  dựng  bởi 
trung tâm CDC. Multiplex PCR xét nghiệm các 
tác nhân ở  trên và đối với các  loài Sappinia có 
thể khắc phục những gì sẵn có trong tương lai 
sắp đến.  
Trong viêm não do amip dạng hạt (GAE) 
Tương  tự  với  PAM,  chọc  dò  tủy  sống  để 
phân tích dịch não tủy là một công cụ chẩn đoán 
đầu tiên trong GAE. Phân tích dịch não tủy biểu 
hiện cho thấy ít có phản ứng viêm hơn so với các 
bệnh nhân mắc bệnh lý PAM và không có thể tư 
dưỡng xuất hiện  trọng dịch não  tủy, đồng  thời 
áp lực mở tăng lên.  
Phân  tích dịch não  tủy  tương  tự như  trong 
viêm màng  não  vô  trùng,  với  chỉ  số  bạch  cầu 
đơn nhân lượng thấp đến vừa; nồng độ protein 
tăng và thường có nồng độ glucose hơi giảm nhẹ 
hoặc bình thường.  
Hội chẩn chuyên khoa 
Cần có sự tư vấn cấp thời với các chuyên gia 
bệnh nhiễm  trùng, các nhà  thần kinh  lâm sàng 
và phẩu thuật thần kinh nếu thấy nghi ngờ bệnh 
nhân mắc PAM hoặc GAE.  
TIÊN LƯỢNG 
Các  bệnh  lý  nhiễm  trùng  này  hầu  như  tử 
vong. Tỷ lệ tử vong cao có thể vì khó chẩn đoán 
và  đáp  ứng  kém  với  liệu  pháp  điều  trị  thông 
thường.  Trên  hầu  hết  các  ca  PAM  hoặc GAE, 
việc chẩn đoán được xác định sau khi giải phẩu 
tử thi. Tùy thuộc vào diện tổn thương trên thần 
kinh trung ương, biến chứng có thể thay đổi trên 
các ca còn sống(2,3,5,6).  
ĐIỀU TRỊ  
Viêm não màng não do amip tiên phát (PAM) 
Các bệnh nhân viêm não màng não do amip 
nhập viện vào khoa chăm sóc  tích cực để giám 
sát và điều  trị. Sắp xếp chuyển bệnh nhân nếu 
các chuyên gia điều  trị  thích hợp và nguồn  lực 
không  sẵn  có  tại  tuyến  điều  trị. Cụ  thể, nhiễm 
trùng PAM sẽ diễn  tiến như một bệnh  lý viêm 
màng não cấp do vi khuẩn nghiêm trọng không 
đáp  ứng  với  các  thuốc  kháng  sinh  thông 
thường(2).  
Lựa  chọn  điều  trị  đối  với  bệnh  lý PAM  là 
thuốc  amphotericin  B,  ở  liều  dung  nạp  tối  đa 
phối hợp với chế phẩm rifampin và doxycycline. 
Điều  trị  thành  công  cũng  có  thể  đòi hỏi  thuốc 
amphotericin  B  đưa  vào  trong  khoang  nhện. 
Sulfisoxazole,  phenothiazine  và  artemisinin  có 
thể có một số lợi điểm. Ngoài ra, các nghiên cứu 
cũng  thấy vai  trò azithromycin như một  thuốc 
bổ sung cho phác đồ thuốc amphotericin B.  
Trên các nghiên cứu in vitro và trên mô hình 
chuột  đã  cho  thấy  thuốc  miltefosine, 
chlorpromazine  và  rokitamycin  có  thể  có  hoạt 
tính điều trị PAM. Tuy nhiên, hiệu quả của các 
thuốc điều trị này vẫn chưa chứng minh.  
