Chế tạo vật liệu tương đương trung bì từ tế bào gốc trung mô màng dây rốn trong điều kiện nuôi cấy không giá đỡ để điều trị vết thương bỏng

Mục tiêu: Vật liệu tương ­ương trung bì đã được nghiên cứu phát triển dựa trên việc cấy nguyên bào

sợi da trên giá đỡ 3 chiều. Hiện nay, giá thành cao cộng với quy trình phức tạp trong chế tạo và sử dụng đã

hạn chế tính ứng dụng của tấm vật liệu.

Phương pháp: Trong nghiên cứu này, chúng tôi chế tạo tấm vật liệu tương ­ương trung bì bằng cách

cấy tế bào gốc trung mô từ dây rốn trên đĩa nhựa nuôi cấy và duy trì các tế bào trong môi trường có kích

thích tổng hợp đệm gian bào

Kết quả. Chúng tôi đã khảo sát về hình thái cấu trúc tấm vật liệu cũng như ­ánh giá tác dụng của chúng

trên mô hình vết thương ­ộng vật.

Kết luận: Từ nghiên cứu này, tấm vật liệu tương ­ương trung bì có thể tạo ra bằng nuôi cấy từ tế bào

gốc màng dây rốn. Tấm vật liệu rất hữu ích trong thử nghiệm in vitro và trên động vật thực nghiệm

pdf 7 trang dienloan 7240
Bạn đang xem tài liệu "Chế tạo vật liệu tương đương trung bì từ tế bào gốc trung mô màng dây rốn trong điều kiện nuôi cấy không giá đỡ để điều trị vết thương bỏng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chế tạo vật liệu tương đương trung bì từ tế bào gốc trung mô màng dây rốn trong điều kiện nuôi cấy không giá đỡ để điều trị vết thương bỏng

Chế tạo vật liệu tương đương trung bì từ tế bào gốc trung mô màng dây rốn trong điều kiện nuôi cấy không giá đỡ để điều trị vết thương bỏng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 657
CHẾ TẠO VẬT LIỆU TƯƠNG ĐƯƠNG TRUNG BÌ TỪ TẾ BÀO GỐC 
TRUNG MÔ MÀNG DÂY RỐN TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI CẤY  
KHÔNG GIÁ ĐỠ ĐỂ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG BỎNG 
Phan Minh Hoàng*, Đinh Văn Hân**, Nguyễn Gia Tiến**, Đoàn Hoàng Thu** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Vật liệu tương ương trung bì đã được nghiên cứu phát triển dựa trên việc cấy nguyên bào 
sợi da trên giá đỡ 3 chiều. Hiện nay, giá thành cao cộng với quy trình phức tạp trong chế tạo và sử dụng đã 
hạn chế tính ứng dụng của tấm vật liệu. 
Phương pháp: Trong nghiên cứu này, chúng tôi chế tạo tấm vật liệu tương ương trung bì bằng cách 
cấy tế bào gốc trung mô từ dây rốn trên đĩa nhựa nuôi cấy và duy trì các tế bào trong môi trường có kích 
thích tổng hợp đệm gian bào 
Kết quả. Chúng tôi đã khảo sát về hình thái cấu trúc tấm vật liệu cũng như ánh giá tác dụng của chúng 
trên mô hình vết thương ộng vật.  
Kết luận: Từ nghiên cứu này, tấm vật liệu tương ương trung bì có thể tạo ra bằng nuôi cấy từ tế bào 
gốc màng dây rốn. Tấm vật liệu rất hữu ích trong thử nghiệm in vitro và trên động vật thực nghiệm 
Từ khoá: Vật liệu tương đương trung bì, giá đỡ, tế bào gốc trung mô màng dây rốn, vết thương bỏng. 
