Đánh giá hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong ống tủy của một số dung dịch bơm rửa, nghiên cứu in vitro

Vi khuẩn đóng vai trò chính trong sinh bệnh

học và phát triển bệnh lý tuỷ và bệnh lý vùng

quanh chóp(6). Do đó, mục tiêu của điều trị nội

nha là loại bỏ vi khuẩn càng nhiều càng tốt khỏi

hệ thống ống tuỷ và tạo nên môi trường mà

những vi khuẩn còn sót không thể tiếp tục sống

và phát triển. Trong tiến trình điều trị nội nha,

nhiều thuốc sát khuẩn ống tủy được sử dụng,

cho đến nay calcium hydroxide là một trong

những chất được sử dụng phổ biến nhất. Tuy

nhiên, Sự hiện diện của calcium hydroxide trên

thành ống tuỷ có thể làm giảm tính thấm của xi

măng trám bít ống tuỷ vào ống ngà và gia tăng

vi kẽ ở chóp chân răng làm giảm chất lượng điều

trị nội nha(2,7). Do vậy muốn điều trị nội nha

thành công thì cần phải lấy đi calcium

hydroxide(12). Những năm gần đây, nhiều nghiên

cứu được tiến hành để so sánh các dung dịch

bơm rửa NaOCl, EDTA, EDTA-T, EDTAC và

citric acid. Các tác giả đều kết luận không có biện

pháp nào có thể loại bỏ hoàn toàn calcium

hydroxide.

Với mong muốn hiểu rõ hơn về khả năng

làm sạch calcium hydroxide của các chất bơm

rửa EDTA 17%, citric acid 10% và NaOCl 2,5%,

chúng tôi tiến hành nghiên cứu “ Đánh giá

hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong

ống tuỷ c

pdf 6 trang dienloan 5960
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong ống tủy của một số dung dịch bơm rửa, nghiên cứu in vitro", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong ống tủy của một số dung dịch bơm rửa, nghiên cứu in vitro