Viêm não do amip dạng hạt (GAE) 
Ketoconazole và amphotericin B  (dùng đơn 
thuần hay phối hợp), cũng như sulfadiazine có 
thể chỉ định trong bệnh lý GAE. Một báo cáo ca 
bệnh mô  tả  được  điều  trị  thành  công  bệnh  lý 
Balamuthia  GAE  bằng  thuốc  miltefosine, 
fluconazole  và  albendazole.  Báo  cáo  ca  bệnh 
khác mô  tả  điều  trị  thành  công  Acanthamoeba 
GAE  bằng  thuốc  trimethoprim‐
sulfamethoxazole  (TMP‐SMZ),  fluconazole, 
pentamidine, miltefosine  và  oxy  cao  áp.  Cuối 
cùng, một phác đồ thuốc phối hợp voriconazole 
và miltefosine được sử dụng xem xét chỉ định.  
Điều trị ngoại khoa 
Viêm não màng não do amip tiên phát (PAM) 
PAM  có  thể  đòi hỏi  sự  thay  thế  của một  ổ 
chứa tác nhân cho thuốc amphotericin B đưa vào 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 538 
trong  khoang  nhện  hay miconazole.  Não  úng 
thủy có thể cần thiết phẩu thuật đặt shunt.  
Viêm não do amips dạng hạt (GAE) 
Sinh  thiết có  thể cho phép chẩn đoán. Phẩu 
tích các thương tổn dính hoặc cô lập có thể có ích 
đối với các cá nhân mắc GAE. Não úng thủy có 
thể cần thiết đặt shunt. 
THUỐC ĐIỀU TRỊ(2,6) 
Amphotericin B là thuốc lựa chọn trong điều 
trị  PAM,  bổ  sung  thêm  thuốc  rifampin  và 
doxycycline.  Amphotericin  B  và  /hoặc 
ketoconazole là các thuốc được chỉ định cho các 
bệnh nhân có bệnh lý GAE. Các nghiên cứu chỉ 
ra  thuốc azithromycin có  thể mang  lại  lợi điểm 
trên các bệnh lý PAM. 
Thuốc chống nấm, toàn thân 
Các  thuốc kháng  sinh  chống  lại  amip khác 
nhau và  thuốc chống nấm được sử dụng  trong 
phối hợp và  liều  tối đa cũng như đường dùng 
ngoài đường uống hoặc qua khoang nhện. Tăng 
áp lực sọ não và cơn động kinh nên được quản 
lý và giám sát khi cần thiết. Một báo cáo ca bệnh 
cho  thấy rằng  liệu pháp thuốc phối hợp đường 
uống đối với bệnh viêm màng não Acanthamoeba 
có thể thành công, nhưng kết quả này chưa thấy 
đăng tải. 
Amphotericin B thông thường 
Amphotericin  B  là một  thuốc  diệt  amip  ở 
liều thấp. Người ta dựa trên nền tảng điều trị tất 
cả bệnh nhân PAM  còn  sống và  cũng  được  sử 
dụng  đối  với  bệnh GAE.  Thuốc  này  hiện  vẫn 
được  xem  là  thuốc  lựa  chọn  cho  cả  hai  bệnh 
trong điều kiện các  thuốc khác đang  trong giai 
đoạn nghiên cứu. Mặc dù một số dữ liệu sẵn có, 
sử dụng một trong các công thức lipid ở liều tối 
đa được khuyến cáo vì về mặt lý thuyết các hóa 
chất dựa  trên nền  lipid  cho phép phân bố  liều 
cao hơn với độc tính thấp hơn.  
Amphotericin B, lipid-based (Abelcet) 
Một trong số 3 công thức chế phẩm lipid của 
Amphotericin B, không có dữ liệu liên quan đến 
hiệu  lực,  tính  an  toàn  hay  liều  sẵn  có  đối  với 
bệnh  lý  PAM  hoặc GAE. Không  có  cơ  sở  lựa 
chọn  trong  số  chúng  được  công nhận. Mặc dù 
thiếu dữ  liệu  hỗ  trợ  cho  việc  sử dụng  các  chế 
phẩm này  cho  điều  trị viêm não màng não do 
amip, tuy nhiên chúng được khuyến cáo dùng vì 
dự hậu rất nghiêm trọng của bệnh như một cứu 
cánh.  
