Đánh giá tình hình tuân thủ điều trị thuốc kháng retrovirus ở bệnh nhi nhiễm HIV / AIDS tại Bệnh viện nhi đồng 1

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV ở trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại bệnh viện Nhi đồng 1

năm 2008 và tìm sự liên quan giữa việc tuân thủ điều trị với một số yếu tố dịch tễ, lâm sàng của bệnh nhi và một số yếu tố dịch tễ, tâm lý xã hội của người chăm sóc của bệnh nhi.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Phỏng vấn trực tiếp người nuôi dưỡng trẻ theo bản câu hỏi

sọan sẵn và tham khảo hồ sơ bệnh án để đánh giá sự tuân thủ và các yếu tố có liên quan đến sự tuân thủ. Đốitượng nghiên cứu gồm các bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị với thuốc ARV tại Phòng khám B7

Bệnh viên Nhi Đồng I TP Hồ Chí Minh và người chăm sóc của các bệnh nhi này.

Kết quả: Có 213 bệnh nhi và người chăm sóc được đưa vào nghiên cứu. Qua phỏng vấn, kết quả cho thấy,

tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong 3 ngày qua là 94,4% và tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong thời

gian điều trị ARV là 73,2%. Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV theo ghi nhận từ hồ sơ bệnh án là 74,6%. Tỷ lệ

bệnh nhi có tuân thủ điều trị thuốc ARV theo sự kết hợp của 3 điều kiện nêu trên là 57,7%.

Các yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê với sự tuân thủ điều trị khi phân tích đơn biến là: thời gian điều

trị ARV của bệnh nhi, phác đồ ARV bệnh nhi đang dùng, số lượng thuốc ARV dạng si-rô bệnh nhi uống mỗi

ngày, số lượng những khó khăn của người chăm sóc khi cho trẻ uống thuốc ARV. Các yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê với sự tuân thủ điều trị khi phân tích đa biến là: thời gian điều trị ARV của bệnh nhi, số lượng những khó khăn của người chăm sóc khi cho trẻ uống thuốc ARV.

Kết luận: Tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV ở trẻ em là khá thấp. Thời gian điều trị càng dài, khả năng tuân thủ

càng thấp. Người chăm sóc trẻ có càng nhiều khó khăn thì khả năng tuân thủ càng thấp. Những bệnh nhi điều trị ARV lâu dài nên được tìm hiểu những khó khăn phát sinh trong việc cho bệnh nhi uống thuốc ARV và người chăm sóc cần được giúp đỡ giải quyết những khó khăn đó. Việc tham vấn tuân thủ trước và trong khi điều trị thuốc ARV nên thực hiện theo đúng quy trình và thời gian của chương trình phòng chống AIDS quốc gia

pdf 9 trang dienloan 5260
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tình hình tuân thủ điều trị thuốc kháng retrovirus ở bệnh nhi nhiễm HIV / AIDS tại Bệnh viện nhi đồng 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tình hình tuân thủ điều trị thuốc kháng retrovirus ở bệnh nhi nhiễm HIV / AIDS tại Bệnh viện nhi đồng 1

