Đánh giá tính đa dạng nguồn cây thuốc quý hiếm thuộc diện bảo tồn ở tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi Đông Bắc Việt Nam, đƣợc thiên nhiên ƣu đãi về vị trí
địa lý và điều kiện tự nhiên nên nơi đây có hệ thực vật phong phú, đặc biệt là thực vật làm thuốc.
Tuy nhiên, những năm gần đây do khai thác chƣa hợp lý nên nguồn dƣợc liệu quý đang ngày càng
cạn kiệt, nhiều loài đã tuyệt chủng hoặc bị đe doạ tuyệt chủng. Để có cơ sở khoa học trong công
tác bảo tồn và nâng cao sự quan tâm của mọi ngƣời với việc gìn giữ, phát triển nguồn tài nguyên
cây thuốc quý tại Thái Nguyên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và thu đƣợc 24 cây thuốc quý
thuộc 18 chi, 17 họ của 2 ngành thực vật bậc cao có mạch (Polypodiophyta và Magnoliophyta)
nằm trong diện cần bảo vệ theo Sách đỏ Việt Nam (2007) [2], Nghị định 32/2006/NĐ – CP [4] và
Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam của Nguyễn
Tập (2006) [7]. Trong đó, ngành Mộc lan có 22 loài thuộc 17 chi, 16 họ và ngành Dƣơng xỉ có 2
loài thuộc 1 họ, 1 chi.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tính đa dạng nguồn cây thuốc quý hiếm thuộc diện bảo tồn ở tỉnh Thái Nguyên
Lê Thị Thanh Hƣơng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 90(02): 9 - 14 9 ĐÁNH GIÁ TÍNH ĐA DẠNG NGUỒN CÂY THUỐC QUÝ HIẾM THUỘC DIỆN BẢO TỒN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN Lê Thị Thanh Hƣơng1*, Trần Thị Ngọc Anh1, Nguyễn Thị Ngọc Yến1 Nguyễn Trung Thành2, Nguyễn Nghĩa Thìn2 1Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên 2Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội TÓM TẮT Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi Đông Bắc Việt Nam, đƣợc thiên nhiên ƣu đãi về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nên nơi đây có hệ thực vật phong phú, đặc biệt là thực vật làm thuốc. Tuy nhiên, những năm gần đây do khai thác chƣa hợp lý nên nguồn dƣợc liệu quý đang ngày càng cạn kiệt, nhiều loài đã tuyệt chủng hoặc bị đe doạ tuyệt chủng. Để có cơ sở khoa học trong công tác bảo tồn và nâng cao sự quan tâm của mọi ngƣời với việc gìn giữ, phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc quý tại Thái Nguyên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và thu đƣợc 24 cây thuốc quý thuộc 18 chi, 17 họ của 2 ngành thực vật bậc cao có mạch (Polypodiophyta và Magnoliophyta) nằm trong diện cần bảo vệ theo Sách đỏ Việt Nam (2007) [2], Nghị định 32/2006/NĐ – CP [4] và Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam của Nguyễn Tập (2006) [7]. Trong đó, ngành Mộc lan có 22 loài thuộc 17 chi, 16 họ và ngành Dƣơng xỉ có 2 loài thuộc 1 họ, 1 chi. Từ khóa: Thái Nguyên, đa dạng, tài nguyên, cây thuốc quý hiếm. ĐẶT VẤN ĐỀ* Thái Nguyên có diện tích tự nhiên trên 3.540 km 2, bao gồm 9 đơn vị hành chính: thành phố Thái Nguyên; thị xã Sông Công và 7 huyện: Phổ Yên, Phú Bình, Đồng Hỷ, Võ Nhai, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lƣơng. Trong tổng số 180 xã có 125 xã vùng cao và miền núi, còn lại là các xã đồng bằng và trung du. Diện tích