Amphotericin B, liposomal (AmBisome) 
Đây  là  một  chế  phẩm  lipid  gồm  có 
Amphotericin  B  bên  trong  unilamellar 
liposomes. Thuốc phân bố nồng độ cao hơn và 
tăng tiềm năng điều trị cũng như giảm độc tính 
của thuốc trên thận.  
Amphotericin  B  là  một  loại  kháng  sinh 
polyene có sinh khả dụng đường uống kém. Nó 
được  tạo  ra bởi  chủng Streptomyces nodosus, nó 
có  thể  có  tính  kìm  nấm  hoặc diệt  nấm. Thuốc 
gắn kết với sterols (ví dụ ergosterol) trong màng 
tế bào nấm, gây nên sự thoát ra các thành phần 
nội bào và gây chết tế bào nấm. Độc tính đối với 
các tế bào ở người có thể xảy ra theo cùng một cơ 
chế này. 
Amphotericin B colloidal dispersion (Amphotec) 
Amphotericin  B  colloidal  dispersion  cũng 
là một chế phẩm lipid gồm có Amphotericin B 
gắn với cấu  trúc  lipid hình đĩa. Amphotericin 
B  là một  loại kháng sinh polyene antibiotic có 
sinh khả dụng đường uống kém. Thuốc được 
tạo  ra bởi  chủng Streptomyces nodosus và nó có 
thể là chất kìm nấm hay diệt nấm. Thuốc gắn kết 
với các sterols  (như ergosterol)  trong màng  tế 
bào nấm, dẫn đến làm rò rỉ các thành phần nội 
bào và gây chết  tế bào nấm. Độc  tính đối với 
các  tế  bào  ở  người  cũng  có  thể  xảy  ra  thông 
qua cơ chế này.  
Rifampin (Rifadin IV) 
Thuốc  bất  hoạt  quá  trình  tổng  hợp 
Ribonucleic acid  (RNA) ở vi khuẩn bằng cách 
gán vào trên đơn vị beta của RNA polymerase 
làm sai  lệch  thông  tin của enzyme này, do đó 
ức  chế  sự  khởi  đầu  của  quá  trình  tổng  hợp 
RNA mới. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  539
Doxycycline (Vibramycin, Doxy 100, Doryx, Adoxa) 
Doxycycline có hoạt  tính diệt amip  trên  in 
vitro  và  hiệp  lực  với Amphotericin  B  khi  chỉ 
định  thuốc  này  theo  đường  tiêm  tĩnh mạch. 
Thuốc ức chế sinh  tổng hợp protein và do đó 
sự phát triển của vi khuẩn do gắn kết với 30S 
và  50S  ribosomal  subunits  của  các  vi  khuẩn 
còn nhạy cảm.  
Erythromycin  ethylsuccinate‐sulfisoxazole 
(E.S.P.) 
Thuốc  phối  hợp  erythromycin  và 
sulfisoxazole  hấp  thu  tốt  qua  đường  tiêu  hóa 
nhưng thuốc chỉ định tốt nhất khi sau khi ăn no 
để  tránh  các  tình  trạng  khó  chịu  hệ  tiêu  hóa. 
Erythromycin  ức  chế  sự  tổng  hợp  protein  vi 
khuẩn. Sulfisoxazole ức chế sự tổng hợp các folic 
acid từ para‐aminobenzoic acid trong vi khuẩn.  
Ketoconazole 
Ketoconazole  là một  loại  imidazole  chống 
amip, khi phối hợp với Amphotericin B  lại  là 
thuốc  lựa  chọn  đối  với  bệnh  lý GAE.  Thuốc 
này ức chế  tổng hợp ergosterol, cho phép các 
thành phần của tế bào thoát rỉ, do đó dẫn đến 
chết tế bào.  