Đánh giá hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong ống tủy của một số dung dịch bơm rửa, nghiên cứu in vitro
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 216
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ LÀM SẠCH CALCIUM HYDROXIDE 
TRONG ỐNG TỦY CỦA MỘT SỐ DUNG DỊCH BƠM RỬA, 
NGHIÊN CỨU IN VITRO 
Ngô Thị Hường*, Nguyễn Thị Kim Anh**, Phạm Văn Khoa*** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: So sánh hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong ống tuỷ của ba dung dịch bơm 
rửa: EDTA 17%, citric acid 10% và NaOCl 2,5%. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện trong phòng thí nghiệm (in vitro) theo phương pháp mù 
đôi, so sánh nhóm. 32 răng cối nhỏ hàm dưới của người được sửa soạn ống tủy với trâm lớn nhất đi hết chiều dài 
làm việc là trâm dũa số 45và băng thuốc với calcium hydroxide. Sau 10 ngày, 30 răng được chia ngẫu nhiên 
thành ba nhóm. Mỗi nhóm calcium hydroxide được làm sạch bằng kim bơm rửa 27G và các dung dịch bơm rửa 
sau đây: (I) NaOCl 2,5%, (II) EDTA 17% và (III) citric acid 10%. Hai răng còn lại sử dụng làm răng chứng 
dương và răng chứng âm. Ở mỗi nhóm, bơm rửa với 20ml dung dịch bơm rửa và thơi gian bơm rửa là khoảng 3 
phút. Đánh giá sự làm sạch calcium hydroxide dưới kính hiển vi nổi với độ phóng đại 30 lần, sử dụng thang điểm 
của Lambrianidis và cs (2006). 
Kết quả: Nhóm răng bơm rửa với dung dịch EDTA và citric acid cho hiệu quả làm sạch tốt nhất, ngược lại 
nhóm răng bơm rửa với dung dịch NaOCl cho hiệu quả làm sạch kém nhất, đặc biệt ở 1/3 chóp. 
Kết luận: Không có chất bơm rửa nào làm sạch hoàn toàn calcium hydroxide. Các dung dịchchelate như 
citric acid và EDTA cho kết quả tốt nhất. 
Từ khóa: calcium hydroxide, EDTA, citric acid và NaOCl 
ABSTRACT 
EVALUATION OF THE EFFECTIVENESS OF SOME IRRIGANTS 
ON REMOVING CALCIUM HYDROXIDE FROM THE ROOT CANAL, IN VITRO STUDY. 
Ngo Thi Huong, Nguyen Thi Kim Anh, Pham Van Khoa 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 216 - 221 
Objective: The objective of this study was to compare the efficacy of three irrigants in removing calcium 
hydroxide from root canals: 17% EDTA, 10% citric acid and 2.5% NaOCl. 
Method: In vitro sudy. Thirty-two mandibular premolars were instrumented to a master apical file #45 and 
dressed with calcium hydroxide. After 10 days, 30 teeth were irrigated with a syringe and a size-27 needle using 
the following irrigants: (I) 2.5% NaOCl, (II) 17% EDTA, (III) 10% citric acid. The remaining two teeth served as 
positive and negative controls. Volume of irrigant was 20 ml in each group, and irrigation time was about 3 
minutes. Evaluation of cleanliness of the specimens was performed under a stereoscopic microscope with x30 
magnification using the four-grade scoring system as described by Lambrianidis et al. (2006). 
Results: The best results were found with EDTA and citric acid, whereas NaOCl showed the least 
* Học viên Cao học 2011-2013- RHM- ĐHYD TPHCM 
** Bộ môn NKCS- Khoa RHM- ĐHYD TPHCM 
*** Bộ môn CR-NN- Khoa RHM- ĐHYD TPHCM 
Tác giả liên lạc: ThS Ngô Thị Hường ĐT: 0903973797 Email: annhiennk2012@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 217
effectiveness, especially in apical third. 
Conclusions: None of the irrigants was able to completely remove the calcium hydroxide. Chelating agents 