Đánh giá tình hình tuân thủ điều trị thuốc kháng retrovirus ở bệnh nhi nhiễm HIV / AIDS tại Bệnh viện nhi đồng 1
Chuyên Đề Nhi Khoa 1 
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ THUỐC KHÁNG 
RETROVIRUS Ở BỆNH NHI NHIỄM HIV/AIDS TẠI BỆNH VIỆN NHI 
ĐỒNG 1 
Mai Đào Ái Như*, Đòan Thị Ngọc Diệp**, Trương Hữu Khanh*** 
TÓM TẮT 
Tuân thủ điều trị là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của việc điều trị thuốc 
ARV. Không tuân thủ điều trị sẽ dẫn đến tình trạng kháng thuốc của HIV. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV ở trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại bệnh viện Nhi đồng 1 
năm 2008 và tìm sự liên quan giữa việc tuân thủ điều trị với một số yếu tố dịch tễ, lâm sàng của bệnh nhi và một 
số yếu tố dịch tễ, tâm lý xã hội của người chăm sóc của bệnh nhi. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Phỏng vấn trực tiếp người nuôi dưỡng trẻ theo bản câu hỏi 
sọan sẵn và tham khảo hồ sơ bệnh án để đánh giá sự tuân thủ và các yếu tố có liên quan đến sự tuân thủ. Đối 
tượng nghiên cứu gồm các bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị với thuốc ARV tại Phòng khám B7 – 
Bệnh viên Nhi Đồng I TP Hồ Chí Minh và người chăm sóc của các bệnh nhi này. 
Kết quả: Có 213 bệnh nhi và người chăm sóc được đưa vào nghiên cứu. Qua phỏng vấn, kết quả cho thấy, 
tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong 3 ngày qua là 94,4% và tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong thời 
gian điều trị ARV là 73,2%. Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV theo ghi nhận từ hồ sơ bệnh án là 74,6%. Tỷ lệ 
bệnh nhi có tuân thủ điều trị thuốc ARV theo sự kết hợp của 3 điều kiện nêu trên là 57,7%. 
Các yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê với sự tuân thủ điều trị khi phân tích đơn biến là: thời gian điều 
trị ARV của bệnh nhi, phác đồ ARV bệnh nhi đang dùng, số lượng thuốc ARV dạng si-rô bệnh nhi uống mỗi 
ngày, số lượng những khó khăn của người chăm sóc khi cho trẻ uống thuốc ARV. Các yếu tố có liên quan có ý 
nghĩa thống kê với sự tuân thủ điều trị khi phân tích đa biến là: thời gian điều trị ARV của bệnh nhi, số lượng 
những khó khăn của người chăm sóc khi cho trẻ uống thuốc ARV. 
Kết luận: Tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV ở trẻ em là khá thấp. Thời gian điều trị càng dài, khả năng tuân thủ 
càng thấp. Người chăm sóc trẻ có càng nhiều khó khăn thì khả năng tuân thủ càng thấp. Những bệnh nhi điều trị 
ARV lâu dài nên được tìm hiểu những khó khăn phát sinh trong việc cho bệnh nhi uống thuốc ARV và người 
chăm sóc cần được giúp đỡ giải quyết những khó khăn đó. Việc tham vấn tuân thủ trước và trong khi điều trị 
thuốc ARV nên thực hiện theo đúng quy trình và thời gian của chương trình phòng chống AIDS quốc gia. 
ABSTRACT 
ADHERENCE TO ANTIRETROVIRAL THERAPY (ART) IN HIV/AIDS PATIENTS 
AT CHILDREN HOSPITAL 1 
Mai Dao Ai Nhu, Doan Thi Ngoc Diep, Truong Huu Khanh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 212 - 218 
Backround: Adherence to ART is essential for therapy success. 
Objectives: Determine the rate of adherence to ART in HIV/AIDS patients in Children Hospital 1 and the 
corelation between the socio- psychological factors of patients and care-givers and the adherence. 
Methode: Cross-sectional study, interviewing the care-givers with the questionnaires and to refer to the 
* Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, ** Đại học Y Dược TP HCM, 
*** Khoa Nhiễm - Thần Kinh, BV Nhi Đồng 1 
Chuyên Đề Nhi Khoa 2 
medical records to determine the adherence and the determinants of the adherence 
Results: There were 213 HIV/AIDS children and their care-givers enrolled to the study. Adherence rate to 
ART is 94.4% when interviewing care-givers about adherence in the past three days. Adherence rate is 73.2% 