Sulfadiazine 
Sulfadiazine có hoạt tính diệt amip trên  in 
vitro  và  hiệp  lực  với  ketoconazole  và  /hoặc 
Amphotericin B. Thuốc có tác dụng kìm khuẩn 
tốt thông qua cơ chế đối kháng cạnh tranh của 
PABA.  
Azithromycin (Zithromax, Zmax) 
Azithromycin  tác  động nhờ vào  sự gắn kết 
với tiểu đơn vị 50S ribosomal subunit của các vi 
sinh vật nhạy cảm và ngăn cản sự phân  ly của 
các peptidyl  transfer RNA  (tRNA)  từ ribosome; 
điều này gây  ra  làm dừng  tiến  trình  tổng hợp 
protein  lệ  thuộc  RNA.  Quá  trình  tổng  hợp 
nucleic acid không bị ảnh hưởng. 
Azithromycin  tập  trung  trong  các  thể  thực 
bào và nguyên bào sợi như biểu hiện  trong kỹ 
thuật  nuôi  cấy  ủ  trên  in vitro. Các  nghiên  cứu 
trên in vivo cho thấy rằng nồng độ trong các thể 
thực  bào  có  thể  góp  phần  vào  khâu  phân  bố 
thuốc  đến  các mô  viêm. Azithromycin  điều  trị 
các nhiễm nhẹ đến vừa, nó có thể có vài trò thay 
thế  phụ  trợ  cho  amphotericin  B  trong  điều  trị 
GAE/PAM. 
PHÒNG BỆNH 
Các biện pháp ngăn ngừa bệnh  lý PAM và 
GAE bao gồm như sau: 
‐ Các nhà  lâm sàng nên  thảo  luận hội chẩn 
thường quy với các đối  tượng có nguy cơ phơi 
nhiễm với tác nhân amip tự do trong môi trường 
nước ngọt ứ đọng và nước ấm;  
‐ Một số yếu  tố có  thể hỗ trợ  tránh cá nhân 
lặn và nhảy vào trong nguồn nước ấm này; 
‐ Khuyên mọi người việc  sử dụng nút mũi 
để tránh sự phơi nhiễm không cần thiết; 
‐ Khuyên mọi người nên có chế độ khử chlor 
đầy đủ các hồ bơi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Diaz JH (2011). Behavioral and recreational risk factors for free‐
living amebic infections. J Travel Med. 18(2):130‐7. 
2. Graeff‐Teixeira C, da Silva AC, Yoshimura K (2009). Update on 
eosinophilic meningoencephalitis and its clinical relevance. Clin 
Microbiol Rev. 22(2):322‐48. 
3. Lopez  C,  Budge  P,  Chen  J  (2012).  Primary  amebic 
meningoencephalitis: a case report and literature review. Pediatr 
Emerg Care. 28(3):272‐6. 
4. Sandström G, Saeed A, Abd H (2011). Acanthamoeba‐bacteria: a 
model  to  study host  interaction with human pathogens. Curr 
Drug Targets. 12(7):936‐41. 
5. Siddiqui R, Khan NA  (2012).  Is ritual cleansing a missing  link 
between  fatal  infection  and  brain‐eating  amoebae?. Clin  Infect 
Dis. 54(12):1817‐8. 
6. Yoder  JS,  Straif‐Bourgeois  S,  Roy  SL, Moore  TA  et  al  (2012). 
Deaths  from Naegleria  fowleri  associated with  sinus  irrigation 
with  tap  water:  a  review  of  the  changing  epidemiology  of 
primary amebic meningoencephalitis. Clin Infect Dis. 2. 1‐7. 
Ngày nhận bài báo:       16/5/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   22/6/2014 
Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

File đính kèm:

  • pdfcap_nhat_ve_viem_nao_mang_nao_tien_phat_va_viem_nao_mang_nao.pdf