such as citric acid and EDTA showed the best results. 
Keyword: calcium hydroxide, EDTA, citric acid, NaOCl 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vi khuẩn đóng vai trò chính trong sinh bệnh 
học và phát triển bệnh lý tuỷ và bệnh lý vùng 
quanh chóp(6). Do đó, mục tiêu của điều trị nội 
nha là loại bỏ vi khuẩn càng nhiều càng tốt khỏi 
hệ thống ống tuỷ và tạo nên môi trường mà 
những vi khuẩn còn sót không thể tiếp tục sống 
và phát triển. Trong tiến trình điều trị nội nha, 
nhiều thuốc sát khuẩn ống tủy được sử dụng, 
cho đến nay calcium hydroxide là một trong 
những chất được sử dụng phổ biến nhất. Tuy 
nhiên, Sự hiện diện của calcium hydroxide trên 
thành ống tuỷ có thể làm giảm tính thấm của xi 
măng trám bít ống tuỷ vào ống ngà và gia tăng 
vi kẽ ở chóp chân răng làm giảm chất lượng điều 
trị nội nha(2,7). Do vậy muốn điều trị nội nha 
thành công thì cần phải lấy đi calcium 
hydroxide(12). Những năm gần đây, nhiều nghiên 
cứu được tiến hành để so sánh các dung dịch 
bơm rửa NaOCl, EDTA, EDTA-T, EDTAC và 
citric acid. Các tác giả đều kết luận không có biện 
pháp nào có thể loại bỏ hoàn toàn calcium 
hydroxide. 
Với mong muốn hiểu rõ hơn về khả năng 
làm sạch calcium hydroxide của các chất bơm 
rửa EDTA 17%, citric acid 10% và NaOCl 2,5%, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu “ Đánh giá 
hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong 
ống tuỷ của một số chất bơm rửa, nghiên cứu 
in vitro”. 
Mục tiêu chuyên biệt 
1. Xác định hiệu quả làm sạch calcium 
hydroxide của các dung dịch bơm rửa: EDTA 
17%, citric acid 10% và NaOCl 2,5%. 
2. So sánh hiệu quả làm sạch calcium 
hydroxide trong ống tuỷ của 3 dung dịch bơm 
rửa: EDTA 17%, citric acid 10% và NaOCl 
2,5%. 
3. So sánh hiệu quả làm sạch calcium 
hydroxide trong ống tuỷ giữa 1/3 cổ, 1/3 giữa và 
1/3 chóp của từng loại dung dịch. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu thực hiện trong phòng thí 
nghiệm (in vitro) theo phương pháp mù đôi, so 
sánh nhóm. 
Đối tượng, vật liệu và phương tiện nghiên 
cứu 
Đối tượng nghiên cứu: 32 răng cối nhỏ hàm 
dưới của người đã nhổ với tiêu chuẩn: răng còn 
nguyên vẹn cả thân và chân, răng một chân, 
không có sâu răng, không bị nứt gãy, không có 
nội hoặc ngoại tiêu, không vôi hoá ống tuỷ, răng 
đã đóng chóp hoàn toàn và chân răng tương đối 
thẳng (chân răng cong không quá 50(14)). 
Vật liệu nghiên cứu: Dung dịch NaOCl 
2,5% (Hyposol, Prevest Denpro Limited, Ấn 
Độ), dung dich citric acid 10%, dung dịch 
EDTA 17% (prevest Denpro limited, Ấn Độ), 
bột calcium hydroxide (Lilly, Eli Lilly & Co., 
Indianapolis, U.S.A.) 
Quy trình thực hiện 
Làm sạch và bảo quản răng 
Sau khi nhổ, răng được cạo vôi và lấy sạch 
mô mềm. Các răng được bảo quản trong dung 
dịch nước muối sinh lý 0,9% ở nhiệt độ phòng, 
thay dung dịch sau mỗi 24 giờ, thời gian bảo 
quản răng không quá 2 tháng(10). 
Sửa soạn và bơm rửa ống tuỷ: sau khi mở 
tủy, đưa trâm đũa K số 10 vào ống tuỷ cho đến 
khi nhìn thấy ở lỗ chóp. Chiều dài làm việc bằng 
chiều dài vừa đo được trừ đi 1mm. Tạo dạng 
ống tủy theo phương pháp bước lùi biến đổi. 
Các răng được sửa soạn đến trâm lớn nhất đi hết 
chiều dài làm việc là trâm dũa K số 45 bước lùi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 218
đến trâm dũa K số 70. Mở rộng lỗ tuỷ bằng 
Gates-Glidde số 2 và số 3. Rà soát thường xuyên 