when interviewing care-givers about adherence during the ART time of patients. Adherence rate is 74.6% when 
assessing the comments on adherence in patients’records. Adherence rate is 57.7% when combining three 
conditions. The factos associate with adherence are: length of ART time of patients, ART regimen of patients, 
quantity of daily antiretroviral sirop of patients, quantity of difficulties of care-givers when giving ART to 
patients. The factors associate with adherence on logistic regression analysis are: length of ART time of patients, 
quantity of difficulties of care-givers when giving ART to patients. 
Conclusion: Adherence rate to ART in children is relatively low. Adhrence of patients with long ART time 
should be monitored in order to help their care-givers deal with difficulties. Adherence consultation should be done 
more carefully. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải 
(Acquired Immunodeficiency Syndromes-AIDS) 
do virus gây suy giảm miễn dịch ở người 
(Human Immunodeficiency Virus-HIV) ngày 
nay đã trở thành một đại dịch toàn cầu với số 
lượng bệnh nhân ngày càng tăng, trong đó có 
nhiều trẻ em. Việc điều trị thuốc kháng 
retrovirus (Antiretroviral-ARV) giúp cải thiện về 
mặt virus học, miễn dịch học cũng như lâm sàng 
của bệnh nhân. Sự thành công của việc điều trị 
thuốc ARV phụ thuộc phần lớn vào sự tuân thủ 
điều trị. Tại Việt Nam, chương trình khám và 
điều trị thuốc ARV miễn phí cho trẻ em bắt đầu 
từ năm 2006. Muốn nâng cao hiệu quả của việc 
điều trị, chúng ta cần biết mức độ tuân thủ điều 
trị thuốc ARV trên những bệnh nhi này như thế 
nào. Hiện tại chưa có nghiên cứu nào về vấn đề 
này được thực hiện tại Việt Nam. Vì vậy, chúng 
tôi thực hiện nghiên cứu này để xác định tỷ lệ 
tuân thủ điều trị thuốc ARV ở trẻ em nhiễm 
HIV/AIDS và sự liên quan giữa việc tuân thủ 
điều trị với một số yếu tố dịch tễ, lâm sàng của 
bệnh nhi và một số yếu tố dịch tễ, tâm lý xã hội 
của người chăm sóc của bệnh nhi. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. Phỏng vấn trực tiếp người 
chăm sóc trẻ và tham khảo hồ sơ bệnh án để 
đánh giá sự tuân thủ và xác định các yếu tố tâm 
lý xã hội của bệnh nhi và người chăm sóc có liên 
quan đến sự tuân thủ. 
Tiêu chí chọn mẫu 
Bệnh nhi nhiễm HIV/ AIDS đã điều trị ARV 
và đến tái khám tại phòng khám B7 Bệnh viện 
Nhi đồng 1 từ tháng 3/2008 đến 6/2008. 
Tiêu chí loại ra 
Người chăm sóc (NCS) không đồng ý trả lời 
phỏng vấn. Người đưa bệnh nhi đến tái khám và 
lãnh thuốc ARV không phải là NCS thường 
xuyên của bệnh nhi. 
Cỡ mẫu 
N=(Z21-α/2 p (1-p))/d2, với p=0,84 (Tỷ lệ tuân 
thủ đầy đủ thuốc ARV trong 3 ngày qua ở trẻ em 
trong nghiên cứu của Williams và CS, với 
phương pháp đánh giá tuân thủ bằng bảng câu 
hỏi cho người chăm sóc(16)), Z1-α/2=1,96, d=0,05. 
Vậy N=207. 
Định nghĩa biến số: Tuân thủ điều trị 
- Bệnh nhi được xem là có tuân thủ điều trị 
thuốc ARV trong 3 ngày trước thời điểm phỏng 
vấn NCS nếu NCS trả lời rằng không quên cho 
bệnh nhi uống một liều thuốc ARV nào trong 3 
ngày qua. 
- Bệnh nhi được xem là có tuân thủ điều trị 
thuốc ARV trong suốt thời gian điều trị thuốc 
ARV nếu NCS trả lời phỏng vấn là không bao 
giờ quên cho bệnh nhi uống liều thuốc ARV nào 
trong suốt thời gian điều trị thuốc ARV. 
Chuyên Đề Nhi Khoa 3 
- Bệnh nhi được xem là có tuân thủ điều trị 
thuốc ARV theo ghi nhận từ hồ sơ bệnh án nếu 
không có bất kỳ nhận xét nào sau đây trong hồ 
sơ bệnh án trong suốt quá trình điều trị thuốc 
ARV: 
- Không tái khám đúng hẹn 
- Bỏ tái khám 
- Không uống thuốc đủ liều 
- Uống thuốc không đúng cách 
- Tuân thủ kém 
- Bệnh nhân ói tự ngưng thuốc 
- Làm mất thuốc 
- Thiếu thuốc 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá 
bệnh nhi có tuân thủ điều trị thuốc ARV nếu 