ABSTRACT 
PREPARATION OF DERMAL EQUIVALENT WITH CORD LINING MESENCHYMAL STEM CELLS 
WITHOUT SCAFFOLD 
Phan Minh Hoang, Dinh Van Han, Nguyen Gia Tien, Doan Hoang Thu 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 657 ‐ 663 
Objective: The dermal equivalent is an in vitro model of the dermal layer of skin. It is constructed by 
seeding dermal fibroblasts into degradable or polymeric scaffold. It can be used for wound care to accelerate 
wound healing process. Due to high cost and lack of dermic components, the dermal equivalent has not been 
used popularly. 
Methods:  In  this  study, we developed a new dermal  equivalent by  seeding  cord  lining mesenchymal 
stem  cells  in  plastic  culture  substrate  and maintaining  in  specific medium  to  stimulate  cells  to  secrete 
extracellular matrix 
Results: The morphology  of  dermal  equivalent was  investigated, we  also made  evaluation  in  animal 
wound model.  
Conclusion:  In this study, the dermal equivalent could be cultured from mesenchymal stem cells. The 
dermal equivalent is useful in in vitro and animal experiments. 
Keywords: dermal equivalent Scaffold, Cord lining mesenchymal stem cells, burn wound. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vật  liệu  tương  đương  da  đã  được  nghiên 
cứu phát triển và chế tạo trong thực nghiệm từ 
vài thập kỷ trước đây(1,2). Đầu tiên là sự xuất hiện 
nuôi cấy chế tạo tấm vật liệu tương đương biểu 
* Khoa Thẩm mỹ, BV Chợ Rẫy; ** Viện Bỏng Quốc Gia, Hà Nội. 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Phan Minh Hoàng, ĐT: 0908221738, Email: Drminhhoang2010@gmail.com. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 658
bì và sau đó là sự ra đời của công nghệ chế tạo 
tấm biểu bì(3). Tuy nhiên, các vật liệu này đều có 
hạn chế trong sử dụng cũng như hiệu quả thành 
công  trong điều  trị  là do  thiếu  thành phần của 
trung bì. Do đó một  số vật  liệu khác  được chế 
tạo dựa  trên công nghệ mô  tạo  ra  tấm vật  liệu 
bao gồm cả thành phần tương đương biểu bì và 
thành phần tương đương trung bì bằng cách kết 
hợp các yếu tố trung bì và biểu bì, các yếu tố này 
được  phát  triển  dựa  trên  nguyên  lý  cơ  bản  là 
nuôi cấy nguyên bào sợi và  tế bào biểu bì  trên 
giá đỡ 3 chiều như  tấm collagen. Từ khi có vật 
liệu thay thế da được chế tạo trong labo, chúng 
cũng đã được ứng dụng trong trong nhiều  lĩnh 
vực khác nhau liên quan đến da như nghiên cứu 
dược độc học  thậm chí được sử dụng  trên  lâm 
sàng  đề  ghép  điều  trị  thay  thế  da  người  cho 
bệnh nhân bỏng hay tổn khuyết da(4). Một số vật 
liệu tương đương trung bì đã được sử dụng để 
phát  triển nghiên cứu chế  tạo vật  liệu  thay  thế 
da. Tuy nhiên,  các vật  liệu này  đều phải dùng 
thành phần  đồng  loại hay dị  loại như  collagen 
của bò(5,6) hoặc  trung bì không còn  tế bào  sống 
lấy  từ  tử  thi(7)  hoặc  các  giá  đỡ  tổng  hợp  bằng 
polymer(8) các thành phần này đều rất đắt và 
tiểm ẩn các nguy cơ lây bệnh truyền nhiễm 
Trong da, nguyên bào sợi  là tế bào chủ yếu 
được bao quanh bởi đệm gian bào. Chúng cũng 
tạo ra đệm gian bào bao gồm collagen, elastin và 
các protein đệm khác và chúng cũng  tương  tác 
qua  lại với một  số  loại  tế bào khác như  tế bào 
sừng biểu bì, đóng vai trò cốt yếu trong điều tiết 
sinh lý da. Đặc biệt trong liền vết thương da, vai 
trò của nguyên bào sợi tạo ra ECM đáng kể hơn 
nhiều so với da bình thường. 