bằng trâm đũa K số 10 để duy trì chiều dài làm 
việc. Các ống tuỷ được bơm rửa với 2ml dung 
dịch NaOCl 2,5% mỗi lần thay trâm. Cuối cùng 
lau khô ống tuỷ bằng côn giấy. 
Băng thuốc với calcium hydroxide 
1 răng sử dụng là răng chứng âm: không 
băng với thuốc calcium hydroxide. 31 răng còn 
lại được băng thuốc với calcium hydroxide 
trộn với nước cất (tỉ lệ 1:1,5, trọng lượng/ thể 
tích). Đưa calcium hydroxide vào trong ống 
tủy bằng lentulo số 35 đến khi nhìn thấy ở lỗ 
chóp. Trám tạm lỗ mở tủy bằng viên gòn và 
GIC dày 3mm. Giữ các mẫu ở 370C và độ ẩm 
100% trong 10 ngày. 
Làm sạch calcium hydroxide 
1 răng sử dụng là răng chứng dương, 
calcium không được lấy ra. 30 răng còn lại được 
tháo chất trám tạm bằng tay khoan siêu tốc 
không có nước để không làm ảnh hưởng đến lớp 
calcium hydroxide bên dưới. Chia 30 răng ngẫu 
nhiên thành 3 nhóm, mỗi nhóm 10 răng và các 
răng được làm sạch calcium hydroxide bằng các 
dung dịch sau: 
Nhóm I: bơm rửa với 12ml dung dịch NaOCl 
2.5%. 
Nhóm II: bơm rửa với 12ml dung dịch EDTA 
17% 
Nhóm III: bơm rửa với 12ml dung dịch citric 
acid 10% 
12ml dung dịch bơm rửa chia đều trong 3 
ống nhựa bơm rửa có thể tích 5ml. Mỗi lần bơm 
rửa trong 1 phút. Giữa các lần bơm rửa đưa cây 
trâm dũa K số 10 vào tới chiều dài làm việc và 
xoay tròn trong 5 giây. Quá trình bơm rửa được 
sử dụng bằng kim bơm rửa nội nha số 27G 
(Ultra Dent). Đầu kim bơm rửa đặt thụ động 
trong ống tuỷ và cách chóp 3mm. Tất cả các răng 
được bơm rửa với 2ml dung dịch nước cất và lau 
khô bằng côn giấy để kết thúc quá trình làm sạch 
calcium hydroxide. 
Chuẩn bị mẫu để quan sát dưới kính hiển 
vi nổi 
Dùng đĩa cắt kim cương cắt bỏ phần thân 
răng ở đường nối men-xê măng. Cắt răng theo 
chiều ngoài-trong sao cho không chạm vào ống 
tuỷ. Dùng đục men tách chân răng thành hai 
nửa. Dùng tăm bông làm sạch các mảnh vụn còn 
lại ở bề mặt chân răng(8). Chọn ngẫu nhiên 1/2 
chân răng để quan sát dưới kính hiển vi nổi ở độ 
phóng đại 30 lần. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Đánh giá lượng calcium hydroxide còn lại 
trên thành ống tủy ở mỗi phần ba thân răng theo 
thang điểm của Lambrianidis và cs (2006)(8). 
- Điểm số 1: không có calcium hydroxide ở 
thành ống tuỷ 
- Điểm số 2: calcium hydroxide phủ rải rác 
trên thành ống tuỷ 
- Điểm số 3: calcium hydroxide phủ thành 
các khối riêng biệt trên thành ống tủy 
- Điểm số 4: calcium hydroxide dày đặc trên 
thành ống tuỷ 
Điểm số trên mỗi một răng được tính bằng 
trung bình điểm số của 1/3 chóp, 1/3 giữa và 1/3 
cổ trên mỗi nửa chân răng. 
Phương pháp xử lý số liệu 
Dùng phần mềm SPSS 16.0 để xử lý thống kê 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Trung bình điểm số lượng calcium hydroxide 
còn lại của ba nhóm răng được bơm rửa bằng ba loại 
dung dịch bơm rửa NaOCl 2,5%, EDTA 17% và 
citric acid 10% 
Nhóm Giá trị nhỏ 
nhất 
Giá trị lớn 
nhất 
Trung 
bình±ĐLC 
NaOCl 2,5% 2,67 3,67 3,13±0,35 
EDTA 17% 2,00 2,67 2,36±0,33 
Citric acid 10% 2,00 2,67 2,23±0,27 
Trung bình điểm số lượng calcium 
hydroxide còn lại trên thành ống tủy của nhóm 
được bơm rửa bằng dung dịch NaOCl 2,5% cao 
nhất và nhóm được bơm rửa bằng dung dịch 
citric acid 10% thấp nhất. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 219
Bảng 2: So sánh hiêu quả làm sạch calcium hydroxide 
trong ống tủy của ba dung dịch NaOCl 2,5%, EDTA 