bệnh nhi thỏa cả 3 điều kiện: 
(1) Bệnh nhi tuân thủ điều trị ARV trong 3 
ngày trước phỏng vấn và 
(2) Bệnh nhi tuân thủ điều trị trong suốt thời 
gian điều trị ARV và 
(3) Bệnh nhi tuân thủ điều trị theo ghi nhận 
từ hồ sơ bệnh án. 
Chúng tôi sử dụng tỷ lệ tuân thủ điều trị 
thuốc ARV theo 3 điều kiện kết hợp này trong 
các phân tích đơn biến và đa biến tìm mối liên hệ 
giữa sự tuân thủ điều trị với các yếu tố liên quan 
của bệnh nhi và người chăm sóc. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 6 năm 
2008, chúng tôi đã tiến hành khảo sát hồ sơ bệnh 
án của 213 bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS lây truyền 
từ mẹ sang con và phỏng vấn 213 NCS của các 
bệnh nhi này. 
Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV 
(1) Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong 3 
ngày qua là 94,4% (201/213 trường hợp). 
(2) Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong 
thời gian điều trị ARV là 73,2% (156/213 trường 
hợp). 
(3) Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV theo 
ghi nhận từ hồ sơ bệnh án là 74,6% (159/213 
trường hợp). 
 Tỷ lệ bệnh nhi có tuân thủ điều trị thuốc 
ARV theo sự kết hợp của 3 điều kiện là 57,7% 
(123/213 trường hợp). 
Các yếu tố thuộc về bệnh nhi và sự tuân 
thủ điều trị thuốc ARV 
Thời gian bắt đầu điều trị thuốc ARV 
Có 3 trường hợp không ghi nhận thời gian 
bắt đầu điều trị trong hồ sơ bệnh án nên chỉ có 
210 trường hợp được thu thập biến số này. Thời 
gian điều trị thuốc ARV trung bình là 13 tháng, 
ngắn nhất là 1 tuần, dài nhất là 4,6 năm. Bệnh 
nhân có thời gian điều trị thuốc ARV dài nhất đã 
được điều trị ARV tại một cơ sở khác trước khi 
tham gia điều trị tại phòng khám Bệnh viện Nhi 
đồng 1, vốn chỉ mới hoạt động từ tháng 3 năm 
2006. Chúng tôi thấy rằng những bệnh nhi 
không tuân thủ điều trị có thời gian điều trị 
trung bình là 15 tháng. Thời gian này dài hơn 
một cách có ý nghĩa thống kê so với thời gian 
điều trị trung bình của những bệnh nhi có tuân 
thủ điều trị là 9 tháng (p<0,01; t-test). 
Phác đồ thuốc ARV bệnh nhi sử dụng 
Chúng tôi nhận thấy có mối liên quan có ý 
nghĩa thống kê giữa phác đồ thuốc ARV của 
bệnh nhi và sự tuân thủ điều trị (p<0,05, χ2). 
Bảng 1: Phân bố sự tuân thủ điều trị theo phác đồ 
thuốc ARV của bệnh nhi 
 Sự tuân thủ Tổng 
 Không tuân thủ Tuân thủ 
AZT+3TC+NVP 34 30 64 
D4T+3TC+NVP 15 32 47 
AZT+3TC+EFV 17 33 50 
D4T+3TC+EFV 11 11 22 
AZT+3TC+ABC 6 6 
D4T+3TC+ABC 1 2 3 
TDF+3TC+LPV/r 2 5 7 
ABC+DDI+EFV 1 1 2 
Ph
ác
đ
ồ
AR
V 
D4T+DDI+NVP 1 1 
Chuyên Đề Nhi Khoa 4 
 Sự tuân thủ Tổng 
 Không tuân thủ Tuân thủ 
TDF+3TC+AZT+L
PV/r 
1 1 
3TC+EFV+ABC 1 1 
AZT+3TC+LPV/r 4 4 
ABC+DDI+LPV/r 3 2 5 
Tổng 90 123 213 
Số lượng thuốc ARV dạng si-rô bệnh nhi uống 
mỗi ngày 
Có 78 bệnh nhi được điều trị ARV dạng si-
rô. Số lượng trung bình thuốc si-rô các bệnh nhi 
này uống mỗi ngày là 28,8 ±14,9 ml. Lượng thấp 
nhất là 4 ml, lượng cao nhất là 64 ml. Chúng tôi 
nhận thấy số lượng thuốc ARV dạng si-rô bệnh 
nhi uống mỗi ngày ở những bệnh nhi không 
tuân thủ điều trị là 33,8 ml. Số lượng này cao 
hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với số 
lượng thuốc ARV dạng si-rô ở những bệnh nhi 
có tuân thủ điều trị là 15,9 ml (p<0,01; t-test). 
Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan giữa 
sự tuân thủ điều trị thuốc ARV với những yếu tố 
dịch tễ, lâm sàng khác của bệnh nhi như: tuổi, 
giới tính, dân tộc, nơi cư ngụ, tuổi lúc bắt đầu 
điều trị ARV, tỷ lệ phần trăm CD4 lúc bắt đầu 
điều trị ARV và lúc thực hiện nghiên cứu, giai 
đoạn lâm sàng khi bắt đầu điều trị ARV, số 
lượng thuốc ARV dạng viên bệnh nhi uống mỗi 
ngày, thuốc ARV tự mua (trước khi bệnh nhi 
tham gia chương trình điều trị ARV miễn phí), 
bệnh nhi tự uống thuốc ARV. 
Các yếu tố thuộc về NCS và sự tuân thủ 
ARV 