Tương tự như điều kiện của da tự nhiên, các 
hormon và yếu tố tăng trưởng cũng được coi là 
yếu tố quan trọng trong việc tăng trưởng của tế 
bào và  tổng hợp  đệm gian bào  của  các  tế  bào 
nuôi cấy(9). Nguyên bào sợi da nuôi cấy được ghi 
nhận là tăng sinh và tổng hợp đệm gian bào khi 
có  mặt  một  số  hormon  hay  yếu  tố  tăng 
trưởng(10,11). Trong nuôi cấy đơn lớp, nguyên bào 
sợi da  được  cho  là  tạo nhiều  thành phần  đệm 
gian bào hơn như collagen sau khi đạt 100% độ 
che phủ  (postconfluent)(12,13). Gần đây chúng  tôi 
nhận thấy rằng các nguyên bào sợi có thể được 
biệt hóa từ tế bào gốc trung mô màng dây rốn. 
Các  tế bào này có khả năng nhân  lên mạnh và 
nhiều hơn các nguyên bào sợi da. Hơn nữa, dây 
rốn là rác thải y học nhưng lại là một nguồn mô 
cung cấp tế bào  lý tưởng bởi thông thường mổ 
dây rốn đều có diện tích 3000 đến 4000 cm2, do 
đó chỉ cần một mẫu dây rốn  là đã có  thể cung 
cấp số lượng cực kỳ lớn tế bào trung mô để chế 
tạo  các  tấm  tế bào hay  các  tấm vật  liệu  tương 
đương trung bì để dùng trong các nghiên cứu in 
vitro và điều trị bệnh(14). Phát hiện này cùng với 
những hạn  chế  của  tấm  vật  liệu  tương  đương 
trung bì hiện hành đã  thúc đẩy chúng  tôi phát 
triển  loại vật  liệu tương đương trung bì có tính 
ứng dụng và an toàn hơn.  
Trong  điều  kiện  hiện  nay,  chúng  tôi  phát 
triển  loại  vật  liệu  tương  đương  trung  bì mới 
bằng  cách nuôi  cấy  tế bào gốc  trung mô  trong 
môi trường đặc biệt có chứa một số yếu tố để tạo 
tấm tế bào sau đó thay môi trường chuyên biệt 
cho nguyên bào  sợi và kích  thích chúng  tiết  ra 
những thành phần đệm gian bào để tạo tấm vật 
liệu tương đương trung bì mà không cần giá đỡ 
hay  các  thành phần dị  loại và  đồng  loại  khác. 
Chúng  tôi  đánh giá  loại vật  liệu này  bằng  các 
nghiên cứu hình thái cấu trúc mô ‐ tế bào trong 
tấm vật liệu. Đồng thời chúng tôi cũng đánh giá 
khả  năng  ứng  dụng  in  vivo  của  vật  liệu  này 
bằng cách ghép chúng lên động vật với mô hình 
điều trị vết thương vết bỏng thực nghiệm ở thỏ. 
NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Tách tế bào trung mô dây rốn 
Mô dây rốn được  thu  từ sản phụ ngay sau 
khi  sinh, mô  được bảo quản  trong môi  trường 
dinh dưỡng. Sau khi cắt nhỏ  thành các mẩu có 
kích  thước 0,2 x 0,2 cm, đặt các mẩu mô  trong 
đĩa  nuôi  cấy  nhựa  và  bổ  sung  môi  trường 
chuyên biệt được cung cấp từ Ngân hàng tế bào 
gốc Mekostem, đặt các đĩa mô vào  tủ ấm 370C 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 659
với 5% CO2. Thay môi trường nuôi cấy 2‐3 lần/ 
tuần và theo dõi đến khi các tế bào hình sao hay 
hình thoi tách ra khỏi mẫu mô và phát triển đạt 
50%‐70%  bề mặt  đĩa  thì  tiến  hành  tách  tế  bào 
bằng quy trình sử dụng trypsin. Các tế bào được 
nhân  lên  đến  thế hệ  cấy  chuyển  thứ  3‐4 dùng 
vào  nghiên  cứu  chế  tạo  tấm  vật  liệu  tương 
đương trung bì. 