rừng tự nhiên của tỉnh là 102.190 ha, thuận lợi cho sự phát triển của cây thuốc. Đồng thời, Thái Nguyên là nơi tập trung nhiều đồng bào dân tộc cùng sinh sống nhƣ: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu, Sán Chay mỗi dân tộc đều có những tri thức riêng trong việc sử dụng cây thuốc chữa bệnh. Vì vậy, việc nghiên cứu cây thuốc quý tại Thái Nguyên có vai trò rất quan trọng trong công tác nâng cao nhận thức cộng đồng và góp phần bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp điều tra phỏng vấn: Phỏng vấn ngƣời dân đặc biệt là các ông lang bà mế ngƣời dân tộc Dao, Tày, Nùng, Sán Chay * Tel: 0988478975; Email: lehuonga1k52@gmail.com và những ngƣời dân có kinh nghiệm về sử dụng cây thuốc ở các huyện của tỉnh Thái Nguyên. Phương pháp thu thập và xử lý mẫu vật: Tiến hành thu thập các cây thuốc quý theo sự chỉ dẫn của các thầy thuốc bản địa và theo danh lục đã phỏng vấn tại các xã trong huyện Đại Từ, Phú Lƣơng, Đồng Hỷ, Định Hoá, Võ Nhai của tỉnh Thái Nguyên. Thời gian thu mẫu từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 1 năm 2012. Xử lý mẫu thu đƣợc và xác định đƣợc tên khoa học của 24 loài cây thuốc quý tại Phòng thí nghiệm của khoa Khoa học Sự sống – Trƣờng Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên. Phương pháp phân tích và phân loại mẫu: Phân loại mẫu dựa trên phƣơng pháp hình thái truyền thống, kết hợp với kinh nghiệm của các chuyên gia và các bộ Thực vật chí chuyên ngành nhƣ: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 1999-2000) [5]; Iconographia Cormophytorum Sinicorum (ICS, 1972-1976) [6]; Từ điển cây thuốc (Võ Văn Chi, 1996) [3]; Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005) [8]; Danh lục các loài thực vật Việt Nam (2001 – 2005) [10], Sách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lê Thị Thanh Hƣơng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 90(02): 9 - 14 10 đỏ Việt Nam – Phần II Thực vật (2007) [2], Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I-II (Đỗ Huy Bích và cộng sự, 2006) [1] Tiến hành xác định tên khoa học và lập danh lục cây thuốc quý hiếm tại Thái Nguyên. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc: Đánh giá dựa trên phƣơng pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn trong “Các phƣơng pháp nghiên cứu thực vật” (2007) [9]. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp: Theo Sách đỏ Việt Nam (2007) [2], Nghị định 32/2006/NĐ – CP [4] và Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam của Nguyễn Tập (2006) [7]. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Sự đa dạng về thành phần loài cây thuốc quý hiếm tại Thái Nguyên Tỉnh Thái Nguyên là nơi có hệ sinh thái đa dạng và có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Ngƣời dân nơi đây, từ xa xƣa đã biết sử dụng cây cỏ làm thuốc. Qua điều tra nghiên cứu, chúng tôi đã xác định đƣợc tại khu vực nghiên cứu có 24 loài cây thuốc thuộc diện bảo tồn đƣợc sử dụng chữa bệnh thuộc 2 ngành thực vật bậc cao có mạch và phân bố trong các bậc taxon thể hiện ở bảng 1. Theo thống