17% và citric acid 10% trên toàn bộ răng, ở 1/3 cổ, 
1/3 giữa và 1/3 chóp 
 Toàn bộ 
răng 
1/3 cổ 1/3 
giữa 
1/3 
chóp 
NaOCl/EDTA/Citric acida 0,000 0,056 0,008 0,000 
NaOCl/EDTAb 0,000 - 0,043 0,002 
NaOCl/citric acidb 0,000 - 0,019 0,000 
EDTA/citric acidb 0,393 - 1,000 0,739 
a: dùng phép kiểm Kruskal – Wallis; b: dùng phép kiểm 
Mann – Whitney U 
Hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong 
ống tủy của dung dịch EDTA 17% và dung dịch 
citric acid 10% tốt hơn có ý nghĩa so với dung 
dịch NaOCl 2,5%, đặc biệt ở 1/3 giữa và 1/3 chóp. 
Kết quả thống kê cho thấy hiệu quả làm sạch 
calcium hydroxide trong ống tủy dung dịch 
NaOCl 2,5% và dung dịch citric acid 10% ở 1/3 
chóp kém hơn có ý nghĩa so với 1/3 cổ và 1/3 
giữa. Hiệu quả làm sạch calcium hydroxide 
trong ống tủy của dung dịch dung dịch EDTA 
17% khác biệt có ý nghĩa giữa 1/3 chóp và 1/3 cổ. 
(A) (B) (C) 
Hình 1: Hình ảnh ống tủy sau khi được bơm rửa bằng ba loại dung dịch NaOCl 2,5%, EDTA 17% và citric acid 
10% với điểm số lượng calcium hydroxide còn lại trên mỗi phần ba chân răng (A): NaOCl 2,5% (B): EDTA 
17% (C): Citric acid 10% 
Bảng 3: So sánh hiệu quả làm sạch calcium hydroxide 
trong ống tủy giữa các phần ba chân răng của các 
dung dịch NaOCl 2,5%, EDTA 17% và citric acid 
10% 
 NaOCl EDTA Citric acid 
Cổ/giữa/chópc 0,000 0,030 0,041 
Cổ/giữad 0,102 0,564 1,000 
Cổ/chópd 0,040 0,038 0,046 
Giữa/chópd 0,009 0,063 0,046 
c: dùng phép kiểm Fredman; d: dùng phép kiểm Wilcoxon 
BÀN LUẬN 
Phương pháp nghiên cứu 
Lambrianidis và cs đưa ra hai phương pháp 
đánh giá hiệu quả làm sạch calcium trên toàn bộ 
chân răng là tỉ lệ phần trăm diện tích bề mặt 
chân răng bao phủ bởi calcium hydroxide 
(Lambrianidis và cs (1999)(9)) và số lượng calcium 
hydroxide còn lại trên thành ống tủy 
(Lambrianidis và cs (2006)(8)). Chúng tôi sử dụng 
thang điểm của Lambrianidis và cs (2006) bởi 
thang điểm này có nhiều ưu điểm. Thang điểm 
của Lambrianidis (1999) có hạn chế là khó phân 
biệt calcium hydroxide còn lại trên thành ống 
tủy và một vài vùng ngà ống tủy do có màu 
tương tự nhau. Thang điểm của Lambrianidis 
(2006), đánh giá hiệu quả làm sạch calcium 
hydroxide trong ống tủy dựa vào nhóm calcium 
hydroxide còn lại do đó khắc phục được nhược 
điểm của thang điểm của Lambrianidis và cs 
(1999). Đồng thời theo nhóm nghiên cứu thì 
phương pháp đánh giá này đáng tin cậy. 
2 
2 
3 
3 
2 
3 
4 
2 
3 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 220
Kết quả nghiên cứu 
Hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong 
ống tủy trên toàn bộ chân răng của hai dung 
dịch EDTA 17% và citric acid 10% khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu 
của Rödig và cs (2010)(11), De-Deus và cs (2006)(4), 
De-Deus và cs (2008)(5) và Scelza và cs (2003)(13). 
De-Deus và cs (2006) và De-Deus và cs (2008) 
kết luận hiệu quả khử khoáng đối với ngà răng 
của các dung dịch EDTA 17% và citric acid 10% 
tùy thuộc vào thời gian trong 180 giây đầu tiên 
thì dung dịch EDTA 17% khử khoáng chậm hơn 
dung dịch citric acid 1%. Tuy nhiên ở thời điểm 
300 giây thì dung dịch citric acid và EDTA khử 
khoáng như nhau(4,5). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi 
làm sạch calcium hydroxide bằng cách bơm 
rửa với dung dịch citric acid 10% và EDTA 
17% trong thời gian hơn 180 giây, kết quả hiệu 