Sơ đồ 1. Cấu trúc mô dây rốn: Lớp tế bào biểu mô 
tương  tự  màng  ối  (1);  lớp  tế  bào  gốc  trung mô 
màng  dây  rốn  (2);  lớp  tế  bào  gốc  trung  mô  lớp 
Wharton’ jelly (3). Các tế bào được sử dụng trong 
nghiên cứu này thuộc vị trí số 2. 
Tạo tấm vật liệu tương đương trung bì 
Tế bào  trung mô được nuôi cấy ở số  lượng 
tương đương 5000 tế bào/ cm2 đĩa nuôi cấy d = 
100mm.  Sau  khi  đạt  100%  độ  che  phủ 
(confluent), chúng  tiếp  tục được nuôi cấy  thêm 
vài  tuần  nữa.  Trong  thời  gian  nuôi  cấy,  môi 
trường được thay thế bằng biệt hóa nguyên bào 
sợi  để kích  thích  tiết  đệm gian bào. Khi  các  tế 
bào mọc  chồng  lấn  nhiều  lớp  lên  nhau  và  có 
đệm gian bào, tấm vật  liệu sẽ quan sát rõ bằng 
mắt thường và dưới kính hiển vi. Dấu hiệu thấy 
rõ  là tấm vật  liệu bắt đầu co và tách ra khỏi bề 
mặt nuôi cấy  ở mép  đĩa. Dùng dụng cụ  là cell 
lifter gạt nhẹ để tách hoàn toàn tấm vật liệu khỏi 
bề mặt đĩa. Tấm vật  liệu sau đó được sử dụng 
cho các nghiên cứu đánh giá hình thái cấu  trúc 
và ghép điều trị vết thương bỏng thực nghiệm.  
Mười thí nghiệm được tiến hành sử dụng 5 
dòng tế bào ở P3 và P4 thu được từ mô dây rốn. 
Hình thái mô  
Vật liệu tương đương trung bì được cố định 
trong  dung  dịch  Boin  trong  24  giờ,  tiến  hành 
khử  nước  và  đúc  tiêu  bản  trong  paraffin,  cắt 
thành  các  lát  mỏng  5‐6  micromet  và  nhuộm 
haematoxyline  –  eosin,  quan  sát  tiêu  bản dưới 
kính hiển vi quang học.  
Gây vết thương bỏng thực nghiệm và ghép 
tấm vật liệu tương đương trung bì lên vết 
thương 
Gây  bỏng  20  cm2  theo  phương  pháp  của 
Halovec và Pocicado 1961. 
Thay băng xử lý vết thương được tiến hành 
hàng  ngày  theo  quy  trình.  Đặt  tấm  vật  liệu 
tương đương  trung bì  lên vết  thương,  tránh để 
gấp mép, dịch, bọt khí bên dưới.  Đặt một  lớp 
gạc vaselin lên trên tấm vật liệu. Đặt 5‐6 lớp gạc 
vô khuẩn, băng ép nhẹ. Băng ép nhẹ bằng  lớp 
vải may  theo  dạng  áo  để  tránh  thỏ  làm  tuột 
băng. Thay băng hàng ngày hoặc cách nhật tuỳ 
theo  tình  trạng  vết  thương. Trong  trường  hợp 
vết  thương  nhiễm  khuẩn  thì  điều  trị  nhiễm 
khuẩn  vết  thương  cho  đến  khi  sạch  vi  khuẩn 
mới tiếp tục ghép. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tấm vật liệu tương đương trung bì 
Hai tuần nuôi cấy tính từ sau khi tế bào đạt 
100% độ che phủ, các tế bào trung mô được duy 
trì  trong môi  trường  nuôi  cấy  biệt  hóa  đã  bổ 
sung một số yếu tố, các tế bào hình thoi dài phát 
triển  chồng  lấn  lên  nhau  khoảng  2‐3  lớp  đan 
chéo nhau  theo nhiều hướng và  có  sự  liên kết 
với nhau (ảnh 1 a). Trong khi đó tế bào nuôi cấy 
trong điều kiện truyền thống không có yếu tố bổ 
sung cho thấy các tế bào vẫn phát triển đơn lớp, 
các tế bào nhiều hình dạng nằm cạnh nhau trong 
đó  có  các  tế bào hình  sao, hình  thoi ngắn hơn 
(ảnh 1b). 