kê ở bảng 1, sự phân bố ở các loài cây thuốc ở từng ngành là không đồng đều, các taxon tập trung chủ yếu trong ngành Mộc lan (Magnoliophyta) với 16 họ, 17 chi, 22 loài, chiếm số lƣợng tƣơng ứng là 94,12%; 94,44%; 91,67% tổng số họ, chi, loài thực vật làm thuốc của khu vực nghiên cứu. Ngành Dƣơng xỉ (Polypodiophyta) có 1 họ, 1 chi, 2 loài. Ngành Mộc lan bao gồm lớp Mộc lan (Magnoliopsida) và lớp Hành (Liliopsida) có sự đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu: Lớp Mộc lan (Magnoliopsida) có 11 họ, 12 chi, 17 loài chiếm tỷ lệ tƣơng ứng 64,71%; 66,67%; 70,83%. Lớp Hành (Liliopsida) chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ với 5 họ chiếm 29,41%; 5 chi chiếm 27,78%; 5 loài chiếm tỷ lệ 20,83% so với tổng số họ, chi, loài trong ngành Mộc lan. Trong 17 họ thực vật có kể trên có 3 họ là Menispermaceae, Aristolochiaceae và Polypodiaceae có nhiều loài nhất (chiếm 17,65% tổng số họ). Trong đó, họ Menispermaceae có 5 loài chiếm 20,83% tổng số loài; 2 họ Aristolochiaceae và Polypodiaceae mỗi họ có 2 loài chiếm 8,33% tổng số loài. Các họ còn lại chỉ phát hiện đƣợc 1 loài chiếm 4,17% tổng số loài. Trong quá trình điều tra thu mẫu, chúng tôi nhận thấy hầu hết các mẫu cây thuốc thu đƣợc đều đƣợc các ông lang, bà mế ngƣời dân tộc Dao sử dụng chữa bệnh. Có thể nói ngƣời Dao không chỉ có nhiều nét đặc trƣng về văn hoá mà tri thức bản địa trong việc sử dụng cây cỏ làm thuốc của họ cũng rất độc đáo. Ngƣời Dao có cách gọi tên cây thuốc rất riêng trong đó thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa các đặc điểm của cây với bộ phận của cây đƣợc sử dụng để chữa bệnh nhƣ: những cây có từ “đòi” có nghĩa là củ sẽ dùng củ để chữa bệnh, ví dụ cây Hùng lìn đòi – Cốt khí củ (Reynoutria japonica Houtt.) dùng củ để chữa bệnh ung thƣ dạ con Đây là dấu hiệu rất riêng để nhận biết các cây có tác dụng làm thuốc thông qua tên gọi của ngƣời Dao. Bảng 1. Số loài cây thuốc quý hiếm đã phát hiện thấy ở Thái Nguyên TT Ngành và lớp Họ Chi Loài Số lƣợng Tỷ lệ (%) Số lƣợng Tỷ lệ (%) Số lƣợng Tỷ lệ (%) 1 Ngành Dƣơng xỉ (Polypodiophyta) 1 5,88 1 5,56 2 8,33 2 Ngành Mộc lan (Magnoliophyta) 16 94,12 17 94,44 22 91,67 Lớp Mộc lan (Magnoliopsida) 11 64,71 12 66,67 17 70,83 Lớp Hành (Liliopsida) 5 29,41 5 27,78 5 20,83 Tổng số 17 100 18 100 24 100 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lê Thị Thanh Hƣơng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 90(02): 9 - 14 11 Cách sử dụng các bộ phận của cây thuốc để chữa bệnh cũng nhƣ công dụng của cây thuốc theo kinh nghiệm của ngƣời Dao cũng có nét khác biệt với các tri thức của các dân tộc khác. Ví dụ: cây Bổ béo đen (Goniothalamus vietnamensis Ban) đƣợc ngƣời Dao sử dụng làm thuốc bổ, kích thích tiêu hoá, rễ để chữa vôi cột sống và có mùi thơm nên dùng trong các bài thuốc để tạo mùi vị đặc trƣng của thuốc nam; còn ngƣời Nùng tại Lâu Thƣợng - Võ Nhai sử dụng rễ cây này có tác dụng bổ máu. Cây Thiên kim đằng (Stephania japonica (Thunb.) Merr.) đƣợc ngƣời dân tộc Dao dùng củ, thái nhỏ làm thuốc chữa đau bụng, u