quả làm sạch khác nhau không ý nghĩa tuy 
nhiên điểm số trung bình lượng calcium còn 
lại trên thành ống tủy của nhóm răng bơm rửa 
bằng dung dịch citric acid 10% thấp hơn so với 
trung bình điểm số lượng calcium hydroxide 
còn lại của nhóm răng bơm rửa bằng dung 
dịch EDTA 17%. 
Nhiều báo cáo cũng khẳng định hiệu quả 
khử khoáng của citric acid liên quan đến sự hình 
thành phức hợp giữa citric acid và calcium, sự 
hình thành phức hợp citric acid và calcium tốt 
hơn so với sự hình thành phức hợp giữa EDTA 
và calcium(13). 
Khác với kết quả của chúng tôi có Nandini 
và cộng sự (2006)(10). Sự khác biệt này có thể do: 
(1) phương pháp bơm rửa: nghiên cứu của 
chúng tôi, bơm rửa bằng kim bơm rửa nội nha 
27G (Ultra Dent) trong thời gian hơn 3 phút. 
Trong nghiên cứu của Nandini và cs bơm rửa 
bằng siêu âm trong thời gian 1 phút. (2) phương 
pháp đánh giá hiệu quả làm sạch calcium 
hydroxide trong ống tủy: Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, đánh giá hiệu quả làm sạch calcium 
hydroxide dựa vào sự hiện diện của nhóm 
calcium hydroxide còn lại trên thành ống tủy. 
Ngược lại, trong nghiên cứu của Nandini và 
cộng sự, dựa vào tỉ lệ phần trăm calcium 
hydroxide trong ống tủy được lấy đi. 
Hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong 
ống tủy trên toàn bộ chân răng của dung dịch 
NaOCl 2,5% kém hơn dung dịch EDTA 17% và 
citric acid 10%. Kết quả của chúng tôi phù hợp 
với các kết quả của Rödig và cs (2010). Hiệu quả 
làm sạch calcium hydroxide cũng như lớp mùn 
hạn chế do NaOCl không có khả năng hoà tan 
các thành phần vô cơ như là calcium(11). 
So sánh giữa 1/3 cổ, 1/3 giữa và 1/3 chóp 
của từng dung dịch bơm rửa NaOCl 2,5%, 
EDTA 17% và citric acid 10% thì hiệu quả làm 
sạch calcium hydroxide trong ống tủy của cả 
ba dung dịch giảm dần từ cổ răng xuống chóp, 
trong đó 1/3 chóp là vùng làm sạch kém nhất. 
Nghiên cứu của chúng tôi cùng kết quả với 
nghiên cứu của da Silva và cs (2011)(3). Điều 
này có thể được có thể được giải thích bằng 
các lý do sau đây: (1) ở 1/3 cổ và 1/3 giữa chân 
răng kích thước ống tủy lớn ơn và giảm dần 
về phía chóp nên 1/3 giữa và 1/3 cổ chân răng 
cho phép dung dịch bơm rửa lưu thông tốt 
hơn so với 1/3 chóp chân răng(1). (2) theo 
Sedgley và cộng sự (2005) độ sâu của kim bơm 
rửa đặt trong ống tuỷ, là yếu tố quan trọng(15) . 
Như vậy khi đặt kim sâu hơn thì khả năng làm 
sạch vùng chóp tốt hơn. Tuy nhiên, trong thực 
hành lâm sàng, nếu đặt kim bơm rửa ở gần 
chóp chân răng sẽ có nguy cơ cao làm tổn 
thương mô quanh chóp vì dung dịch bơm rửa 
có thể thoát ra khỏi lỗ chân răng. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, đầu kim bơm rửa 
đặt cách lỗ chóp 3mm. (3) một vài nghiên cứu 
cũng cho thấy bọt khí ngăn cản dung dịch 
bơm rửa thấm vào vùng chóp(16). 
KẾT LUẬN 
Không có dung dịch bơm rửa nào trong ba 
dung dịch NaOCl 2,5%, EDTA 17% và citric acid 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 221
10% có thể làm sạch hoàn calcium hydroxide 
trong ống tủy. 
Hiệu quả làm sạch calcium hydroxide trong 
ống tủy của dung dịch EDTA 17% và citric acid 
10% tốt hơn so với dung dịch NaOCl 2,5%, đặc 
biệt ở 1/3 giữa và 1/3 chóp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ballal NV, Kandian S, Mala K, Bhat KS, Acharya S. (2009). 
“Comparison of the efficacy of maleic acid and 