(2)
(1)
(3)
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 660
A  B 
Hình 1. Tế bào mọc thành hai lớp đan chéo nhau ở ngày thứ 5 trong môi trường biệt hóa (A), 
trong khi tế bào vẫn duy trì 1 lớp ở môi trường tăng trưởng cho tế bào gốc trung mô (B), (hình 
ảnh soi trên kính hiển vi đảo ngược ‐ 50X) 
A  B 
Hình 2. Duy trì môi trường nuôi cấy 2 tuần, tế bào trong môi trường biệt hóa tạo thành tấm vật 
liệu tương đương trung bì, các tế bào mọc thành hai ‐3 lớp đan chéo nhau, tấm vật liệu bắt đầu 
bong (A), lắc nhẹ đĩa nuôi thấy tấm vật liệu bong và bờ mép dịch chuyển về phía trung tâm đĩa 
(B). (Soi nổi ‐ 50X) 
A  B 
Hình 3. Hình ảnh đại thể tấm vật liệu tương đương trung bì sau 2 tuần, tấm vật liệu dai và dễ 
tách ra khỏi bề mặt đĩa nuôi cấy. 
Khi tế bào gốc trung mô màng dây rốn phát 
triển trong môi trường nuôi cấy, tế bào cũng có 
xu hướng  tạo  ra 2  lớp chồng  lấn  lên nhau chứ 
không  phát  triển  hình  cuộn  xoáy  như 
Fibroblasts trung bì. Theo dõi các ngày sau thay 
môi trường biệt hóa, thấy tế bào mọc mạnh xếp 
chồng lấn lên nhau, khoảng ngày thứ 6‐8 có thể 
nhìn thấy rõ bằng mắt thường. Ngày thứ 10, lớp 
tế bào có xu hướng bong bật khỏi bề mặt đĩa, lắc 
nhẹ đĩa hoặc dùng đầu pipet gạt nhẹ  là có  thể 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 661
tạo  ra  tấm  tế  bào. Tấm  tế  bào  chỉ  co nhỏ  hơn 
diện  tích  đáy  đĩa một  chút,  còn  khoảng  =  2/3 
diện tích đĩa nuôi. 
 A  B
Hình 4. Hình thái cấu trúc trên kính hiển vi quang học nhuộm HE của tấm vật liệu tương đương trung 
bì, tấm vật liệu có chứa không chỉ tế bào đơn thuần mà còn bao gồm cả đệm gian bào, tấm vật liệu cho thấy 
trong thành phần của chúng chứa rất nhiều tế bào dạng nguyên bào sợi và đệm gian bào tương đối dày. 
HE, 50X (ảnh a ); HE, 100X (ảnh b). 
Về khía cạnh mô học,  tấm vật  liệu có chứa 
không chỉ tế bào đơn thuần mà còn bao gồm cả 
đệm gian bào, tấm vật liệu cho thấy trong thành 
phần  của  chúng  chứa  rất  nhiều  tế  bào  dạng 
nguyên bào sợi. Hình ảnh mô học tấm tế bào gợi 
ý đây là vật liệu tương đương trung bì. 
Kết quả ghép điều trị vết thương thực nghiệm 
 A   B 
 C   D 
Hình 5. Vết bỏng được cắt hoại tử toàn lớp, nền vết thương là mô dưới da (a); tấm vật liệu được dàn đều 
che phủ bề mặt vết  thương  (b). Ngày  thứ 5 sau ghép,  tấm vật  liệu bám và che phủ  tốt vết  thương  (c). 