nang buồng trứng, chữa vôi cột sống còn ngƣời dân tộc dân tộc Nùng tại Hoá Thƣợng - Đồng Hỷ sử dụng kết hợp với cây Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata (Burm. f.) Wall. ex Nees) để chữa các bệnh về tim mạch nhƣ hở van tim, hẹp van tim... Lá khôi (Ardisia silvestris Pitard) đƣợc ngƣời Tày dùng để chữa bệnh đau dạ dày nhƣng ngƣời Dao tại Thái Nguyên dùng làm vị thuốc trong bài thuốc chữa bệnh gan, bệnh tim, thiếu máu và là một vị thuốc quan trọng trong bài thuốc tắm đẻ cho phụ nữ mới sinh Bảng số liệu dƣới đây thể hiện rất rõ số loài cây thuốc quý đƣợc sử dụng theo kinh nghiệm của một số dân tộc tại Thái Nguyên. TT Số lƣợng Số loài Số chi Số họ Số ngành Dân tộc 1 Dao 18 16 12 2 2 Tày 12 11 10 2 3 Nùng 7 6 4 2 4 Sán Chay 5 4 3 2 Bảng 2. Số loài cây thuốc quý hiếm theo kinh nghiệm của các dân tộc ở KVNC Từ bảng số liệu trên cho thấy có 18 loài đƣợc sử dụng để làm thuốc theo kinh nghiệm ngƣời Dao chiếm tỉ lệ cao nhất (75%) so với tổng số loài. Ngƣời Dao cho rằng trên cây thì rễ là bộ phận có nhiều chất thuốc nhất. Do đó, hầu hết những cây thuốc trong các bài thuốc chữa bệnh của ngƣời Dao các thầy lang đều sử dụng rễ. Chính vì vậy, việc sử dụng cây thuốc chữa bệnh cần gắn liền với công tác bảo tồn nhƣ gây trồng, mở rộng các vƣờn thuốc gia đình... Tiếp đến đã thu thập đƣợc 12 loài đƣợc sử dụng làm thuốc theo kinh nghiệm của ngƣời Tày chiếm 50% tổng số loài; 7 loài đƣợc sử dụng theo kinh nghiệm của ngƣời Nùng và 5 loài đƣợc sử dụng theo kinh nghiệm của ngƣời Sán Chay. Mỗi dân tộc đều có những tri thức riêng trong việc sử dụng cũng nhƣ chế biến cây thuốc rất riêng và độc đáo. Đa dạng về dạng sống của các loài cây thuốc quý hiếm Dựa theo phƣơng pháp phân chia dạng sống của Nguyễn Nghĩa Thìn trong “Các phƣơng pháp nghiên cứu về thực vật” (2004) [9], chúng tôi đã chia thành các dạng sống nhƣ sau: Hp: Kí sinh (cây sống bám trên cây khác) Mi: Gỗ nhỏ (thân gỗ cao từ 2 – 8 m) Lp: Dây leo (thảo leo, gỗ leo, bụi leo) Na: Bụi, nửa bụi, bụi trƣờn (tối đa 2m) Th: Cỏ (cỏ 1 năm hoặc lâu năm) Các loại cây thuộc diện bảo tồn đƣợc đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên sử dụng làm thuốc có dạng sống rất đa dạng và phong phú. Nắm đƣợc đặc điểm về dạng sống giúp chúng ta có thể định hƣớng trong khai thác, sử dụng, bảo tồn và gây trồng nguồn dƣợc liệu quý giá này. Kết quả thống kê thể hiện ở bảng 4: Bảng 3. Dạng sống của các loài cây thuốc thuộc diện bảo tồn tại tỉnh Thái Nguyên Dạng sống Thân thảo (Th) Dây leo (Lp) Cây bụi (Na) Cây ký sinh (Hp) Gỗ nhỏ (Mi) Số lƣợng loài 10 9 2 2 1 Tỷ lệ (%) 41,67 37,5 8,33 8,33 4,17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lê Thị Thanh Hƣơng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 90(02): 9 - 14 12 Theo thống kê ở bảng 3, phần lớn cây thuốc thuộc diện bảo tồn đƣợc đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên sử dụng là dạng cây thân thảo (Th) với 10 loài chiếm 41,67% so với tổng số cây thuốc quý thu thập đƣợc trong khu vực nghiên cứu. Một số loài cây thuốc dạng thân thảo ở mức độ nguy