Các khó khăn gặp phải khi cho bệnh nhi uống 
thuốc ARV 
Có 65 NCS (30,5%) không gặp khó khăn gì 
khi cho trẻ uống thuốc ARV mỗi ngày. Trong 
148 NCS (69,5%) có gặp khó khăn, có 108 người 
(50,7%) có 1 khó khăn, 31 người (14,6%) có 2 khó 
khăn, 9 người (4,2%) có 3 khó khăn. Khó khăn 
thường gặp nhất là bệnh nhi hay ói khi uống 
thuốc ARV (29 trường hợp, 19,6%). Về phía 
NCS, khó khăn thường gặp là khi bệnh nhi hết 
thuốc ARV, họ quên đi lãnh thuốc ARV (18 
trường hợp, 12,2%). Khi NCS đi xa nhà (10 
trường hợp, 6,8%) hoặc bận rộn công việc khác 
(9 trường hợp, 6,8%) cũng là những khó khăn 
đáng kể trong việc cho bệnh nhi uống thuốc 
ARV. Đặc biệt, khi có nhiều NCS cho bệnh nhi (3 
trường hợp, 2%) hoặc ngược lại, NCS lo lắng sợ 
tiết lộ việc nhiễm HIV của bệnh nhân (2 trường 
hợp, 1,4%) đều có thể gây khó khăn cho việc 
tuân thủ. Chúng tôi nhận thấy những NCS gặp 
nhiều khó khăn khi cho bệnh nhi uống thuốc 
ARV mỗi ngày thì sự tuân thủ điều trị ARV kém 
hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với những 
NCS gặp ít khó khăn hơn (p<0,01, χ2). 
Bảng 2: Phân bố sự tuân thủ điều trị thuốc ARV theo 
số lượng các khó khăn NCS gặp phải khi cho trẻ uống 
thuốc ARV 
 Sự tuân thủ 
 Không tuân thủ Có tuân thủ Tổng 
0 14 51 65 
1 47 61 108 
2 22 9 31 
Số lượng 
các khó 
khăn 
3 7 2 9 
Tổng 90 123 213 
Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan có ý 
nghĩa thống kê giữa sự tuân thủ điều trị thuốc 
ARV với những yếu tố dịch tễ, tâm lý xã hội 
khác của NCS như: tuổi, giới tính, trình độ học 
vấn, nghề nghiệp, mối quan hệ với bệnh nhi (bố 
mẹ ruột hay không phải bố mẹ ruột), số con của 
NCS, những lý do uống thuốc ARV đầy đủ, hiểu 
biết về hậu quả của việc uống thuốc ARV không 
đầy đủ, phương tiện nhắc nhở uống thuốc ARV, 
việc thông báo việc nhiễm HIV của bệnh nhi cho 
người khác, việc thông báo tình trạng nhiễm 
HIV cho bệnh nhi, nhận biết thuốc ARV, sự tin 
tưởng vào khả năng uống thuốc ARV của bệnh 
nhi, niềm tin vào tác dụng của thuốc ARV, hiểu 
biết về sự kháng thuốc ARV nếu không uống 
thuốc đầy đủ, sự hỗ trợ kinh tế, sự hỗ trợ cho 
bệnh nhi uống thuốc ARV, niềm tin vào chất 
lượng của cơ sở y tế, nhận xét về nhân viên y tế. 
Chuyên Đề Nhi Khoa 5 
Phân tích đa biến các yếu tố có liên quan 
đến sự tuân thủ điều trị 
Để tìm hiểu mối liên quan thực sự giữa các 
yếu tố với sự tuân thủ điều trị thuốc ARV, chúng 
tôi phân tích đa biến hồi quy logistic bốn yếu tố 
có liên quan với sự tuân thủ điều trị thuốc ARV 
khi phân tích đơn biến. Chúng tôi nhận thấy thời 
gian điều trị thuốc ARV của bệnh nhi và số 
lượng các khó khăn của NCS khi cho bệnh nhi 
uống thuốc ARV có mối liên quan thật sự có ý 
nghĩa thống kê với sự tuân thủ điều trị (p<0,05). 
Bảng 3: Phân tích đa biến hồi quy logistic giữa sự 
tuân thủ điều trị và một số yếu tố liên quan 
Yếu tố liên quan B p R 
Thời gian điều trị thuốc ARV -0,925 0,0101 -0,2089 
Số lượng thuốc ARV dạng si-rô 
bệnh nhi uống mỗi ngày 
-0,380 0,0801 -0,1003 
Số lượng các khó khăn của 
người chăm sóc khi cho bệnh 
nhi uống thuốc ARV 
-0,8502 0,0126 -0,2001 
BÀN LUẬN 
Phương pháp nghiên cứu và tỷ lệ tuân thủ 
điều trị 
Nghiên cứu của chúng tôi có ưu điểm là cỡ 
mẫu khá lớn (213 trường hợp) so với khá nhiều 
nghiên cứu về tuân thủ điều trị thuốc ARV ở trẻ 
em nhiễm HIV/AIDS của các tác giả khác chỉ có 
từ 10 đến khoảng 100 trường hợp(1,4,5,6,7,8,9,10,12,13). 
Dân số nghiên cứu khá đại diện cho bệnh nhi 
nhiễm HIV/AIDS ở miền Nam Việt Nam, vì 
Bệnh viện Nhi đồng 1 là bệnh viện chuyên khoa 
nhi tuyến đầu của các tỉnh Nam bộ. Số lượng 
bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS điều trị thuốc ARV 
đến từ các tỉnh sấp sỉ số lượng bệnh nhi tại 
Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, những kết quả 
từ nghiên cứu của chúng tôi có thể áp dụng 
được cho những bệnh nhi HIV/AIDS tại miền 