Ngày nghiên cứu thứ 14 ghép tấm vật liệu tương đương trung bì, vết thương gần liền hoàn toàn bằng cả 
hai hình thức là biểu mô hóa từ bờ mép và co hẹp diện tích vết thương, bề mặt sẹo nhẵn và phẳng so với bề 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 662
mặt da lành xung quanh, sẹo vẫn thiếu thành phần phụ của da (d). (Thỏ số 1). 
Với  05  thỏ  thí  nghiệm  được  ghép  tấm  vật 
liệu  tương đương  trung bì vào  thời  điểm ngày 
thứ 2  sau cắt hoại  tử  sớm  làm  sạch hoại  tử và 
cầm máu tốt.  
Tấm vật  liệu  được dàn  đều  lên vết  thương 
(ảnh  5b)  nhanh  chóng  bám  vào  vết  thương. 
Ngày nghiên cứu thứ 5, bề mặt vết thương được 
che phủ một lớp màng mỏng, bám chắc vào vết 
thương  làm  vết  thương  không  chảy  máu  lúc 
thay băng nhưng cơ bản vẫn quan sát thấy nền 
vết thương màu đỏ hồng và sạch. Tại những chỗ 
lớp màng bám vào gạc và bị bong khi thay băng 
quan sát thấy tổ chức hạt sạch, đỏ và rớm máu 
(ảnh 5 c). 
Vết  thương  cũng  chưa  thấy  rõ  hiện  tượng 
biểu mô hóa từ bờ mép. Quan sát vết thương từ 
ngày thứ 7 thấy biểu mô hóa mạnh ở bờ mép vết 
thương tiến dần vào phía trung tâm để làm lành 
vết  thương. Kèm  theo hiện  tượng biểu mô hóa 
mạnh là dấu hiệu vết thương co nhỏ. Đến ngày 
thứ 15, cơ bản các vết thương liền da bằng biểu 
mô hóa. Về chất lượng sẹo thấy bề mặt sẹo bằng 
phẳng, nhẵn, sờ có cảm giác cứng cộm hơn da 
lành xung quanh, không thấy dấu hiệu mọc lông 
trở  lại  (ảnh 5 d). Không  thấy  có dấu hiệu kích 
thích gây viêm  ở vết  thương hay phản  ứng dị 
ứng ở vùng da lành quanh vết thương ở cả 5 thỏ 
trong suốt quá trình nghiên cứu. 
BÀN LUẬN  
Đối với da bình  thường,  trung bì  là  lớp hỗ 
trợ  cho  biểu  bì  bao  gồm  thành  phần  sợi  như 
collagen và elastin và cũng bao gồm thành phần 
tế bào. Tế bào chủ yếu  của  trung bì  là nguyên 
bào sợi đây là dạng tế bào nguồn gốc trung mô 
mà  có khả năng  tổng hợp và giáng hóa  thành 
phần protein đệm sợi và không sợi của mô liên 
kêt và các yếu tố hòa tan khác. 
Có vài vật  liệu  tương đương  trung bì được 
chế  tác  theo khuôn mẫu  tạo  trung bì  trên  labo. 