ethylenediaminetetraacetic acid in smear layer removal from 
instrumented human root canal: a scanning electron 
microscopic study”. J Endod, 35(11):1573-6. 
2. Çalt S and Serper A (1999). ”Dentinal tubule penetration of 
root canal sealers after root canal dressing with calcium 
hydroxide”. J Endod, 25(6):431-3. 
3. Da Silva JM, Silveira A, Santos E, Prado L, Pessoa OF. (2011). 
“Efficacy of sodium hypochlorite, ethylenediaminetetraacetic 
acid, citric acid and phosphoric acid in calcium hydroxide 
removal from the root canal: a microscopic cleanliness 
evaluation”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol 
Endod, 112(6):820-4. 
4. De-Deus G, Paciornik S, Pinho Mauricio MH, Prioli R. (2006). 
“Real-time atomic force microscopy of root dentine during 
demineralization when subjected to chelating agents”. Int 
Endod J, 39(9):683-92. 
5. De-Deus G, Reis C, Fidel S, Fidel RA, Paciornik S. (2008). 
“Longitudinal and quantitative evaluation of dentin 
demineralization when subjected to EDTA, EDTAC, and citric 
acid: a co-site digital optical microscopy study”. Oral Surg 
Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod, 105(3):391-7. 
6. Kakehashi S, Stanley HR, Fitzgerald RJ. (1965). “The 
effects of surgical exposures of dental pulps in germ-free and 
conventional laboratory rats”. Oral Surg Oral Med Oral 
Pathol, 20, pp:340-9. 
7. Kim SK and Kim YO (2002). “Influence of calcium hydroxide 
intracanal medication on apical seal”. Int Endod J, 35(7):623-8. 
8. Lambrianidis T, Kosti E, Boutsioukis C, Mazinis M. (2006). 
“Removal efficacy of various calcium 
hydroxide/chlorhexidine medicaments from the root canal”. 
Int Endod J, 39(1):55-61. 
9. Lambrianidis T, Margelos J, Beltes P. (1999). “Removal 
efficiency of calcium hydroxide dressing from the root canal”. 
J Endod, 25(2):85-8. 
10. Nandini S, Velmurugan N, Kandaswamy D. (2006). “Removal 
efficiency of calcium hydroxide intracanal medicament with 
two calcium chelators: volumetric analysis using spiral CT, an 
in vitro study”. J Endod, 32(11):1097-101. 
11. Rödig T, Vogel S, Zapf A, Hülsmann M. (2010). “Efficacy of 
different irrigants in the removal of calcium hydroxide from 
root canals”. Int Endod J, 43(6):519-27. 
12. Salgado RJ, Moura-Netto C, Yamazaki AK, Cardoso LN, de 
Moura AA, Prokopowitsch I. (2009). “Comparison of different 
irrigants on calcium hydroxide medication removal: 
microscopic cleanliness evaluation”. Oral Surg Oral Med Oral 
Pathol Oral Radiol Endod, 107(4):580-4. 
13. Scelza MF, Teixeira AM, and Scelza P (2003). “Decalcifying 
effect of EDTA-T, 10% citric acid, and 17% EDTA on root 
canal dentin”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol 
Endod, 95(2):234-6. 
14. Schneider SW (1971). “A comparison of canal preparations in 
straight and curved root canals". Oral Surg Oral Med Oral 
Pathol, 32(2):271-5. 
15. Sedgley CM, Nagel AC, Hall D, Applegate B (2005). 
“Influence of irrigant needle depth in removing 
bioluminescent bacteria inoculated into instrumented root 
canals using real-time imaging in vitro”. Int Endod J, 38(2):97-
104. 
16. Zehnder M (2006). “Root canal irrigants”. J Endod, 32(5):389-
98. 
Ngày nhận bài báo: 10/01/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 13/01/2014 
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_lam_sach_calcium_hydroxide_trong_ong_tuy_c.pdf