cấp (EN) nhƣ Thuỷ xƣơng bồ lá to (Acorus macrospadiceus (Yam.) F. N. Wei & Y. K. Li) dùng tắm đẻ, Bát giác liên (Podophyllum tonkinense Gagnep.) chữa rắn cắn. Dạng dây leo có 9 loài chiếm 37,5% tập trung ở các họ: họ Đậu (Fabaceae), họ Tiết dê (Menispermanaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Mã tiền (Loginaceae), họ Rau răm (Polygonaceae). Đứng thứ ba là cây bụi và cây ký sinh có 2 loài chiếm tỷ lệ 8,33% tập trung ở họ Dƣơng xỉ (Polypodiaceae), họ Đơn men (Myrsinaceae) và họ Na (Annonaceae). Ở đây, các loài cây thuốc dạng gỗ nhỏ có 1 loài chiếm tỷ lệ thấp nhất 4,17%; đó là cây Rau sắng (Melientha suavis Pierri) thuộc họ Sơn cam (Opiliaceae), đƣợc ngƣời dân tộc Tày (xã Linh Thông, huyện Đại Từ) dùng để nấu canh ăn giúp giải nhiệt. Việc sử dụng những cây thuốc vào mục đích chữa bệnh chủ yếu tập trung vào những cây dễ thu hái nhƣ dạng leo (Lp) hoặc cây thân thảo (Th), cây gỗ nhỏ (Mi) hay dạng kí sinh (Hp) với tỷ lệ khác nhau. Từ kết quả trên cho thấy, vấn đề sử dụng các dạng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của đồng bào dân tộc tại tỉnh Thái Nguyên rất phong phú và đa dạng. Đa dạng về môi trƣờng sống của thực vật làm thuốc Căn cứ vào địa hình, đất đai, khí hậu và sự phân bố của các loài cây thuốc trên thực tế ở khu vực nghiên cứu, chúng tôi chia ra các môi trƣờng sống nhƣ sau: Sống ở núi đá (Nu): Cây sống trên núi đá Sống ở rừng (Ru): Cây sống ở rừng rậm, rừng thứ sinh, ven rừng Sống ở đồi (Đ): Cây sống ở đồi, đồi hoang, trảng bụi, ven đƣờng Sống ở vƣờn (K): Cây sống ở vƣờn, bờ ao, quanh làng bản Qua bảng 4 cho thấy, ở khu vực nghiên cứu có 15 loài cây thuốc sống ở vƣờn, quanh thôn xóm chiếm tỉ lệ cao nhất so với tổng số loài (62,5%) do ngƣời dân mang về nhà trồng, phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh bằng thuốc nam. Sự phân bố này trên thực tế là hợp lý vì ngày nay do nhiều nguyên nhân khác nhau diện tích rừng tự nhiên đang suy giảm làm mất đi môi trƣờng sống của nhiều cây thuốc. Vì vậy, các ông lang, bà mế thƣờng lấy các cây thuốc từ rừng về trồng tại vƣờn nhà, quanh thôn bản. Sau đó là loài sống ở rừng có 13 loài chiếm 54,17%. Hầu hết, các cây thuốc có môi trƣờng sống ở trong rừng thƣờng khó gây trồng ở vƣờn nhà mà chỉ chúng chỉ thích hợp với môi trƣờng sống tự nhiên hoang dã. Các loài sống ở đồi đứng thứ 3 về số lƣợng chiếm 37,5% (gồm 9 loài trên tổng số 24 loài cây thuốc) do diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp, thay vào đó là các đồi bị bỏ hoang hoặc đƣợc trồng để thay thế các cây khác lên cây thuốc còn đƣợc mọc chủ yếu trên các đồi. Môi trƣờng sống ở núi đá có 2 loài cây thuốc, chiếm 8,33% chủ yếu là các loài sống leo bám trên núi đá nhƣ Tắc kè đá (Drynaria bonii H. Christ). Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc Các cây thuốc quý đƣợc các đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Thái Nguyên khá đa dạng và phong phú về bộ phận sử dụng đƣợc thể hiện ở bảng sau: Bảng 4. Sự phân bố môi trường sống của các loài cây thuốc quý hiếm TT Môi trƣờng sống Số loài Tỷ lệ (%) so với tổng số loài 1 Sống ở vƣờn (K) 15 62,5 2 Sống ở rừng (Ru) 13 54,17 3 Sống ở đồi (Đ) 9 37,5 4 Sống ở núi đá (Nu) 2 8,33 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lê Thị Thanh Hƣơng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 90(02): 9 - 14 13 Bảng 5. Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc của các loài cây thuốc quý hiếm TT Bộ phận sử dụng Số loài Tỷ lệ % so với tổng số loài 1 Rễ 10 41,67 2 Cả cây 6 25 3 Lá 4 16,67 4 Thân 1 4,17 Từ bảng 5 cho thấy, rễ của các cây thuốc quý hiếm là bộ phận đƣợc sử dụng nhiều nhất với 10 loài (chiếm 41,67%) và dùng cả cây có 6 loài (chiếm 25%). Việc sử dụng cả cây hoăc rễ cây thuốc sẽ ảnh hƣởng rất nhiều đến số lƣợng cá thể các loài cây thuốc quý, gây khó khăn cho công tác bảo tồn. Do đó, cần có biện pháp gây trồng các cây thuốc sử dụng rễ và cả cây nhằm mục đích bảo tồn và phát triển bền vững nguồn dƣợc liệu. Ngoài ra, dùng các bộ phận khác nhƣ lá có 4 loài chiếm 16,67%, dùng thân có 1 loài chiếm 4,17%. Mỗi loại cây thuốc sẽ có những cách chế biến khác nhau tuỳ từng dân tộc, tuỳ theo cách chữa của từng ông lang, bà mế và tuỳ thuộc vào tình trạng của bệnh nhân. Trong đó, phƣơng pháp thái lát mỏng, phơi khô, đun nƣớc uống đƣợc sử dụng nhiều nhất. Ngoài ra, có thể ngâm rƣợu uống và xoa bóp nhƣ Thiên niên kiện lá to (Homalomena gigantea Engl.) hoặc có thể dùng tƣơi để đun nƣớc tắm, xông hơi nhƣ Thủy xƣơng bồ lá to (Acorus macrospadiceus (Yam.) F. N. Wei & Y. K. Li.) KẾT LUẬN Qua điều tra xác định đƣợc 24 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc diện cần bảo vệ, thuộc 18 chi, 17 họ thực vật của 2 ngành thực vật bậc cao có mạch đƣợc các đồng bào dân tộc tại tỉnh Thái Nguyên dùng làm thuốc chữa bệnh. Trong đó, ngành Mộc lan có 16 họ, 17 chi và 22 loài và ngành Dƣơng xỉ có 1 họ, 1 chi, 2 loài. Dạng sống của cây thuốc quý chủ yếu là cây thân thảo với 10 loài chiếm 41,67 % tổng số loài. Tiếp theo là dạng dây leo (Lp) có 9 loài chiếm 37,5 % tổng số loài; cây bụi (Na) và cây kí sinh đều có 2 loài chiếm 8,33 % tổng số loài. Cuối cùng là dạng cây gỗ nhỏ chỉ có 1 loài chiếm 4,17 % tổng số loài. Môi trƣờng sống của cây thuốc tập trung chủ yếu tại vƣờn và trong rừng. Số cây thuốc sống trong vƣờn chiếm tỉ lệ cao nhất so với tổng số loài (15 loài). Có 13 loài sống trong rừng; 9 loài sống ở đồi và 2 loài có môi trƣờng sống trên núi đá. Sự đa dạng về bộ phận sử dụng và cách dùng cây thuốc quý theo kinh nghiệm của các dân tộc tại Thái Nguyên khá phong phú. Rễ là bộ phận đƣợc sử dụng nhiều nhất với 10 loài chiếm 41,76 % tổng số loài. Dùng cả cây có 6 loài; dùng lá có 4 loài; dùng thân có 1 loài. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Trung, Bùi Xuân Chƣơng, Nguyễn Thƣợng Dong, Đỗ Trung Đàn, Phạm Văn Hiển, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim Mẫn, Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Toàn – Viện Dƣợc liệu (2006), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Tập I-II, Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội. [2]. Bộ khoa học và công nghệ, viện khoa học và công nghệ Việt Nam (2007), Sách đỏ Việt Nam, Phần II - Thực Vật, Nxb Khoa học tự nhiên và công nghệ Hà Nội. [3]. Võ Văn Chi (1996), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội. [4]. Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam (2006), Nghị định 32/2006/CP-NĐ về Nghiêm cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động thực vật hoang dã (13 trang). [5]. Phạm Hoàng Hộ (1999 – 2000), Cây cỏ Việt Nam, tập 1 – 3, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. [6] South – Wester Forestry College, Forestry Departmen of Yunnan province, Iconographia Cormophytorum Sinicorum – ICS, Tomus I – V, Science Publisher, Beijing (1972 – 1976). [7]. Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam, Nxb Mạng lƣới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội. [8]. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, in lần thứ 13, Nxb Y học Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lê Thị Thanh Hƣơng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 90(02): 9 - 14 14 [9]. Nguyễn Nghĩa Thìn (2007), Các phương pháp nghiên cứu thực vật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [10]. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trƣờng – Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia (2001 – 2005), Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập 1 – 3, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. SUMMARY EVALUATING THE DIVERSITY OF PRECIOUS AND RARE MEDICAL PLANT SUBJECT TO CONSERVATION IN THAI NGUYEN Le Thi Thanh Huong 1* , Tran Thi Ngoc Anh 1 , Nguyen Thi Ngoc Yen 1 Nguyen Trung Thanh 2 , Nguyen Nghia Thin 2 1College of Sciences – Thai Nguyen University 2Hanoi University of Science – Vietnam National University Thai Nguyen is a mountainous province northeast central Viet Nam, was blessed on geographic location and natural conditions here are so rich flora, especially medicinal plants. However, in recent years by exploiting a source of irrational medicine you are becoming exhausted, many species have become extinct or threatened with extinction. For the scientific basis of conservation and improve people's attention to the preservation and development of precious resources of medicinal plants in Thai Nguyen, we have conducted research and collected 24 medicinal plants of 18 genera, 17 families of the 2 branches of vascular plants (Polypodiophyta, Magnoliophyta) are in need of protection by the Vietnam Red Book (2007) [2], Decree 32/2006/ND - CP [4] and list red medicinal plants in Vietnam Handbook of medicinal plants to be protected in Vietnam's Nguyen Tap (2006) [7]. In particular, Magnoliophyta branches are 22 species of 17 genera 16 families and Polypodiophyta branches only 2 species of 1 family, 1 genus. Key words: Thai Nguyen, diverse, resources, rare medicinal plants * Tel: 0988478975; Email: lehuonga1k52@gmail.com Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
File đính kèm:
- danh_gia_tinh_da_dang_nguon_cay_thuoc_quy_hiem_thuoc_dien_ba.pdf