Trong  các mô  hình  này,  nguyên  bào  sợi  được 
nuôi cấy trên giá đỡ ba chiều có các thành phần 
trung bì như  collagen và glycosaminoglycan(5,6) 
hoặc là các polymer tổng hợp(8). Trong đó, có mô 
hình  chế  tạo  bằng  trộn  lẫn  đệm  collagen  với 
nguyên bào sợi. Với mô hình này, các nhà khoa 
học đã có sản phẩm được tạo ra bởi sự kết hợp 
giữa nguyên bào sợi da  trong đệm collagen và 
đã được sử dụng rộng rãi như một hình mẫu ưu 
việt. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, 
chúng tôi kiến tạo ra vật liệu tương đương trung 
bì mới bao gồm đệm gian bào và cả các tế bào có 
hình dạng  của nguyên bào  sợi bằng  cách nuôi 
cấy đơn độc tế bào gốc trung mô tách từ màng 
dây rốn và không cần giá đỡ. Về hình thái mô, 
tấm vật  liệu theo mô hình này cho thấy một số 
đặc  tính  tương  tự  như  trung  bì  bình  thường. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đặc tính giống 
trung bì được xác định cả bằng cả đặc điểm đại 
thể và vi thể. Về đại thể, tấm vật liệu quan sát rõ 
bằng mắt thường có màu trắng ngà như trung bì 
da bình thường, tấm vật liệu tương đối chắc khi 
dùng các dụng cụ để dịch chuyển,  thậm chí có 
thể gấp làm 2 lớp (ảnh 3 a) và ngay cả khi ghép 
lên vết thương thì vẫn thấy rõ tấm vật liệu dạng 
màng mỏng (ảnh 5 b). Tấm trung bì của chúng 
tôi cũng tương tự như mô hình tấm trung bì tạo 
ra bằng cách trộn nguyên bào sợi với collagen vì 
thấy  rõ  cả  nhân  tế  bào  và  đệm  gian  bào  là 
khoảng  cách  rất  rộng  trên  tiêu bản nhuộm HE 
của  tấm vật  liệu mặc dù  đã  tách hoàn  toàn  ra 
khỏi bề mặt đĩa nuôi (ảnh 4a, 4b) ngay cả khi đã 
tách ra khỏi bề mặt đĩa nuôi cấy. Tuy mô hình 
chế tạo sản phẩm này có chứa cả đệm gian bào 
cả tế bào dạng nguyên bào sợi nhưng rất có thể 
độ  dày  sản  phẩm  của  chúng  tôi  chưa  thể  đạt 
được như khi trộn nguyên bào sợi với collagen. 
Bởi với mô hình chế  tạo  tấm  trung bì này việc 
tạo  ra  tấm  trung bì  có  độ dày bao nhiêu  là do 
người chế  tạo có  thể chủ động được bằng cách 
dàn  nhiều  hay  ít  hỗn  dịch  nguyên  bào  sợi  – 
collgen gell. Còn trong thí nghiệm của chúng tôi, 
việc tạo ra tấm vật liệu dựa trên khả năng của tế 
bào dạng nguyên bào sợi biệt hóa từ tế bào gốc 
trung mô  tạo  ra  đệm  gian  bào  của  chính  nó 
trong điều kiện nuôi cấy. Cùng với điều đó, kết 
quả nghiên cứu gợi ý rằng sản phẩm của chúng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 663
tôi  có  thể  hữu  ích  như  vật  liệu  tương  đương 
trung bì và có những đặc điểm gần gũi với sản 
phẩm trung bì nuôi cấy khác.  
Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng, 
vật  liệu  tương  đương  trung bì mới này  có  thể 
thích hợp với  các mục  đích  thí nghiệm và  lâm 
sàng. Bổ sung cho những thí nghiệm in vitro liên 
quan đến loại vật liệu tương đương trung bì mới 
này  chúng  tôi  thấy  nó  có  khả  năng  kích  thích 
liền  vết  thương  ở  thỏ  gây  vết  thương  thực 
nghiệm  bằng  cách  làm  nhanh  hình  thành  tổ 
chức hạt đẹp, kích thích biểu mô hóa từ bờ mép 
vết thương.  
KẾT LUẬN 
Từ nghiên  cứu này,  tấm  vật  liệu  rất  giống 
với trung bì da bình thường có thể được  tạo ra 
bằng nuôi cấy đơn độc tế bào dạng nguyên bào 
sợi biệt hóa  từ  tế bào gốc  trung mô màng dây 
rốn.  Tấm  vật  liệu  cũng  hữu  ích  trong  các  thử 
nghiệm  in vitro và các mục địch  lâm sàng như 
kiến  tạo vật  liệu  tương đương da và ghép  trên 
động vật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lee  DY,  Ahn HT,  Cho  KH.  (2000). A  new  skin  equivalent 
model:  use  of  a  dermal  substrate  which  combines  de‐
epidermized  dermis  with  fibroblast‐populated  collagen 
matrix. J Dermatol Sci.;23:132—7. 