Nam Việt Nam. 
Phương pháp phỏng vấn có ưu điểm là 
ngoài việc đánh giá về sự tuân thủ, nó còn giúp 
nhà nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề xung 
quanh việc tuân thủ khi họ phỏng vấn và trò 
chuyện với NCS của bệnh nhân. Từ đó, nhà 
nghiên cứu có cách tiếp cận phù hợp và hiểu 
được hoàn cảnh của NCS, từ đó có cái nhìn toàn 
diện hơn về đối tượng nghiên cứu của mình. 
Nhưng bên cạnh ưu điểm đó, phương pháp 
phỏng vấn có điểm yếu là có thể đánh giá quá 
cao sự tuân thủ. Người được phỏng vấn có tâm 
lý sợ bị phê bình nên có thể không nói thật về 
việc tuân thủ kém của mình. 
Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong 3 
ngày qua khá cao so với những nghiên cứu khác 
cùng sử dụng phương pháp phỏng vấn ở các 
nước phát triển(2,13,16). Có thể do những nghiên 
cứu này thực hiện phỏng vấn cả người chăm sóc 
và bệnh nhi, và bệnh nhi cũng có tuổi trung bình 
lớn hơn nghiên cứu của chúng tôi nên tỷ lệ tuân 
thủ qua phỏng vấn thấp hơn nghiên cứu của 
chúng tôi. 
Những nghiên cứu về tuân thủ điều trị ARV 
ở trẻ em dùng phương pháp phỏng vấn NCS với 
thời gian nhớ lại dài hơn thường có tỷ lệ tuân 
thủ thấp hơn(1,7,12). Do đó chúng tôi cũng đánh 
giá tuân thủ điều trị trong suốt thời gian điều trị 
ARV của bệnh nhi. 
Các nghiên cứu tuân thủ điều trị thuốc ARV 
dùng phương pháp đánh giá khác ngoài phương 
pháp phỏng vấn hoặc kết hợp cả phương pháp 
phỏng vấn và phương pháp khác thường cho tỷ 
lệ tuân thủ điều trị thấp(4,11,13). Để tăng tính chính 
xác và khách quan, chúng tôi đã kết hợp 2 
phương pháp phỏng vấn và thu thập nhận xét 
về tuân thủ điều trị ARV trong hồ sơ bệnh án. 
Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV theo 3 điều 
kiện là 57,7% 
Với tỷ lệ tuân thủ điều trị thấp như vậy, việc 
điều trị sẽ khó đạt kết quả tốt. Đây là một vấn đề 
nghiêm trọng và khẩn thiết cần phải nghiên cứu 
nguyên nhân. 
Các yếu tố có liên quan với sự tuân thủ 
điều trị ARV 
Thời gian điều trị thuốc ARV 
Chúng tôi nhận thấy những bệnh nhi tuân 
thủ tốt thì có thời gian điều trị ARV ngắn hơn 
một cách có ý nghĩa thống kê so với những bệnh 
nhi không tuân thủ đầy đủ, tương tự như một số 
Chuyên Đề Nhi Khoa 6 
nghiên cứu khác(9,10). Mặc dù đây chỉ là nghiên 
cứu cắt ngang tại một thời điểm, nhưng kết quả 
này cần được lưu ý khi tham vấn điều trị cho 
NCS của bệnh nhi trên lâm sàng. Những bệnh 
nhi đã điều trị thuốc ARV lâu dài vẫn cần được 
giám sát về mức độ tuân thủ và bác sĩ lâm sàng 
cần tìm hiểu những khó khăn nảy sinh làm ảnh 
hưởng đến khả năng tuân thủ điều trị nhằm tìm 
cách giúp đỡ cho những bệnh nhi đó. 
Phác đồ thuốc ARV 
Một vài nghiên cứu ở bệnh nhân HIV người 
lớn về loại thuốc ARV có liên quan đến tuân thủ 
điều trị kém thường là các loại thuốc PI do 
những thuốc này thường có vị khó uống và 
nhiều tác dụng phụ(14,15). Trong khi đó nghiên 
cứu của Elise và cs (2003) ở trẻ em vùng Bờ Biển 
Ngà lại thấy bệnh nhi dùng Efavirenz thì tuân 
thủ điều trị kém hơn(3). 
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi lại 
nhận thấy bệnh nhi dùng phác đồ 
AZT+3TC+NVP và phác đồ có các thuốc nhóm 
PI có tỷ lệ tuân thủ thấp hơn bệnh nhi dùng các 
phác đồ khác. Phác đồ AZT+3TC+NVP thường 
được dùng lâu dài cho trẻ từ nhỏ đến lớn nếu 
không có vấn đề kháng thuốc hoặc tác dụng 
phụ, do đó thời gian điều trị dài hơn trẻ dùng 
các phác đồ khác có thể gây nhiễu ở đây. Các 
phác đồ có chứa thuốc nhóm PI là phác đồ bậc 
hai, dành cho bệnh nhi điều trị phác đồ bậc một 
không thành công. Có lẽ những trẻ điều trị 
không thành công là những trẻ đã tuân thủ kém. 
Khi phân tích đa biến, yếu tố phác đồ điều trị 
không có mối liên quan với sự tuân thủ điều trị, 
có lẽ đây chỉ là yếu tố gây nhiễu. 
Số lượng thuốc ARV bệnh nhi uống mỗi ngày 
Bác sĩ lâm sàng cần cân nhắc khả năng uống 