2. Lee DY, Cho KH. (2005). The effects of epidermal keratinocytes 
and  dermal  fibroblasts  on  the  formation  of  cutaneous 
basement  membrane  in  three‐dimensional  culture  systems. 
Arch Dermatol Res.;296:296—302. 
3. Green H, Kehinde O, Thomas  J.  (1979). Growth  of  cultured 
human  epidermal  cells  into  multiple  epithelia  suitable  for 
grafting. Proc Natl Acad Sci USA;76:5665‐8.  
4. Ehrlich  HP.  (2004).  Understanding  experimental  biology  of 
skin equivalent: from laboratory to clinical use in patients with 
burns and chronic wounds. Am J Surg.;187: 29s‐33s. 
5. Boyce ST, Michel S, Reichert U, Schroot B, Schmidt R. (1990). 
Reconstructed  skin  from  cultured  human  keratinocytes  and 
fibroblasts  on  a  collagen‐glycosaminoglycan  biopolymer 
substrate. Skin Pharmacol.;2:136—43. 
6. Maruguchi T, Maruguchi Y, Suzuki S, Matsuda K, Toda KI, 
Isshiki  N.  (1994).  A  new  skin  equivalent:  keratinocytes 
proliferated and differentiated on collagen sponge containing 
fibroblasts. Plast Reconstr Surg.;93:537‐44. 
7. Regnier  M,  Prunieras  M,  Woodley  D.  (1994).  Growth  and 
differentiation  of  adult  human  epidermal  cells  on  dermal 
substrates. Front Matrix Biol. ;9: 4 ‐ 35. 
8. Cooper ML, Hansbrough  JF, Spielvogel RL, Cohen R, Bartel 
RL,  Naughton  G.  (1991).  In  vivo  optimization  of  a  living 
dermal substitute employing cultured human fibroblasts on a 
biodegradable  polyglycolic  acid  or  polyglactin  mesh. 
Biomaterials; 12: 243 ‐ 8. 
9. Goldstein RH, Poliks CF, Pilch PF, Smith BD,  (1989). Fine A. 
Stimulation of  collagen  formation by  insulin and  insulin‐like 
growth  factor  I  in  cultures  of  human  lung  fibroblasts. 
Endocrinology; 124: 964 ‐ 70. 
10. Russell SB, Russell JD, Trupin KM. (1981). Collagen synthesis 
in human fibroblasts: effects of ascorbic acid and regulation by 
hydrocortisone. J Cell Physiol.;109: 121 ‐ 31. 
11. Hata R, Sunada H, Arai K, Sato T, Ninomiya Y, Nagai Y, et al. 
(1988). Regulation of collagen metabolism and cell growth by 
epidermal growth factor and ascorbate in cultured human skin 
fibroblasts. Eur J Biochem.;173: 261 ‐ 7. 
12. Booth BA, Polak KL, Uitto J. (1980). Collagen biosynthesis by 
human  skin  fibroblasts.  I.  Optimization  of  the  culture 
conditions  for  synthesis  of  type  I  and  type  III  procollagens. 
Biochim Biophys Acta.;607: 145 ‐ 60. 
13. Minor RR, Sippola‐Thiele M, McKeon J, Berger J, Prockop DJ. 
(1986). Defects in the processing of procollagen to collagen are 
demonstrable  in  cultured  fibroblasts  from  patients with  the 
Ehlers‐Danlos and osteogenesis  imperfecta  syndromes.  J Biol 
Chem.; 261: 10006 ‐ 14. 
14. Katsuhiro Kita,1 Gerd G. Gauglitz,1,2 Thang T. Phan,3 David 
N.  Herndon,1  and  Marc  G.  Jeschke1.  (2009).  Isolation  and 
Characterization  of Mesenchymal  Stem  Cells  from  the  Sub‐
Amniotic  Human  Umbilical  Cord  Lining  Membrane.  Stem 
cells and Development, V 20, N0 20 : 1‐ 11. 

File đính kèm:

  • pdfche_tao_vat_lieu_tuong_duong_trung_bi_tu_te_bao_goc_trung_mo.pdf