thuốc ARV dạng si-rô của trẻ, đặc biệt khi trẻ 
phải uống nhiều loại thuốc điều trị và dự phòng 
nhiễm trùng cơ hội cũng ở dạng si-rô. 
Các khó khăn khi cho bệnh nhi uống thuốc 
ARV 
NCS gặp càng nhiều khó khăn khi cho trẻ 
uống thuốc ARV thì tuân thủ điều trị càng kém, 
tương tự một số nghiên cứu khác(7,13). Chúng tôi 
nhận thấy khó khăn thường gặp nhất là bệnh 
nhi hay ói khi uống thuốc ARV. Bác sĩ lâm sàng 
có thể giúp đỡ người chăm sóc bằng cách hướng 
dẫn cách cho bệnh nhi uống thuốc, báo trước 
thuốc nào có thể gây ói, khi cần thiết sẽ điều trị 
triệu chứng hoặc đổi thuốc ARV khác. Một khó 
khăn hay gặp nữa là bệnh nhi hết thuốc ARV và 
người chăm sóc không đi lãnh thuốc kịp. Nhân 
viên y tế có thể giải quyết khó khăn này bằng 
cách phát thuốc ARV dư một chút so với ngày 
dự định tái khám, hoặc nhắc người chăm sóc đi 
tái khám lãnh thuốc qua điện thoại. Nghiên cứu 
của Belzer và cs (1999) ở thanh thiếu niên cho 
thấy lý do không tuân thủ thường gặp nhất là có 
quá nhiều thuốc phải uống (1). Nghiên cứu của 
chúng tôi cũng có 2,7% người chăm sóc cho rằng 
có quá nhiều thuốc phải cho trẻ uống. Bác sĩ lâm 
sàng có thể giảm bớt gánh nặng về số lượng 
thuốc bệnh nhi phải uống bằng cách dùng 
những viên thuốc ARV kết hợp hai trong một 
(như Combivir) hoặc ba trong một (như FDC). 
Giả thuyết về nguyên nhân của sự tuân thủ 
điều trị 
Sau khi phân tích hồi quy đa biến, chúng tôi 
thấy rằng thời gian điều trị thuốc ARV dài hơn ở 
những bệnh nhi không tuân thủ, và NCS của 
những bệnh nhi kém tuân thủ gặp nhiều khó 
khăn khi cho bệnh nhi uống thuốc ARV. Phải 
chăng trong quá trình điều trị thuốc ARV đã 
phát sinh những khó khăn cho việc tuân thủ mà 
NCS chưa được nhân viên y tế đánh giá, phát 
hiện, tham vấn và giúp đỡ giải quyết? 
Tại Bệnh viện Nhi đồng 1, quy trình tham 
vấn trước và trong khi điều trị thuốc ARV rất chi 
tiết và cụ thể, nhưng mất nhiều thời gian và 
nhân lực. Trong khi đó, nhân viên y tế tại phòng 
B7 Bệnh viện Nhi đồng 1 vừa làm công việc điều 
trị thuốc ARV tại phòng B7 vừa làm công việc tại 
khoa Nhiễm của bệnh viện. Mặt khác, số lượng 
bệnh nhân tập trung đến tái khám và lãnh thuốc 
ARV rất đông trong hai ngày thứ tư và thứ sáu 
mỗi tuần (là ngày khám và phát thuốc ARV) làm 
Chuyên Đề Nhi Khoa 7 
cho việc tham vấn đúng quy trình rất khó thực 
hiện. 
Thực tế nhân viên y tế thường đánh giá tuân 
thủ điều trị khi bệnh nhi và NCS có biểu hiện rõ 
ràng như: lâm sàng bệnh nhi không tiến triển tốt, 
CD4 chậm hoặc không tăng, NCS thay đổi 
thường xuyên, bệnh nhi không đến tái khám 
đúng hẹn... Vì vậy, để cải thiện tỷ lệ tuân thủ 
điều trị thuốc ARV, nên có sự sắp xếp nhân lực 
và thời gian hợp lý cho việc tham vấn tuân thủ 
điều trị. Việc tuân thủ điều trị của bệnh nhi cần 
được nhân viên y tế chú trọng theo dõi đánh giá 
và phát hiện trong suốt quá trình điều trị của 
bệnh nhi, từ đó giúp đỡ NCS giải quyết những 
vấn đề khó khăn nảy sinh. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV ở bệnh nhi 
nhiễm HIV/AIDS tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 là 
khá thấp. Để nâng cao hiệu quả của việc điều trị 
thuốc ARV, cần cải thiện việc tuân thủ điều trị. 
Đối với những bệnh nhi có thời gian điều trị 
thuốc ARV lâu dài, nhân viên y tế cần tìm hiểu 
những khó khăn phát sinh trong việc cho bệnh 
nhi uống thuốc ARV và giúp đỡ người chăm sóc 
giải quyết những khó khăn đó. Việc tham vấn 
tuân thủ trước và trong khi điều trị thuốc ARV 
nên thực hiện theo đúng quy trình và thời gian 
của chương trình phòng chống AIDS quốc gia. 
Ngoài ra, nên có nghiên cứu về tuân thủ điều trị 
thuốc ARV với cỡ mẫu lớn hơn và bảng câu hỏi 
phù hợp để đánh giá việc tuân thủ điều trị và các 
yếu tố liên quan một cách chính xác. Từ đó đề ra 
những chiến lược can thiệp nhằm nâng cao tỷ lệ 
tuân thủ điều trị thuốc ARV trong tương lai. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Belzer, M. E., D. N. Fuchs, et al. (1999), "Antiretroviral 
adherence issues among HIV-positive adolescents and young 
adults", Journal of adolescent health, 25(5): 316-319. 
2. Dyke, R. B. V., S. Lee, et al. (2002), "Reported Adherence as a 
Determinant of Response to Highly Active Antiretroviral 
Therapy in Children Who Have Human Immunodeficiency 
Virus Infection", Pediatrics, 109: e61. 
3. Elise, A., A. M. France, et al. (2005), "Assessment of Adherence 
to Highly Active Antiretroviral Therapy in a Cohort of 
African HIV-Infected Children in Abidjan, Cote d’Ivoire", 
Journal of Acquired Immune Deficiency Syndrome, 40(498-500). 
4. Farley, J., S. Hines, et al. (2003), "Assessment of Adherence to 
Antiviral Therapy in HIV-Infected Children Using the 
Medication Event Monitoring System, Pharmacy Refill, 
Provider Assessment, Caregiver Self-Report, and 
Appointment Keeping.", Journal of Acquired Immune Deficiency 
Syndromes, 33(211-218. 
5. Gibb, D. M., R. L. Goodall, et al. (2003), "Adherence to 
prescribed antiretroviral therapy in human 
immunodeficiency virus-infected children in the PENTA 5 
trial", Pediatric Infectious Diseases Journal, 22: 56-62. 
6. Marhefka, S. L., J. J. Farley, et al. (2004), "Clinical assessment of 
medication adherence among HIV-infected children: 
examination of the Treatment Interview Protocol (TIP)", AIDS 
Care, 16(3): 323-337. 
7. Marhefka, S. L., L. J. Koenig, et al. (2008), "Family Experiences 
with Pediatric Antiretroviral Therapy: Responsibilities, 
Barriers, and Strategies for Remembering Medications", AIDS 
Patient Care and STDs, 22(8): 18 
8. Marhefka, S. L., V. J. Tepper, et al. (2006), "Caregiver 
Psychosocial Characteristics and Children’s Adherence to 
Antiretroviral Therapy", AIDS patient care and STDs, 20(6): 
429-436. 
9. Marhefka, S. L., V. J. Tepper, et al. (2006), "Brief Report: 
Assessing Adherence to Pediatric Antiretroviral Regimens 
Using the 24-Hour Recall Interview.", Journal of Pediatric 
Psychology, 31(9): 989-994. 
10. Martin, S., D. K. Elliott-DeSorbo, et al. (2007), "Patient, 
Caregiver and Regimen Characteristics Associated With 
Adherence to Highly Active Antiretroviral Therapy Among 
HIV-Infected Children and Adolescents", Pediatric Infectious 
Diseases Journal, 26: 61-67. 
11. Martinez, J., D. Bell, et al. (2000), "Adherence to antiviral drug 
regimens in HIV-infected adolescent patients engaged in care 
in a comprehensive adolescent and young adult clinic.", 
Journal of National Medical Association, 92(2): 55-61. 
12. Reddington, C., J. Cohen, et al. (2000), "Adherence to 
medication regimens among children with human 
immunodeficiency virus infection", Pediatric Infectious Diseases 
Journal, 19(1148-53. 
13. Steele, R. G. and D. Grauer (2003), "Adherence to 
Antiretroviral Therapy for Pediatric HIV Infection: Review of 
the Literature and Recommendations for Research", Clinical 
Child and Family Psychology Review, 6(1): 17-28. 
14. Sullivan, P. S., M. L. Campsmith, et al. (2007), "Patient and 
Regimen Characteristics Associated with Self-Reported 
Nonadherence to Antiretroviral Therapy", PLoS ONE, 2(6): 
e552, doi: 10.1371/journal.pone.0000552. 
15. Trotta, M. P., A. Ammassari, et al. (2002), "Treatment-Related 
Factors and Highly Active Antiretroviral Therapy 
Adherence", Journal of Acquired Immune Deficiency Syndromes, 
31(suppl315): S128-S131. 
16. Williams, P. L., D. Storm, et al. (2006), "Predictors of 
Adherence to Antiretroviral Medications in Children and 
Adolescents With HIV Infection", Pediatrics, 118: e1745-e1757. 
Chuyên Đề Nhi Khoa 8 
Chuyên Đề Nhi Khoa 9 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tinh_hinh_tuan_thu_dieu_tri_thuoc_khang_retrovirus.pdf